Chương 6
HỖ TRỢ TÂM LÝ HỌC ĐƯỜNG
MỤC TIÊU
Sau khi học xong chương này, người học:
Về năng lực
-
Hiểu bản chất và vai trò của công tác hỗ trợ tâm lý
trong nhà trường.
Hiểu những khó khăn tâm lý mà học sinh có thể gặp
phải.
Vận dụng được kiến thức đã học trong việc giúp học
sinh phòng ngừa, đối mặt và giải quyết các vấn đề của
bản thân với tư cách là một giáo viên.
Về phẩm chất:
-
Điều chỉnh thái độ và định kiến của bản thân về công
tác hỗ trợ tâm lý trong nhà trường.
-
Xây dựng lòng cảm thông và thấu hiểu đối với các trải
nghiệm của học sinh gặp khó khăn trong học đường.
Hiện nay, người ta ngày càng công nhận nhiều vấn đề
tâm lý đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc học tập của học sinh. Bộ
Giáo dục và Đào tạo đã sớm có các chỉ đạo triển khai các vấn
đề tâm lý xã hội trong tất cả các trường học, ở các cấp học, từ
trường Mâm non, Tiểu học đến Trung học và Đại học. Các
văn bản pháp quy về nhiệm vụ và quyền hạn của nhà trường
như Luật giáo dục, Điều lệ nhà trường hay các chỉ thị hàng
năm của Bộ GD&ĐĐT về nhiệm vụ năm học luôn đặt vấn đề về
1
công tác hỗ trợ tâm lý trong trường học.
Công tác hỗ trợ tâm lý học đường đã được nhận thức là
cấp thiết và bước đâu đã được triển khai như nhiệm vụ chnnh
thức trong các nhà trường ở các cấp học [5].. Tuy nhiên, hoạt
động này vẫn còn manh nha, rời rạc và rất non yếu do nhân sự
cho công tác này vẫn chưa được quy định và công nhận hợp
pháp. Hoạt động này chưa được pháp luật, thể chế giáo dục, y
tế và xã hội quy định nên còn rất đơn lẻ và chưa có tnnh hệ
thống [4].. Trong hoàn cảnh này, việc nâng cao hiểu biết cho
giáo viên về hoạt động hỗ trợ tâm lý trong trường học là việc
làm cân thiết trước tiên.
Chương 6 cung cấp cho người học kiến thức cơ bản về
công tác hỗ trợ tâm lý trong trường học, về vấn đề tâm lý của
học sinh trong trường học (từ những khó khăn thông thường
đến các rối loạn nghiêm trọng), cũng như định hướng cho
người giáo viên tương lai thực hiện tốt vai trò giáo dục của
mình ở lĩnh vực hỗ trợ tâm lý học sinh trong nhà trường.
6.1. Một số vấn đề chung về hỗ trợ tâm lý học đường
6.1.1. Vài nét về Tâm lý học trường học
Bối cảnh sống, học tập và rènn luyện của thế hệ trẻ trong
xã hội hiện đại chứa đựng nhiều yếu tố bất lợi, ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển nhân cách người học. Nhu câu được hỗ
trợ về mặt tinh thân để phát triển thuận lợi nhất ngày càng trở
nên cấp bách hơn đối với từng người học. Bản thân hoạt động
giáo dục trong các nhà trường cũng cân được làm phong phú
thêm với những hiểu biết sâu hơn về mặt tâm lý của học sinh
để tạo điều kiện thnch nghi hóa nội dung giáo dục th o các khả
năng và điều kiện của người học. Đáp ứng những nhu câu đó
Tâm lý học trường học (School psychology) đã ra đời vào đâu
2
thế ky XX, tại Mỹ. Đến nay, Tâm lý học trường học đã được
triển khai trên thế giới và đã góp phân thiết thực trong giải
quyết nhiều vấn đề của sự phát triển người học trong nhà
trường [5].. Tại Việt Nam, lĩnh vực này thu hút sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu, nhà giáo dục từ những năm 2000.
Tâm lý học trường học (TLHTH) là một lĩnh vực ứng
dụng các kiến thức của Tâm lý học lâm sàng, Tâm lý học phát
triển và Tâm lý học giáo dục, một mặt, nhằm nâng cao chất
lượng học tập của người học, nhất là đối với những trường
hợp khó khăn về học tập, thông qua đó giúp người học có
được điều kiện và cơ hội học tập cũng như phát triển bản thân
một cách tốt nhất. Mặt khác, lĩnh vực này giúp định hướng
cho hoạt động sư phạm của giáo viên và nhà trường, thông
qua việc cung cấp những thông tin về mặt tâm lý của người
học, tạo điều kiện thnch nghi hóa nội dung giảng dạy th o các
khả năng của người học, góp phân nâng cao hiệu quả của giáo
dục trong nhà trường.
TLHTH là một chuyên ngành thực hiện công việc đánh
giá nhằm phát hiện những học sinh có thể có khó khăn về
nhận thức, cảm xúc, xã hội, hay hành vi;h phát triển và thực
hiện các chương trình can thiệp tâm lý học cho học sinh, cố
vấn cho giáo viên, phụ huynh và các chuyên gia/ccán bộ
chuyên môn có liên quan;h tư vấn cho học sinh;h tham gia phát
triển và lượng giá chương trình;h nghiên cứu;h giảng dạy;h hỗ trợ
và giám sát cho những người đang học nghề.
