Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình yêu đất nước qua 3 bài thơ bên kia sông đuống và 2 bài đất nước...

Tài liệu Tình yêu đất nước qua 3 bài thơ bên kia sông đuống và 2 bài đất nước

.DOCX
56
91
56

Mô tả:

MỤC LỤC 1. Tác giả, tác phẩm............................................................................................1 1.1. Về tác giả Hòang Cầm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm.................1 1.1.1. Hoàng Cầm...............................................................................................1 1.1.2. Nguyễn Đình Thi......................................................................................2 1.1.3. Nguyễn Khoa Điềm..................................................................................3 1.2. Về các bài thơ..............................................................................................4 1.2.1. Bên kia sông Đuống..................................................................................4 1.2.2. Đất nước....................................................................................................4 1.2.3. Đất nước (trích “Trường ca mặt đường khát vọng”)...............................5 2. Tình yêu quê hương đất nước - đề tài xuyên suốt nền văn học Việt Nam......5 2.1. Tình yêu quê hương đất nước thời kỳ trung đại...........................................5 2.2. Tình yêu quê hương đất nước trong văn học gia đoạn 1930 đến 1945........7 2.3. Tình yêu quê hương đất nước trong văn học giai đoạn 1945- 1975............8 2.4. Tình yêu quê hương đất nước 1975 - nay....................................................9 CHƯƠNG 2:........................................................................................................11 TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC............................................................11 TRONG “BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG” – HOÀNG CẦM, “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG..........................................................................11 1. Cảm hứng sáng tác........................................................................................11 2. Đất nước chịu nhiều đau thương, mất mát....................................................12 3. Đất nước với con người sống trọn tình trọn nghĩa........................................17 4. Đất nước với những giá trị lịch sử, văn hóa truyền thống lâu đời................20 5. Đất nước với những hình ảnh tươi đẹp.........................................................23 CHƯƠNG 3:........................................................................................................28 TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC............................................................28 TRONG “BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG” – HOÀNG CẦM, “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM NHỮNG NÉT ĐẶC SẮC RIÊNG......................................................................28 1. Nét đặc sắc về nội dung................................................................................28 1.1. Nỗi đau khi quê hương bị giặc chiếm đóng, tàn phá được thể hiện rất rõ trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm)............................................28 1.2. Hình tượng đất nước trong mối quan hệ giữa quá khứ và tương lai trong bài thơ Đất nước ( Nguyễn Đình Thi).................................................................31 1.3. Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài thơ Đất nước ( Nguyễn Khoa Điềm)...................................................................................................................33 2. Nét đặc sắc về nghệ thuật..............................................................................37 2.1. Giọng điệu..................................................................................................37 2.2. Nhịp thơ.....................................................................................................40 2.3. Ngôn ngữ thơ.............................................................................................43 