6.1.2. Bản chất hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường
Hỗ trợ tâm lý học đường là một hệ thống ứng dụng các
tri thức tâm lý học vào thực tiên nhằm tạo ra các điều kiện
thuận lợi, tối đa giúp cho học sinh có thể tự quyết định hay
3
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống học đường của
mình th o hướng tnch cực để phát triển nhân cách toàn diện.
a) Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường nhằm hướng đến việc
chăm sóc sức khoẻ tâm thần (SKTT) cho các thành viên trong
nhà trường
Hoạt động hỗ trợ tâm lý trong trường học không chỉ là
nền tảng thiết yếu của việc giảng dạy và giáo dục mà còn là
một dịch vụ đặc biệt trong trường học, nhằm hỗ trợ tất cả
những ai tham gia vào cuộc sống học đường: người học, phụ
huynh, giáo viên, cán bộ nhà trường và những nhà quản lý
giáo dục ở tất cả các cấp học.
Hoạt động này nhằm hướng đến việc chăm sóc SKTT cho
các thành viên trong nhà trường, đảm bảo cho mọi người một
trạng thái tâm thân hoàn toàn thoải mái, cân bằng về cảm xúc,
hòa hợp giữa các mối quan hệ gia đình, xã hội. Trong trạng
thái đó, cá nhân nhận ra được các năng lực của chnnh mình, có
thể đương đâu với các str ss bình thường của cuộc sống, có
thể làm việc năng suất và hiệu quả và có thể đóng góp cho
cộng đồng, xã hội mà mình đang sống (th o định nghĩa của
WHO).
SKTT trong nhà trường trước đây thường được hiểu th o
nghĩa hẹp, chỉ nói đến những rối loạn hay bệnh lý tâm thân và
những vấn đề tâm thân khác. Ngày nay, khái niệm về SKTT
đã được mở rộng hơn, nó nhấn mạnh đến trạng thái tâm lý cá
nhân với các thuộc tnnh như sự cân bằng, sự hài hoà, sự thuận
lợi, thoải mái.... Tác giả Hoàng Trung Học [4]. đã tổng hợp
khái niệm SKTT như sau:
- SKTT là một trạng thái tâm lý cơ động, phát sinh do
những điều kiện chủ quan và khách quan nhất định.
4
- Trạng thái cơ động của SKTT về bản chất chnnh là sự
hài hoà của thế giới nội tâm, mang đậm chất chủ thể. Sự
hài hoà được tạo ra từ “tnnh liên kết” và “tnnh cân đối” từ
các thành phân trong cấu trúc tâm lý, từ đó tạo cảm giác
thoải mái cho cá nhân.
- Trạng thái cân bằng trong đời sống tinh thân giúp con
người có niềm tin vào giá trị bản thân, từ đó có cảm xúc
và hành vi ứng xử hợp lý trước mọi tình huống, có khả
năng tự hàn gắn để duy trì sự cân bằng tâm lý khi có các
sự cố bất ổn.
- Dấu hiệu quan trọng nhất của SKTT là cảm giác thoải
mái, khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển hài hoà các
mối quan hệ xã hội của chủ thể.
Như vậy hỗ trợ tâm lý trong nhà trường không phải chỉ là
giải quyết những khó khăn vướng mắc của người học mà còn
giúp họ ngăn ngừa các hiện tượng tiêu cực trong nhà trường
cũng như huấn luyện cho người học có các kỹ năng xã hội căn
bản để giúp học sinh ứng phó một cách tnch cực hơn với
những vấn đề trong học tập và cuộc sống.
b) Hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường bao gồm nhiều khía
cạnh khác nhau
Để đạt được mục tiêu lớn nhất của giáo dục là phát triển
nhân cách đúng đắn và toàn diện cho người học thì mọi hoạt
động trong nhà trường phải là một khối thống nhất, từ việc
dạy học đến giáo dục;h mọi tác động giáo dụ phải luôn nhất
quán với nhau, từ giáo viên, phụ huynh đến mọi thành viên
khác trong nhà trường. Như vậy, hoạt động này bao gồm rất
nhiều khna cạnh khác nhau xét ở người hỗ trợ, người nhận hỗ
trợ cũng như nội dung hỗ trợ.
5
Ở khna cạnh người hỗ trợ, một số trường đã trưng dụng
các giáo viên lớn tuổi, các chuyên gia tâm lý-giáo dục để giúp
đỡ các học sinh “có vấn đề” ở trường mình. Trong việc triển
khai công tác tư vấn cho học sinh thì Bộ Giáo dục và Đào tạo
cũng đã đề nghị bố trn giáo viên tâm lý, hoặc cán bộ Đoàn,
Đội, hoặc mời chuyên gia th o định kỳ để thực hiện công tác
hỗ trợ này.