2.4. Hình ảnh thơ...............................................................................................48 TIỂU KẾT...........................................................................................................53 CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1. Tác giả, tác phẩm 1.1. Về tác giả Hòang Cầm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm 1.1.1. Hoàng Cầm  Cuộc đời: Hoàng Cầm sinh ngày 22/2/1922, tại làng Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; nguyên quán làng Lạc Thổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.Tên thật là Bùi Tằng Việt (chữ ghép của Phúc Tằng và Việt Yên). Cha là Bùi Văn Nguyên, dạy học và làm thuốc. Mẹ là Nguyễn Thị Duất, bán hàng xén. Năm 1938, ông ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Bút danh Hoàng Cầm là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc. Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội nhà văn Việt Nam, được bầu vào Ban chấp hành. Ông rút khỏi hội nhà văn Việt Nam vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi. Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng Ông mất ngày 6 tháng 5 năm 2010 vì bệnh nặng tại Hà Nội.  Sự nghiệp sáng tác: Ông nổi tiếng với vở kịch thơ “Hận Nam Quan”, “Kiều Loan” và các bài thơ “Lá diêu bông”, “Bên kia sông Đuống”. Sự nghiệp sáng tác của ông rất đa dạng và phong phú. Ông để lại cho kho tàng văn học Việt Nam một số lượng tác phẩm lớn. Có thể kể ra một số tác phẩm tiêu biểu của ông :  Hận ngày xanh (phóng tác theo Lamartine 1940)  Bông sen trắng (phóng tác theo Andersen 1940) 1      Thoi mộng (truyện vừa, 1941) Hận Nam Quan (kịch thơ, 1944) Kiều Laon (kịch thơ, 1945) Tiếng hát quan họ(trường ca, in chung trong tập Của Biển 1956) Bên kia sông Đuống (tập thơ chọn lọc 1933) – giải thưởng nhà nước 2007  Lá diêu bông (tập thơ chọn lọc, 1933)- Giải thưởng nhà nước 2007  Về Kinh Bắc (tập thơ, 1994)  99 tình khúc (tập thơ tình, 1955) – Giải thưởng Nhà nước 2007 1.1.2. Nguyễn Đình Thi  Cuộc đời: Nguyễn Đình Thi sinh ngày 20 tháng 12 năm 1924 tại Luang Prabang (Lào), quê gốc ở làng Vũ Thạch, Hà Nội. Năm 1931theo gia đình về nước và đi học ở Hà Nội, Hải Phòng. Ông tham gia hoạt động cách mạng từ lúc 17 tuổi. Năm 1942, ông bắt đầu viết sách triết học. Năm 1943, tham gia hội văn hóa cứu quốc, là đại biểu tham dự Quốc dân Đại hội Tân Trào và được cử vào Ủy ban giải phóng Dân tộc Việt Nam. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, ông làm Tổng thư ký Hội Văn hóa Cứu quốc. Năm 1946, là đại biểu quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường Trực Quốc Hội, khóa I. Nguyễn Đình Thi còn được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 1996. Nguyễn Đình Thi mất ngày 18 tháng 4 năm 2003.  Sự nghiệp sáng tác: Nguyễn Đình Thi làm thơ từ những năm đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thơ ông có bản sắc và giọng điệu riêng, vừa tự do, phóng khoáng vừa hàm súc, sâu lắng suy tư, có những tìm tòi theo xu hướng hiện đại về hình ảnh và nhạc điệu. Sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Đình Thi đa dạng, phong phú. Ông sáng đa dạng về thể loại : truyện, tiểu luận, thơ, kịch và nhạc. Một số tác phẩm tiêu biểu : 2         Xung kích (1951) Vào lửa (1966) Mấy vấn đề văn học (1956) Người chiến sĩ (1958) Đất nước (1948-1955) Con nai đen Hoa và Ngần Người Hà Nội (1947) 1.1.3. Nguyễn Khoa Điềm  Cuộc đời: Nguyễn Khoa Điềm (tên khác là Nguyễn Hải Dương, sinh ngày 15 tháng 4 năm 1943) là một nhà thơ, nhà chính trị Việt Nam. Ông nguyên là ủy viên bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa IX; Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, bộ trưởng văn hóa - thông tin (nay là bộ văn hóa, thể thao và du lịch). Ông sinh tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hòa, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Thân sinh ông là nhà báo Hải Triều. Năm 1955 ông ra miền bắc học tại trường học sinh miền Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội khoa Ngữ văn năm 1964, cùng một khóa với Phạm Tiến Duật và Lê anh Xuân. Sau đó ông vào miền Nam hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên Huế; xây dựng cơ sở cách mạng, viết báo, làm thơ,… cho đến năm 1975. Trở thành hội viên Hội nhà văn Việt nam năm 1975. Năm 1994, Nguyễn Khoa Điềm ra Hà Nội, làm Thứ trưởng bộ văn hóa - Thông tin. Năm 1995, ông được bầu làm Tổng Thư ký Hội nhà văn Việt Nam khóa V. Năm 2001, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX, Nguyễn Khoa Điềm trở thành ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trung ương, trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương (2001-2006). Hiện nay ông về nghỉ hưu ở Huế, tiếp tục làm thơ. Năm 2000, ông được nhận giải thưởng của Nhà nước về văn học nghệ thuật.  