Ngoài giáo viên, chuyên viên tham vấn thì tất cả lực
lượng giáo dục trong nhà trường đều có thể tham gia công tác
hỗ trợ tâm lý này (Ban giám hiệu, gia đình/c hội phụ huynh,
nhân viên công tác xã hội, nhân viên y tế, bảo vệ…)
Hoạt động hỗ trợ này cũng được tiến hành dưới nhiều
hình thức khác nhau tuỳ th o cơ cấu tổ chức của nhà trường.
Một số trường đã có phòng tâm lý học đường, với sự tham gia
chnnh thức của 2-3 chuyên viên tham vấn tâm lý - người điều
phối chnnh công tác hỗ trợ tâm lý - dưới sự giám sát về mặt
chuyên môn của và giám sát chung của Ban Giám hiệu
trường. Một số trường thì không có phòng tâm lý học đường
nhưng họ có liên kết với một trung tâm can thiệp tâm lý bên
ngoài. Một số trường khác thì giao hẳn việc này cho giáo viên
chủ nhiệm cùng kết hợp với bộ phận Đoàn, Đội trong nhà
trường.
Ở khna cạnh người nhận hỗ trợ, ngoài học sinh là nhân vật
chnnh được quan tâm nhiều nhất thì phụ huynh học sinh và các
lực lượng giáo dục trong trường như giáo viên, ban giám hiệu
và nhân viên trong trường đều là những người cân được hỗ trợ
tâm lý.
Nếu người nhận hỗ trợ là học sinh, các khna cạnh hỗ trợ
bao gồm:
6
-
Những hoạt động hướng vào nhóm học sinh bình
thường nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng để các m
có hiểu biết về bản thân, có năng lực ứng phó và xử lý
các các khó khăn tâm lý mà các m phải đối mặt qua
mỗi giai đoạn lứa tuổi.
-
Những hoạt động hướng vào nhóm học sinh có nhiều
nguy cơ gặp khó khăn tâm lý nhằm trang bị kiến thức
và kỹ năng để các m có thể phòng ngừa.
-
Những hoạt động hướng vào nhóm học sinh khuyết tật
(giác quan, vận động,..) đang học hoà nhập tại trường
nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng để các m nhanh
chóng hoà nhập trong môi trường học đường với học
sinh bình thường.
-
Những hoạt động hướng vào nhóm học sinh gặp khó
khăn tâm lý thông thường, cân được phát hiện sớm và
can thiệp kịp thời.
-
Những hoạt động hướng vào những học sinh có rối
loạn tâm lý nghiêm trọng cân được can thiệp chuyên
sâu tại các cơ sở trị liệu.
c) Nội dung các hoạt động trợ giúp tâm lý học đường bao
gồm: đánh giá tâm lý, dự phnng và phát trinn tâm lý, tư vấnn
tham vấn và trị liệu tâm lý ; và hoạt động điều phối [1]..
- Hoạt động đánh giá tâm lý nhằm định hướng cho các nhà
tâm lý học trong trường học. Hoạt động này nhằm: lập hoặc
bổ sung dữ liệu cho hồ sơ tâm lý học đường của học sinh;h xác
định phương thức và hình thức giúp đỡ học sinh khi các m
gặp khó khăn trong học tập, trong giao tiếp và những khó
khăn khác có liên quan;h lựa chọn phương tiện, công cụ và
hình thức trợ giúp học sinh trong quá trình học tập một cách
7
phù hợp nhất.
- Hoạt động dự phòng và phát triển tâm lý: hoạt động này
được tiến hành với tất cả học sinh trong trường học nhằm tạo
ra những điều kiện tâm lý – xã hội thuận lợi để học sinh có thể
phát triển tốt nhất về mọi mặt và nâng cao được chất lượng
cuộc sống tinh thân của mình. Hoạt động này bao gồm các
hoạt động cụ thể sau: Giáo dục các kỹ năng sống cho học
sinh;h Phát hiện và bồi dưỡng năng khiếu ở học sinh hoặc bồi
dưỡng các nhân tài, thân đồng;h Chân đoán sớm các rối nhiêu
tâm lý có thể xuất hiện ở học sinh;h Hạn chế đến mức tối đa
các rối nhiêu tâm lý học đường ở học sinh.
- Hoạt động tư vấn, tham vấn tâm lý cho học sinh, giáo viên
và phụ huynh dành cho các vấn đề liên quan đến học tập và
các mối quan hệ trong trường học. Trong các đối tượng trên
thì người thường được tham vấn là các m học sinh. Nhưng,
nhiều khi các m tìm đến với hoạt động trợ giúp tâm lý để
được tham vấn không phải xuất phát từ nhu câu của các m
mà do yêu câu của giáo viên hoặc phụ huynh.
- Hoạt động trị liệu tâm lý: với hoạt động này, nhà tâm lý học
đường trở thành nhà trị liệu cho học sinh, giúp học sinh vượt
qua các rối nhiêu tâm lý. Song, đây không phải là một nhiệm
vụ ưu tiên của nhà tâm lý học đường. Bởi vì, chỉ một mình
nhà tâm lý học đường thôi thì không đủ thâm quyền, chuyên
môn để tiến hành công việc này. Hơn nữa, số lượng học sinh
trong trường rất nhiều nên không thể tiến hành được hoạt
động này. Ở một số quốc gia khác, hoạt động này được xếp
vào giới hạn chuyên môn của nhà tâm lý học đường.