Sự nghiệp sáng tác: 3 Nguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình cho mình một giọng điệu riêng. Ta bắt gặp những suy tư của anh đới với nhân dân, đất nước, những chiêm nghiệm về đời sống xã hội, nhân tình thế thái qua các tập thơ tiêu biểu :      Đất ngoại ô (1972) Mặt đường khát vọng (trường ca 1974) Ngôi nhà có ngọn lửa ấm ( 1986) Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990) Cõi lặng (2007). 1.2. Về các bài thơ 1.2.1. Bên kia sông Đuống Hoàn cảnh sáng tác: “Bên kia sông Đuống” ra đời năm 1948. Sông Đuống còn gọi là sông “Thiên Đức”, là một nhánh của sông Hồng nối với sông Thái Bình, chia tỉnh Bắc Ninh ra làm hai phần: Nam (hữu ngạn) và Bắc (tả ngạn). Khi giặc Pháp chiếm Nam phần Bắc Ninh thì Hoàng Cầm đang công tác ở Việt Bắc. Một đêm giữa tháng 4 năm 1948, Hoàng Cầm nghe tin giặc Pháp đánh phá quê hương mình, ngay trong đêm ấy dưới ngọn đèn dầu ông đã viết một mạch từ 12 giờ đêm đến gần sáng với “niềm căm giận và niềm thương cảm sâu sắc”. Bài thơ lần đầu tiên được đăng trên báo “Cứu quốc” tháng 6-1948 và nhanh chóng được phổ biến ra toàn quốc. Chủ đề tác phẩm: Bài thơ thể hiện hai trạng thái cảm xúc: đau thương và tự hào. Tự hào về truyền thống văn hóa lâu đời và vẻ đẹp trù phú của quê hương. Qua hồi ức của nhà thơ, một miền Kinh Bắc cổ kính và tươi đẹp hiện lên thật đáng trân trọng. Nhưng chính điều đó làm nên nỗi đau. Quê hương ấy đang bị giặc tàn phá, đang quằn quại dưới gót giày xâm lăng. “Bên kia sông Đuống” là dòng cảm xúc mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó với chúng ta suốt đời. 1.2.2. Đất nước Hoàn cảnh sáng tác: 4 Bài thơ được sáng tác suốt cuộc kháng chiến chống Pháp (1948-1955). Bài thơ được tổng hợp từ hai bài thơ “Sáng mát trong như sáng năm xưa” (1948), “Đêm mít-tinh” (1949). Bài thơ hoàn thành năm 1955 và và được đưa vào tập “Người chiến sĩ” (1956). Chủ đề tác phẩm Chủ đề bao trùm của bài thơ “Đất nước” là lòng yêu nước nồng nàn, tha thiết, ý thức độc lập tự chủ, lòng tự hào về đất nước và nhân dân anh hùng từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi vùng lên chiến thắng huy hoàng. 1.2.3. Đất nước (trích “Trường ca mặt đường khát vọng”) Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1971, ở giữa chiến khu Trị - Thiên, hướng về tuổi trẻ Việt Nam trong những ngày sục sôi đánh Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm viết “Trường ca mặt đường khát vọng” Nội dung: - Cảm nhận của tác giả vẻ đẹp của đất nước ở các phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa. - Khẳng định, nhấn mạnh tư tưởng đất nước là của nhân dân, của những con người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu và nghĩa tình sâu nặng. - Tình yêu, niềm tự hào của tác giả về quê hương đất nước Việt Nam. 2. Tình yêu quê hương đất nước - đề tài xuyên suốt nền văn học Việt Nam Văn học là dòng chảy không ngừng của thời gian, các nhà văn nhà thơ là thư ký trung thành của thời đại. Dân tộc Việt nam trải qua bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, những chiến tích oanh liệt của các vua hùng, tướng sĩ được tạc trên sổ vàng lịch sử. Lòng tự hào dân tộc cùng tình yêu quê hương đất nước sâu sắc chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình sáng tác văn chương của các nhà văn. Tuy mỗi giai đoạn có một cách thể hiện, một quan điểm khác nhau về tình yêu quê hương, đất nước, nhưng các tác phẩm vẫn gặp nhau ở một điểm chung đó là tinh thần dân tộc, lòng tự hào về những giá trị của đất nước. 2.1. Tình yêu quê hương đất nước thời kỳ trung đại Để giành lại được chủ quyền, dân tộc đã phải trả một giá đắt bằng bao nhiêu xương máu của nhiều thế hệ. Do đó, khi nước nhà được giải phóng, trong 5 văn học bừng dậy một ý thức khẳng định độc lập chủ quyền và xây dựng đất nước tự chủ, tự cường mạnh mẽ. Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc đã trở thành lập trường của những nhà yêu nước thời kì này. Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc, tình yêu đất nước từ tính chất cảm tính nó đã chuyển thành lý tính, có nội dung tư tưởng rõ ràng, có lý tưởng và tinh thần yêu nước đã phát triển thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước cũng chính là nguồn cảm hứng lớn của nền văn học trung đại. Yêu nước là niềm tự hào, tự tôn dân tộc, là lòng căm thù giặc sâu sắc với ý chí quyết tâm dẹp loạn, giành độc lập tự do; là lòng trung quân ái quốc; tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước sâu sắc, tố cáo tội ác của giặc; khát vọng hòa bình. Ngoài ra còn thể hiện ở nhiều cung bậc tâm trạng: buồn vui, sung sướng, hả hê hay tủi nhục, hân hoan trước vận mệnh dân tộc. Trong những thế kỷ đầu, văn học viết về những chiến công anh dũng, lấp lánh, ngập tràn tinh thần yêu nước. Chúng ta có thể thấy được lòng tự hào, tự tôn dân tộc trong bản tuyên ngôn đầu tiên của nước Đại Việt “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt. “Nam Quốc sơn hà nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư” Với giọng hùng hồn, vang dội, bài thơ alf lời khẳng định chủ quyền dân tộc và lời tuyên bố những hậu quả mà chúng sẽ phải gánh nếu đến xâm phạm nước ta. Yêu nước còn ở tấm lòng trung quân ái quốc, luôn xưng đế: “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” Tự hào lắm với nước Đại Việt với những phong tục tập quán riêng, trải qua bao đời nay nó đã trở thành “nền văn hiến” không thể xóa bỏ. Tình yêu quê hương đất nước còn thể hiện ở lòng căm thù giặc, một ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc như trong “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Yêu nước cũng thể hiện trong lòng tự hào. Tự hào về chiến công chống xâm lược, về truyền thống đấu tranh bất khuất, về một nền văn hóa lâu đời, về đất nước tươi đep, phong phú, về con người có bản lĩnh vững vàng, về cuộc sống yên vui. Những sắc thái này được bộc lộ trong nhiều tác phẩm như Bạch Đằng Giang (Trần Minh Tông), Quá Hàm Tử Quan (Trần Nhân Tông),.. Tình yêu đất nước thể hiện ở khát vọng hòa bình, mong muốn cuộc sống ấm no cho nhân dân “Đoạt sóc Chương Dương độ, 6 Cầm Hồ Hàm Tử quan Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử gian san.” (Phò giá về kinh) Ngoài ra tình yêu quê hương đất nước hay chủ nghĩa yêu nước còn là tình yêu thiên nhiên sâu đậm. . Đọc thơ Nguyễn Trãi, thiên nhiên như ùa về trong ta với bao cảnh đẹp “Một mình nhàn nhã khép phòng văn Khách tụng không ai bén mảng gần Trong tiếng quốc kêu xuân đã muộn Đầy xuân mưa bụi nở hoa xoan” Sắc tím của hoa xoan, của màn mưa bụi khép lại làm thi nhân rung động, làm lòng ta bỗng thấy xao xuyến, nhớ mãi. Ta còn bắt gặp một trời thu xanh ngắt cùng hình ảnh làng quê thân thuộc của đất nước thông qua những sáng tác trong chùm thơ thu của nhà văn Nguyễn Khuyến. Hay tình yêu quê hương còn được tang ẩn trong nổi nhớ da diết một mùi hương lúa sớm, một bát canh cua đồng béo ngậy giữa chốn phồn hoa đô hội xứ người “Lão tang diệp lạc tàm phương tận Tản đạo hoa hương giải chính phì. Kiến thuyết tại gia bần diệc hảo Giang nam tuy lạc bất như quy” (Quy hứng – Nguyễn trung ngạn) Con người Việt Nam có một lòng tự hào dân tộc cùng một tình yêu nước sâu sắc, khiến ta càng thêm trân trọng và tự hào hơn. Tình yêu thiên nhiên, yêu những hình ảnh bình dị, thân thuộc gắn liền với cuộc sống, lòng căm thù quân giặc sâu sắc cùng ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc chính là biểu hiện của chủ nghĩa yêu nước. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chặng đường dài rộng của nền văn học nước nhà. Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại mãi mãi tỏa sáng trong tâm hồn mỗi người. 