- Hoạt động điều phối: với hoạt động này, học sinh, phụ
huynh, giáo viên se nhận được sự giúp đỡ về xã hội – tâm lý
8
của các cơ sở trợ giúp ngoài khuôn khổ trường học. Hoạt động
này chỉ diên ra khi học sinh, giáo viên, phụ huynh cân sự trợ
giúp đặc biệt vượt ra ngoài chức năng, thâm quyền của nhà
tâm lý học đường;h khi bản thân nhà tâm lý học đường không
đủ kiến thức, kinh nghiệm để trợ giúp học sinh;h khi nhà tâm lý
học đường gặp một vấn đề nào đó mà sự giải quyết vấn đề ấy
chỉ có thể thực hiện được khi ở ngoài không gian học đường,
ngoài các mối quan hệ học đường.
Như vậy, hoạt động hỗ trợ tâm lý học đường không
những trợ giúp học sinh phòng ngừa, tránh được các rối nhiêu,
phát hiện và biết ứng phó với các khó khăn tâm lý thường gặp
mà hoạt động này còn kết nối nguồn lực trong toàn nhà trường
trong định hướng giáo dục.
6.3. Những vấn đề tâm lý của học sinh trung học
Đa số học sinh đều mong muốn cư xử phù hợp với mong
đợi của giáo viên, điều ngược lại chỉ xảy ra khi có một cái gì
đó có tnnh áp đảo ngăn cản họ. Vậy những khó khăn nào đã
ngăn cản học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập? Khó khăn nào
đã làm học sinh cư xử tồi tệ trong lớp học?
6.3.1. Những khó khăn tâm lý thường gặp của học sinh
a) Các nghiên cứu về những khó khăn tâm lý của học
sinh trung học [1].,[7].,[8]. đã đưa ra các nhóm khó khăn tâm
lý thường gặp ở học sinh:
-
-
Nhóm khó khăn từ chnnh bản thân: khó khăn trong giao
tiếp, mặc cảm tự ti về bản thân, đánh giá thấp bản thân,
cảm thấy buồn râu...
Khó khăn tâm lý trong học tập: khó tập trung ngh giảng,
khó tiếp thu bài, khó khăn trong việc ghi nhớ, khó khăn
trong việc vận dụng kiến thức đã học...
9
-
-
Khó khăn tâm lý trong các mối quan hệ: khó khăn trong
các mối quan hệ giữa cá nhân với bạn bèn, với thây/ccô
giáo, với cha mẹ...
Khó khăn trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai
Các kết quả nghiên cứu cũng có những nhận định chung
là những khó khăn tâm lý cụ thể chiếm tỉ lệ cao tập trung
nhiều ở các lĩnh vực học tập và trong việc lựa chọn nghề
nghiệp tương lai. Các tác giả cũng ghi nhận là học sinh nói
chung không có xu hướng sử dụng những hành vi tiêu cực để
giải quyết những khó khăn mà nghiêng về việc lựa chọn
những hành vi tnch cực hơn, như là lên kế hoạch cho hành
động tiếp th o, tìm hiểu nguyên nhân và tập trung sức lực,
quyết tâm tự mình vượt qua hoàn cảnh. Khi gặp khó khăn, các
m cũng hay tìm kiếm lời khuyên từ những người khác, đặc
biệt là lời khuyên từ những người đáng tin cậy. Tuy nhiên
cách ứng phó của các m có hoàn cảnh sống khác nhau là
tương đối khác nhau, các m có hoàn cảnh sống thuận lợi hơn
thì cách ứng phó có xu hướng tnch cực hơn.
b) Liên quan đến cảm xúc của học sinh trong học tập,
nếu như hứng thú học tập đã được nghiên cứu từ lâu thì sự
buồn chán chưa được quan tâm nhiều. Đây là một cảm xúc mà
giáo viên thường cho rằng do học sinh lười biếng, lo lắng
hoặc trâm cảm, hoặc do yếu tố cá nhân. Gân đây các nhà
nghiên cứu, đặc biệt là tại Đức và Canada, đã quan tâm đến sự
buồn chán trong học tập. Các nghiên cứu của họ đã cung cấp
thông tin rõ hơn về sự buồn chán này. Buồn chán được mô tả
như là một cảm giác, một cảm xúc, một tình trạng hay một trải
nghiệm tâm lý tiêu cực. Tâm trạng này có thể xảy ra cả khi
con người đang hoạt động hoặc không làm gì. Người mang
10
tâm trạng này gặp khó khăn trong việc tập trung, trong việc cố
gắng duy trì chú ý để biết sự việc xảy ra xung quanh mình.
Các nghiên cứu đã ghi nhận có khoảng 40% học sinh mang
tâm trạng này trong khoảng 30-50% thời gian học ở lớp, thậm
chn có khoảng 50% học sinh xác nhận là buồn chán mỗi ngày
đến trường. Chỉ có 2% khẳng định là chưa bao giờ buồn chán
trong lớp [9]..
c) Lo âu học đường (School anxi ty):
Lo âu là trạng thái cảm xúc chủ quan, thoáng qua hoặc
dai dẳng (lo âu dai dẳng thường do đặc điểm nhân cách) khi
con người phải đối đâu một sự đ dọa, một công việc khó
hoàn thành, một tình huống cụ thể nào đó trong cuộc sống…
thường thì các nguyên nhân này không có tnnh trực tiếp và cụ
thể, mơ hồ khó xác định, là ý thức của một người về tai họa
sắp đến, không rõ ràng, kènm th o trạng thái bất an, bồn chồn,
thậm chn hoảng loạn, rã rời trước tai họa sắp đến đó. Chủ thể
có cảm giác sợ hãi mơ hồ, khó chịu lan tỏa, kènm th o những
rối loạn cơ thể. Sợ được coi là một dạng lo âu bình thường, là
phản ứng tâm lý khi cá nhân cảm thấy có một tai họa có thực,
nó giúp cho việc chuân bị các giải pháp đảm bảo cho việc làm
chủ tai họa này. Vậy sợ hay lo âu bình thường là một cơ chế
thnch ứng với thế giới bên ngoài.
Lo âu học đường thường được định nghĩa là một tập
hợp các triệu chứng được nhóm lại thành nhận thức, phản ứng
tâm sinh lý và động cơ phát ra bởi một cá nhân trong tình
huống trường học mà có thể được coi là đ dọa và /c hoặc nguy
hiểm. Lo âu học đường có thể được nhóm lại thành bốn loại
chnnh: (a) lo sợ bị điểm kém và bị trừng phạt;h (b) lo sợ bị gây
11
hấn (bị sỉ nhục hoặc đ doạ);h (c) lo sợ bị đánh giá trong
trường (khi nói trước đám động);h và (d) lo sợ việc thi cử [11]..
6.2.2. Một số rối loạn tâm lý nghiêm trọng
Trong toàn bộ quá trình phát triển tâm lý cá nhân thì giai
đoạn tuổi học sinh trung học là giai đoạn phát triển tâm lý rất
phức tạp. Đây là giai đoạn mang tnnh bùng nổ và có phân nổi
loạn khi mà mỗi cá nhân chịu sự tác động cộng hưởng do
những thay đổi về mặt sinh lý cùng các tác động từ môi
trường xung quanh như: gia đình, nhà trường, xã hội cùng các
mối quan hệ từ các bạn đồng trang lứa. Sự thiếu kém về kỹ
năng ứng phó và thnch nghi với môi trường cũng như sự hạn
chế trong các mối quan hệ xã hội mang tnnh hỗ trợ - nâng đỡ
tâm lý (nhóm bạn thân, gia đình, những người mà bản thân tin
tưởng và chia sẻ những vấn đề khó khăn đang gặp phải) là
càng làm cho học sinh trung học trở nên khó khăn hơn, vất vả
hơn trong việc chấp nhận, ứng phó và vượt qua các thách
thức.
Nhóm tác giả Dương Thị Diệu Hoa, Vũ Khánh Linh và
Trân Văn Thức [2]., ghi nhận là có đến 28% học sinh ở trạng
thái “thường xuyên lo lắng không yên tâm”, đây là những học
sinh có nguy cơ cao dẫn đến sự lo âu và rối nhiêu tâm lý. Kết
quả đã phản ánh sự căng thẳng quá mức của số đông học sinh
THPT hiện nay trước áp lực từ gia đình, nhà trường và xã hội
đến đời sống của các m. Những m này cân được trợ giúp
kịp thời và đúng hướng, nếu không, các vấn đề khó khăn trên
có thể là biểu hiện một số rối loạn tâm lý nào đó. Một số yếu
tố mang tnnh nguy cơ cho an toàn sức khoẻ tâm thân trong quá
trình phát triển đã được đề cập như:
12
-
Phương thức giáo dục của gia đình: cha mẹ thiếu sự
quan tâm chăm sóc hoặc quá khắt kh và kiểm soát, xét
nét con cái.
-
Áp lực từ học tập, công việc và các mối quan hệ xã hội,
quan hệ nhóm bạn đồng trang lứa...
-
Một số tác động từ yếu tố truyền thông như các luồng
thông tin truyền thông thiếu khoa học, các trang w b
đ n với nội dung đồi trụy...
-
Sự thiếu vắng hệ thống hỗ trợ, nâng đỡ, chăm sóc phát
triển sức khỏ tâm thân trong nhà trường.
Một nghiên cứu [4]. được thực hiện trên 2549 học
sinh có độ tuổi từ 11-15 đã xác nhận những rối loạn liên
quan đến sức khỏ tâm thân trong nhà trường như:
-
Các rối loạn hành vi như đánh nhau, hành hạ động
vật, nói dối, lấy trộm đồ đạc, bỏ học, cờ bạc, bỏ nhà.
-
Các rối loạn khác như lo âu chiếm 12,3%, sợ bân
chiếm 10%, trâm cảm chiếm 8,4%...