2.2. Tình yêu quê hương đất nước trong văn học gia đoạn 1930 đến 1945 Giai đoạn 1930 đến năm 1945 văn học Việt nam có nhiều thay đổi, hình thành nhiều xu hướng khác nhau và được hiện đại hóa một cách sâu sắc và toàn diện. Văn học thời kỳ này chủ yếu xây dựng hình tượng người chiến sĩ giàu lý tưởng, có khát khao và sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc. 7 Văn học 1930 đến 1945 đã kế thừa và phát huy những truyền thống tư tưởng lớn của nền văn học lâu đời của dân tộc là chủ nghĩa yêu nước. Ở mỗi bộ phận, mỗi xu hướng văn học, lòng yêu nước và tinh thần dân tộc có mức độ, dạng biểu hiện khác nhau. Ở bộ phận văn học hợp pháp, nội dung ấy thể hiện ở sự phát hiện ra vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, của những truyền thống văn hóa của con người Việt Nam. Ở bộ phận văn học bất hợp pháp thì lòng yêu nước được biểu hiện một cách trực tiếp, là văn học ca ngợi những người chiến sĩ đấu tranh giải phóng dân tộc, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do của tổ quốc. 2.3. Tình yêu quê hương đất nước trong văn học giai đoạn 19451975 Đặc điểm của văn học Việt nam từ năm 1945-1975 là nền văn học vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Do hoàn cảnh lịch sử, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp và Mỹ, nhiều cuộc khởi nghĩa nổi lên đều bị đẫm máu, nhân dân ta phải chiến đấu để giành lại độc lập dân chủ nên tình yêu quê hương đất nước trong các tác phẩm văn học giai đoạn này chủ yếu mang âm hưởng ngợi ca kháng chiến, ngợi ca tình đồng đội, đồng chí cùng với sự đau xót trước vận mệnh dân tộc. Tùy theo từng hoàn cảnh riêng và từng góc độ cảm nhận riêng mà cách thể hiện tình yêu đất nước có những nội dung khác nhau, những tiếng nói thơ khác nhau. Ta bắt gặp ở thơ Quang Dũng tình yêu nước chính là ngợi ca những người lính đánh giặc, những người lính đã viết nên những huyền thoại và đã dành trọn tuổi trẻ cho vận mệnh dân tộc “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” Với Hoàng Cầm, tổ quốc là quê hương, tình yêu tổ quốc được cụ thể hóa sâu sắc và tha thiết trong tình yêu quê hương Kinh Bắc, một miền quê thơ mộng và trữ tình có dòng sông Đuống trôi lấp lánh giữa đôi bờ cát trắng mịn, giữa một màu xanh biếng biếc của dâu mía ngô khoai, và nhất là có những người con gái Kinh Bắc đẹp như trong tranh với nụ cười rạng rỡ, mê hồn: “Những cô hàng xén răng đen Cười như mùa thu tỏa nắng” Với Nguyễn Đình Thi, cảm hứng về tình yêu đất nước đã được nhà thơ tích lũy, trải nghiệm trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp, để đến những ngày chiến thắng trào ra mãnh liệt thành một tượng đài đất nước bằng thơ : Một đất nước hiền hòa mà bất khuất, kiên cường, tình nghĩa mà anh hùng – một đất nước đã trưởng thành tỏa sáng! “Súng nổ rung trời giận dữ 8 Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Còn đối với nhà thơ cách mạng Tố Hữu, Tổ quốc, tình yêu đất nước chính là tình yêu quê hương cách mạng, thủy chung gắn bó một đời với quê hương cách mạng. Bao trùm toàn bộ thơ sáng tác của Tố Hữu là lý tưởng cách mạng, vì cuộc đấu tranh giành độc lpaj dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, vì nhân dân. Trong lịch sử văn học cách mạng nước nhà, thật hiếm thấy nhà thơ nào lại có những tác phẩm mang đậm dấu ấn đặc trưng của mỗi giai đoạn lịch sử và đã đi vào lòng người như Tố Hữu. Tình yêu quê hương, đất nước thiết tha, sâu nặng đã hóa thân vào những vần thơ trữ tình chính trị đạt tới đỉnh cao về nghệ thuật thơ ca cách mạng. tiêu biểu là 6 tập thơ : Từ ấy, Việt bắc, Ra trận, lộng gió, máu và hoa, một tiếng đờn. Thơ của Tố Hữu và chính cuộc đời sống và cống hiến cho cách mạng, cho đất nước của ông là tấm gương sáng nhất về lòng yêu nước, tinh thần sẵn sàng hiến dâng tận cùng cho cách mạng, cho đất nước. “Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa Mình về mình lại nhớ ta Mái đình, Hồng Thái, cây đa tân trào” Trong những năm kháng chiến chống Pháp, tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu là một bức tranh toàn cảnh và sinh động về cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến. Bên cạnh đó, các tác phẩm văn xuôi cũng tập trung phản ánh, khắc họa hình ảnh con người Việt Nam bất khuất, anh dũng kiên cường. Là “người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi hay hình ảnh những người dân tộc nơi niềm núi yêu nước nồng nàn qua tác phẩm “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành. Tình yêu đất nước trong giai đoạn này đã thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phú và đa dạng. Tình yêu nước là nỗi niềm khắc khoải không nguôi trong tâm hồn con người Việt Nam nói chung và các thi sĩ nói riêng. 