-
Hành vi sử dụng chất gây nghiện: thuốc lá (1,22%),
rượu (0,88%);h ma túy (0,47%).
a) Rối loạn lo âu
Cảm giác giống như sợ, nhưng không có sự đ dọa rõ
rệt, sắp đến. Đây là lo âu bệnh lý, tình trạng lo âu xuất hiện
không có nguyên do, không liên quan tới một mối đ dọa rõ
rệt nào hoặc mức độ lo âu không phù hợp với nguyên nhân
gây ra nỗi lo âu đó. Trạng thái tâm lý này thường đi kènm với
các rối loạn cơ thể và rối loạn thân kinh thực vật, diên ra kéo
dài, gây trở ngại rõ rệt tới các hoạt động. Nếu không được
điều trị, lo âu có thể trở nên nặng hơn và tiếp tục gây ra những
13
vấn đề khi trẻ lớn hơn. Rối loạn này có thể làm cho trẻ mất
khả năng học tập, cũng như thiết lập quan hệ, thực hiện các
hoạt động xã hội và công việc sau này.
b) Trầm cảm
Trâm cảm ở trẻ m phổ biến hơn chúng ta tưởng. Có 1%
trẻ dưới 6 tuổi, 5% trẻ vị thành niên và 10% trẻ khuyết tật
từng trải qua một mức độ nhất định của trâm cảm trong một
thời điểm của cuộc đời. Điều đáng báo động là một trong
những hậu quả của tình trạng này là việc dọa tự tử ở trẻ. Ở
phương Tây, tự tử là một trong những nguyên nhân tử vong
hàng đâu của độ tuổi 15-24. Tình trạng này xuất phát một
phân từ bối cảnh kinh tế-xã hội ngày nay: trẻ không được
người lớn chuân bị đủ chnn chắn để đón nhận khó khăn của
các giai đoạn trong cuộc đời.
Trâm cảm, dù ở mức độ và thể loại nào đi nữa, cũng có
đặc điểm chung, đó là tnnh khn trâm cảm, chậm tâm vận động
và rối loạn thực thể.
Tính khí trầm cảm: Đó là một nỗi buồn lớn dai dẳng và
xâm chiếm cuộc sống hàng ngày, thể hiện qua cái nhìn lờ đờ,
thái độ rụt rèn, nói năng nhỏ nhẹ, khép knn, đôi khi cáu gắt,
giận dữ. Sự trống vắng, buồn chán và thờ ơ làm trẻ mất sinh
động. trẻ tìm kiếm cảm giác một mình và có thể trải qua nhiều
giờ một cách thụ động rồi mệt lả đi trước truyền hình. Trẻ
không tự thấy yêu mình, đánh giá thấp về bản thân là đặc
điểm hàng đâu cân lưu ý.
Chậm tâm vận động: Sự đình trệ tâm vận động ở trẻ thể
hiện bằng biểu hiện mệt mỏi từ lúc sáng thức dậy, trê nải, tư
thế khựng lại. Trong trường hợp ngược lại, nó cũng có thể
biểu hiện ra ngoài bằng một hành vi knch động. Trẻ trở nên
14
hung dữ với người xung quanh nhưng cũng có thể với bản
thân, những lúc này trẻ trở nên nguy hiểm cho chnnh mình.
Rối loạn thực thn: Thông thường trẻ hết thấy ngon
miệng, ở trẻ nhỏ nổi bật là việc không thènm ăn, biếng ăn. Giấc
ngủ cũng thay đổi: mất ngủ hoặc ngủ quá nhiều. Một loạt dấu
hiệu tâm thể đi kènm như đau bụng, đau đâu, cho đến những
biểu hiện phức tạp hơn như uống rượu, dùng ma túy. Đó là
những hành vi nguy cơ thường đi kènm với trâm cảm. Mỗi dấu
hiệu, riêng lẻ hoặc xuất hiện cùng nhau, đều phải được đặc
biệt quan tâm, nhất là khi chúng xuất hiện trở lại hoặc trở nên
trâm trọng hơn cùng với thời gian.
Trâm cảm và thất bại trong học tập thường đi đôi với
nhau. Trẻ trâm cảm thấy mình không có khả năng đương đâu
với những yêu câu của đời sống xã hội và của học đường. Trẻ
không chịu được sự cạnh tranh với bạn bèn. Những khó khăn,
những thay đổi hành vi và tnnh khn của trẻ càng khiến bạn bèn
chú ý. Một trẻ có khó khăn thường chọn cách phản kháng để
tránh hoặc từ chối việc học. Bị xâm lấn bởi cảm giác chán
nản, không hài lòng, trẻ không có hứng thú hoc. Nếu người
lớn không nhanh chóng phát hiện và tìm cach đối thoại với trẻ
thì thất bại trong học tập se càng trở nên hiển nhiên.
c) Nghiện game, internet
Th o báo cáo nghiên cứu về Int rn t và công nghệ của
Công ty Nghiên cứu thị trường P arl R s arch (Mỹ), năm
2011, Việt Nam có hơn 10 triệu người chơi gam onlin .
Trong số người sử dụng Int rn t thì có đến 53% là chat và
chơi gam onlin . Nghiện gam onlin đang là vấn đề gây bức
xúc xã hội bởi những hệ lụy ngày càng nghiêm trọng...
15
Vị thành niên là độ tuổi dê nghiện gam onlin vì đó là
lúc trẻ muốn tự khẳng định mình nhưng chưa có kinh nghiệm
sống, rất muốn khám phá những điều mới lạ. Hơn nữa, những
trẻ dê bị nghiện gam thường do được gia đình quá nuông
chiều, bố mẹ bận rộn nt có thời gian cho con cái, không quản
lý giờ giấc của con. Những m nhạy cảm, thiếu sự gắn bó với
người thân, sống khép knn, nt giao tiếp cũng dê sa đà vào trò
chơi này.
Trò chơi điện tử không phải chỉ đ m lại những điều tiêu
cực cho con người. Nhiều nghiên cứu cho thấy gam cải thiện
một số điểm sau ở người sử dụng: nâng cao tnnh tự tin, mức
độ giao tiếp với gia đình và bạn bèn, nâng cao cảm giác làm
chủ bản thân. Người ta còn khẳng định rằng Int rn t giúp tạo
dựng những mối quan hệ bạn bèn qua việc chơi gam .
Tuy nhiên, khi đi đến mức lạm dụng (nghiện) Int rn t
nói chung, và gam nói riêng, tác động tiêu cực đến mọi mặt
đời sống xã hội của người sử dụng: bỏ bê học tập, sức khỏ
giảm sút, các vấn đề rối loạn tâm thân tăng lên, tách biệt với
xã hội thực tế, đổ vỡ các mối quan hệ xã hội, sức làm việc
cũng như năng suất công việc bị giảm đi một cách đáng kể.
Nghiện gam , trong một số trường hợp thái quá, còn kéo th o
những hệ lụy xã hội như: giết người, đánh nhau, bỏ học, sống
không mục đnch, ảo tưởng, tự sát...
Nhìn chung, giáo viên luôn cân tìm hiểu vấn đề tâm sinh
lý học sinh mình đang giảng dạy, trên cơ sở đó lựa chọn
phương pháp, hình thức dạy học phù hợp. Giáo viên gân gũi
học sinh hơn nữa, không chỉ thông qua giao lưu trong tiết học
mà nên chủ động trò chuyện, quan tâm tới học sinh để xóa đi
khoảng cách giữa người học và người dạy;h để thấu hiểu học
16
sinh;h biết được nhu câu và nguyện vọng của học sinh;h tránh
gây áp lực không cân thiết lên học sinh. Có thể nói rằng một
giáo viên giỏi se không cho phép học sinh cư xử tồi tệ trong
lớp và luôn đảm bảo học sinh hoàn thành nhiệm vụ học tập
của mình. Tuy nhiên, chúng ta còn mong mỏi một giáo viên
giỏi có thể làm được nhiều hơn thế. Họ không những giữ trật
tự trong lớp, đảm bảo học sinh làm việc th o đúng kế hoạch,
mà họ còn nhận thức được những khó khăn mà học sinh phải
đối mặt và có thể làm một cái gì đó để giúp đỡ học sinh.
6.3. Giáo viên và công tác hỗ trợ tâm lý học đường
6.3.1. Giáo viên - người cần được hỗ trợ tâm lý
Một nghiên cứu về những khó khăn tâm lý của giáo viên
trung học ghi nhận mối bận tâm lớn của giáo viên tập trung
vào học sinh. Hơn 50% người được khảo sát đều cho rằng họ
“Lúng túng trong việc sử dụng các biện pháp trách phạt học
sinh”, “Lúng túng trong ứng xử với những học sinh đặc biệt”,
“Khó kềm chế sự nóng giận trước học sinh”, “Không có thời
gian đn tiếp xúc, gần gũi với học sinh” và điều mà giáo viên
trung học bận tâm nhất là “Khó tìm kiếm sự hợp tác với cha
mẹ học sinh trong việc giáo dục học sinh”. Những vướng mắc
khác trong môi trường sư phạm (quan hệ đồng nghiệp, cấp
trên…) thì được ghi nhận nt hơn [8]..
Trong những trường hợp này giáo viên phải làm gì?
Nghiên cứu trên cũng đã tìm hiểu cách thức mà giáo viên
thường sử dụng để ứng phó với những khó khăn. Kết quả
nghiên cứu cho thấy, để giải quyết các khó khăn trong quan hệ
với học sinh, hâu hết giáo viên đều chọn cách “Tự tìm hinu và
khắc phục” và “Trao đổi với đồng nghiệp” và hơn 85% trong
số họ cho rằng đó là cách làm hiệu quả. Rất nt người chọn
17
cách “Bàn bạc trong hội đồng sư phạm” để giải quyết (10,4%)
nhưng số nt người này đã xác định đây là cách làm hiệu quả
(100%). Trao đổi với cha mẹ học sinh trong trường hợp cha
mẹ học sinh sẵn lòng hợp tác để giáo dục con m cũng là cách
mà nhiều giáo viên cho là rất hiệu quả trong việc giải quyết
những khó khăn với học sinh của mình, tuy nhiên vì đa số
giáo viên cho rằng “Khó tìm kiếm sự hợp tác với cha mẹ học
sinh trong việc giáo dục học sinh” nên chỉ có khoảng 50%
giáo viên chọn cách giải quyết này, và 100% trong số họ đã
khẳng định là “có hiệu quả”.