2.4. Tình yêu quê hương đất nước 1975 - nay Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thắng lợi mở ra kỷ nguyên hòa bình, thống nhất, độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Cuộc sống chuyển qua một trang mới với những khát vọng tự do, hạnh phúc muôn thủa của con người. Nền văn học chuyển từ nền văn học chiến tranh sang nền văn học thời hậu chiến, thời bình. Tình yêu quê hương đất nước văn học thời kỳ này là sự đồng cảm sâu sắc trước số phận của con người, là sự lột tả hiện thực cuộc sống thường ngày. Văn 9 học thời nay đạt được nhiều thành tựu, đa dạng về thể loại và nội dung ca ngợi tinh thần dựng xây đất nước, cuộc sống sau giải phòng của con người. Tình yêu nước được thể hiện thông qua niềm tự hào dân tộc với những sáng tác hướng ngợi ca đất nước, hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn. 10 CHƯƠNG 2: TÌNH YÊU QUÊ HƯƠNG ĐẤT NƯỚC TRONG “BÊN KIA SÔNG ĐUỐNG” – HOÀNG CẦM, “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN ĐÌNH THI VÀ “ĐẤT NƯỚC” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG. 1. Cảm hứng sáng tác “Bên kia sông Đuống” (Hoàng Cầm), “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi) và “Đất nước” (trích “Trường ca mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm dù được sáng tác ở những thời gian cụ thể không giống nhau, song điểm chung dễ nhận thấy nhất có lẽ chính là ở cảm hứng sáng tác. Cả ba bài thờ đều được sáng tác dựa trên cảm hứng về đất nước. Bằng tình yêu quê hương đất nước và những chiêm nghiệm của mình, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khoa Điềm đã dùng ngòi bút của mình để vẽ nên dáng hình đất nước ngàn năm lịch sử, trưởng thành từ những đau thương mất mát của bom đạn chiến tranh nhưng vẫn giữ được toàn vẹn những giá trị quý giá của dân tộc. Cụ thể, bài thơ “Bên kia sông Đuống” được Hoàng cầm viết ra trong một đêm “thức trắng” khi anh nghe tin giặc Pháp chiếm đóng và tàn phá quê hương Kinh Bắc thân yêu của mình. Đó là nỗi lòng của đứa con yêu gửi về quê mẹ với niềm xót xa căm giận và niềm tự hào yêu thương một vùng quê cổ kính đẹp giàu mà anh đã từng gắn bó suốt tuổi thơ. Bằng tình yêu quê hương tha thiết và lòng căm thù giặc sâu sắc, Hoàng Cầm đã dựng lên gương mặt vùng quê Kinh Bắc của mình thật chân thực nhưng cũng thật đẹp. Và từ trong đau thương, quê hương giàu đẹp ấy đã đứng dậy đánh giặc để chờ ngày giải phóng, đoàn tụ trong những mùa lễ hội mới. Gương mặt quê hương hiện lên trong bài thơ vừa đau thương, đẹp giàu đẹp, lại anh hùng – tình nghĩa; cảnh sắc và con người hòa quyện với nhau thành những ấn tượng đặc sắc khó quên. Trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, ta nhận thấy được những cảm xúc và suy ngẫm của ông về đất nước trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng thơ của tác giả kéo dài theo suốt hành trình kháng chiến, được nối kết với lịch sử oai hùng bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và liên tưởng mở rộng tới tương tai tươi sáng của cách mạng. Chủ đề và cảm hứng sâu sắc nhất của “Đất nước” chính là tình yêu quê hương đất nước, là ý thức độc lập tự chủ, niềm tự hào về Tổ quốc giàu đẹp, có truyền thống bất khuất anh hùng, là lòng ngường mộ Tổ quốc từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã quật khởi đứng lên chiến thắng huy hoàng. 11 Đoạn trích“Đất nước” (trích “Trường ca mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện rõ nét những suy nghĩ của tác giả về Đất nước trong sự hài hòa giữa các phương diện lịch sử, văn hóa, địa lý. Đặc biệt, đoạn trích thể hiện cái nhìn mới mẻ của tác giả về Đất nước: Đất nước là sự hội tụ và kết tinh bao công sức và khát vọng của nhân dân. Nhân dân là người làm ra và làm chủ Đất nước. Mặc dù ba bài thơ trên đều viết về cùng một đề tài, cùng một cảm hứng quê hương đất nước như vậy, nhưng chúng không hoàn toàn giống nhau và cũng không hề có sự trùng lặp. Trái lại, ở mỗi bài thơ đều có những đặc điểm riêng thể hiện phong cách riêng của từng tác giả. 2. Đất nước chịu nhiều đau thương, mất mát. Điểm