Việc trao đổi với chuyên viên tâm lý thì không được
giáo viên quan tâm nhiều để hỗ trợ những khó khăn trong
quan hệ với học sinh (22,9%) và trong số những người chọn
cách giải quyết này thì có 62,5% cho là “có hiệu quả”. Tuy
nhiên, đối với những khó khăn liên quan đến đồng nghiệp
hoặc cấp trên mặc dù chỉ có 28,7% giáo viên tìm đến chuyên
viên tâm lý nhưng tất cả họ đều khẳng định cách giải quyết
này là có hiệu quả. Còn việc chọn cách “Trao đổi với người
khác” (như người thân trong gia đình hoặc bạn bèn ngoài
trường) để giải toả những khúc mắc với đồng nghiệp hoặc cấp
trên và chỉ có 55% trong số họ khẳng định là có hiệu quả.
Điều này gợi lên suy nghĩ về mức độ tiếp cận của giáo viên
trung học đối với các dịch vụ tâm lý trong và ngoài trường
học, nếu như giáo viên có điều kiện tiếp cận các dịch vụ tâm
lý nhiều hơn thì có thể họ se được giúp đỡ một cách hiệu quả
hơn khi gặp những khó khăn hay vướng mắc trong công việc.
6.3.2. Giáo viên - người hỗ trợ tâm lý
Đã có không nt những tranh luận về vấn đề giáo viên có
thể thực hiện được việc hỗ trợ tâm lý không hay đây là công
18
việc chỉ riêng của chuyên viên tâm lý. Có ý kiến cho rằng,
giáo viên đảm nhận công việc này thì có nhiều lợi nch, đặc biệt
là giáo viên chủ nhiệm, là người thường xuyên tiếp xúc, gân
gũi và hiểu biết học sinh nhất, như là giáo viên giải quyết
được nhiều căng thẳng cho học sinh, giáo viên rút được kinh
nghiệm chung cho những học sinh khác sau khi giải quyết vấn
đề cho một học sinh, kỹ năng giáo dục của giáo viên được
nâng cao, giáo viên có tiến bộ rõ rệt trong cách cảm nhận và
hiểu rõ vấn đề của học sinh, giảm được các vấn đề trong quan
hệ với học sinh… Bên cạnh đó thì có ý kiến cho rằng không
nên để giáo viên đang giảng dạy tại một trường tham vấn cho
học sinh trường đó và đa số ý kiến thì cho rằng người làm
công tác hỗ trợ tâm lý phải được đào tạo bài bản: phải có kiến
thức về tâm lý học, giáo dục học, và các kỹ năng tư vấn (tham
vấn) thực tế, cũng như phải được trang bị kiến thức và kỹ
năng công tác xã hội.
Như vậy, cũng như chuyên viên tâm lý học đường, giáo
viên khi tham gia hoạt động hỗ trợ tâm lý phải tuân thủ các
nguyên tắc đạo đức và thuân thục một số kỹ năng cơ bản.
a) Một số nguyên tắc đạo đức trong hỗ trợ tâm lý
Việc tuân th o các nguyên tắc đạo đức nhằm tăng cường
trách nhiệm người trợ giúp, đảm bảo sự quan tâm tốt nhất có
thể cho người được trợ giúp. Sau đây là những nguyên tắc cơ
bản cân phải luôn tuân thủ:
Tôn trọng học sinh
Tôn trọng là cho mọi người quyền là chnnh bản thân họ, là
tin rằng mọi người có quan điểm riêng, suy nghĩ riêng và cảm
xúc riêng. Điều này nói lên rằng không nên tránh thúc ép học
sinh ra quyết định khi họ chưa sẵn sàng.
19
- Tôn trọng nhân cách học sinh
- Tôn trọng quyền tự quyết của học sinh
- Tôn trọng sự riêng tư của học sinh (trong những trường hợp
ngoại lệ, khi những thông tin cân được tiết lộ để ngăn chặn
mối nguy hiểm cho học sinh cũng như người khác thì cân phải
cho học sinh biết về việc phải tiết lộ những thông tin mà họ đã
trình bày).
Tôn trọng quyền của cha mẹ hoặc người giám hộ học sinh
Cân hiểu rằng gia đình luôn quan trọng trong cuộc
sống của mỗi người, vì vậy việc cố gắng tranh thủ sự tham gia
của gia đình và sự thông cảm của gia đình có một ý nghĩa rất
tnch cực trong hỗ trợ tâm lý.
Đảm bảo trạng thái tinh thần ổn định khi hỗ trợ tâm lý
Việc giáo viên quan tâm đến trạng thái tinh thân của mình
là tuyệt đối quan trọng. Bởi nếu không xuất phát từ một trạng
thái tinh thân ổn định, lành mạnh khi làm việc thì giáo viên
không thể tập trung vào các vấn đề khó khăn của học sinh.
b) Thái độ của người hỗ trợ
Quan tâm
Quan tâm đến người khác, đặc biệt là những người
đang bị tổn thương hoặc yếu ớt là vô cùng quan trọng, bởi nếu
không thực sự quan tâm đến lợi nch của học sinh thì giáo viên
khó mà thông cảm với họ, giúp họ đạt được những mục tiêu
đặt ra và giúp họ sống có nch hơn.
Nhiệt tình
Để tạo ra một bâu không khn tin tưởng, giáo viên phải thể
hiện thái độ nhiệt tình và thân thiện với học sinh, không phân
20
- Xem thêm -