chung thứ hai mà ta dễ dàng nhận thấy ở ba bài thơ chính là hình ảnh đất nước hiện lên với những đau thương, mất mát từ chiến tranh, do chính bọn quân xâm lược hung hãn gây ra. Cả ba bài thơ đều được khai sinh trong hoàn cảnh đất nước đang bị giày xéo bởi bom đạn chiến tranh, nhân dân phải chịu đựng biết bao nhiêu nỗi thống khổ, đọa đày từ lũ giặc cướp nước trong hai cuộc kháng chiến lớn của dân tộc: chống Pháp và chống Mỹ. Có lẽ chính vì hoàn cảnh sáng tác đặc biệt như vậy, cùng với tình yêu đất nước luôn nung nấu trong mỗi con người, mà cả ba bài thơ đều mang âm hưởng bi thương, mang cái buồn, cái căm phẫn đối với bọn giặc vô nhân tính. “Bên kia sông Đuống” được Hoàng Cầm miêu tả khá rõ nét hình ảnh một đất nước chịu nhiều đau thương trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi ấy quê hương Kinh Bắc của nhà thơ bị giặc tấn công, uy hiếp. Chính vì thế mà nhà thơ ở bên này sông Đuống nhìn sang bờ bên kia mà thương người mẹ già thương vợ con đang phải chịu sự nguy hiếp của bọn chúng. Mở đầu bài thơ, tác giả miêu tả Đất nước với những hình ảnh tươi đẹp và thanh bình. Hình ảnh Đất nước trước đây gắn liền với “dòng sông lấp lánh”, với bãi mía, bờ dâu xanh xanh, với “ngô khoai biêng biếc”, với “hương lúa nếp thơm nồng” thì ngay sau đó, khung cảnh yên bình ấy phút chốc trở nên thật hỗn loạn, xơ xác kể từ khi có dấu chân của bọn giặc tàn ác: “Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn” Càng thương quê hương đất nước, Hoàng Cầm càng căm phẫn lũ giặc tàn ác. Ông miêu tả bọn chúng bằng những dòng thơ đẩy căm hận và khinh bỉ, ví chúng chẳng khác gì chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu; tàn phá đến kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang. Cũng từ đây, giọng thơ bỗng trở nên đứt quãng khi chứng kiến Đất nước mỗi ngày bị lũ giặc giày xéo: 12 “Ruộng ta khô Nhà ta cháy” Giọng thơ đứt quãng, song nỗi buồn như kéo dài lê thê đến vô tận. Câu hỏi tự vấn “Bây giờ tan tác về đâu?” như một nốt trầm lặng buồn đến nao lòng bởi tất cả những hình ảnh tươi đẹp của xóm làng từ lâu giờ đây bị tàn phá chảng còn lại gì. Cùng với tâm trạng căm phẫn bọn giặc tàn ác, tiếc thương trước hiện thực đất nước bị dày xéo, Hoàng Cầm còn thể hiện tâm trạng buồn thương khi chứng kiến Đất nước đang phải trải qua nỗi đau bị cướp nước, hơn nữa ông còn miêu tả rất thực, rất cụ thể những tội ác của bọn giặc cướp nước: “Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo Xì xồ cướp bóc Tan phiên chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loang chiều mùa đông” Cuộc sống trước đây vẫn cứ thể bình dị trôi qua, những mẹ già “còm cõi gánh hàng rong”, những “nàng dệt sợi đi bán lụa”, những “cô hàng xén răng đen” cười như tỏa nắng , những hội hè đình đám của nhân dân ta,…tất cả những hình ảnh tốt đẹp ấy cứ lần lượt hiện ra trong tâm trí Hoàng Cầm. Đó là hình ảnh đất nước với một cuộc sống tốt đẹp, ấm no hạnh phúc, là ước mơ, là giấc “mộng bình yên” mà cả ngàn đời nay, nhân dân ta trải qua bao phen đắng cay trước sự tàn phá của chiến tranh vẫn luôn ấp ủ và luôn đấu tranh để thực hiện được ước mơ đó. Cuộc sông bình yên trong mơ ấy, khi trở về hiện thực, Hoàng Cầm đã diễn tả sâu sắc cuộc sống lầm than mà nhân dân ta đang phải chịu đựng khi bọn xâm lược tàn ác huênh hoang ở đất nước ta. Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới . Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân. “Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu 13 Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ” Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh. Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội . Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ: “Đã có đất này chép tội Chúng ta không biết ngươi hờn” Qua những hình ảnh đau thương của cảnh vật và con người nơi đây, ta thấy được sự độc ác của bọn cướp nước tàn bạo kia. Bao nhiêu hình ảnh của đất nước là bấy nhiêu đau thương đang giáng xuống những hình ảnh ấy. Bọn chúng không chừa ai từ con người đến cảnh vật, chúng bắt bớ chém giết. Quê hương hiện lên với những đau thương không hề nhỏ. Nhà thơ như thể hiện nỗi lo lắng như “rụng rời” bàn tay của mình, đất nước đau thương được tác giả ví như chính cơ thể của mình đang bị thương. Từ đó cho thấy, tình yêu quê hương đất nước được Hoàng cầm miêu tả như chính xương máu, ruột thịt của mình. Trong bài “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, hình ảnh Đất nước chịu nhiều đau thương từ chiến trang càng làm nổi bật lên sức mạnh và những giá trị trường tồn của Đất nước. Lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, quyết tâm đuổi vết chân giặc ra khỏi mảnh đất chưa bao giờ thôi thổn thức trong trái tim mỗi con người Việt Nam ta. Điều đó đã được minh chứng qua hàng ngàn năm lịch sử oai hùng chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ thuở mới khai thiên lập địa. Thấu hiểu được điều đó, Nguyễn Đình Thi đã mang những suy nghĩ của mình để tạo nên những vần thơ hay về một đất nước trong chiến tranh giải phóng, chịu đựng biết bao đau thương, căm hờn nhưng vẫn đứng lên chiến đấu bất khuất anh hùng. Trong những vần thơ hay về đất nước, có thể nói ít có hình ảnh nào thể hiện nỗi đau thương tang tóc của dân tộc và đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại cô đọng, hàm súc và gây ám ảnh sâu sắc như những hình ảnh trong hai câu thơ: “Ôi những cảnh đồng quê chảy máu Dây thép gai đâm nát trời chiều.” 14 Dấu ấn khốc liệt của chiến tranh bao phủ khắp nơi. Đạn bom quân thù cày nát mặt đất, triệt hạ sự sống. Ánh hoàng hôn đỏ hắt xuống khiến những cánh đồng quê như chảy máu. Hàng rào dây thép gai quanh đồn bốt giặc tua tủa chĩa lên như muốn đâm nát trời chiều vốn tĩnh lặng, bình yên. Cả hai chiều không gian đều in đậm bóng dáng sự tàn phá, chết chóc của chiến tranh. Từng chữ, từng câu thơ oằn nặng bởi cảm xúc đau thương, căm giận. Cuộc sống êm ả xưa kia giờ không còn nữa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đau thương. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống mảnh đất này. Ở đoạn thơ cuối, dường như tác giả dồn hết tâm huyết để tô đậm hình ảnh đất nước từ trong đau thương đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Đó là hình tượng cao đẹp về đất nước muôn đời, về sự vươn mình vĩ đại của đất nước trưởng thành từ máu lửa, bom đạn của chiến tranh: “Từ những năm đau thương chiến đấu Đã ngời lên nét mặt quê hương Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu Đã bật lên những tiếng căm hờn Bát cơm chan đầy nước mắt Bay còn giằng khỏi miệng ta Thằng giặc Tây thằng chúa đất Đứa đè cổ đứa lột da.” Nỗi đau xót như thấm sâu vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh tiêu biểu tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt hình ảnh “Bát cơm chan đầy nước mắt/ Bay còn giằng khỏi miệng ta” đã nói lên tột cùng tội ác của quân thù và tột cùng sự tủi cực của nhân dân ta trong vòng nô lệ. Nhưng bạo lực của kẻ thù đã không thể bắt chúng ta phải khuất phục: “Xiềng xích chúng bay không khóa được Trời đầy chim và đất đầy hoa Súng đạn chúng bay không bắn được Lòng dân ta yêu nước, thương nhà Khói nhà máy cuộn trong sương núi Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng Ôm đất nước những người ảo vải Đã đứng lên thành những anh hùng” Từ thực tế kháng chiến gian nan và hào hùng, Nguyễn Đình Thi đã viết nên những câu thơ khái quát về sự mất mát, hi sinh của đất nước cùng quyết tâm giành lại chủ quyền độc lập tự do của dân tộc ta. Cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất, trán đẫm mồ hôi và mắt ngời hi vọng, rắn rỏi mạnh mẽ bước tới tương lai: 15 “Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh Trán cháy rực nghĩ trời đất mới Lòng ta bát ngát ánh bình minh.” Kết thúc bài thơ là hình ảnh đất nước từ trong đau thương, căm hận và máu lửa chiến tranh đã hiên ngang đứng dậy, tự khẳng định mình trước lịch sử và nhân loại: “Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lừa Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.” Ở “Đất nước” (Nguyễn Khoa Điềm), khi thưởng thức trọn vẹn bài thơ, có lẽ điều gây ấn tượng nhất đó chính là giọng văn hết sức tha thiết, hào hùng, nhịp điệu linh hoạt cùng với những suy tưởng về đất nước đã khiến ta có những cảm nhận mới mẻ và niềm tin về tương lai tươi sáng về Đất nước. Xuyên suốt bài thơ, Đất nước hiện lên với những hình ảnh thật thanh bình. Và dù rằng chẳng kể nhiều về những đau thương, mất mát mà cả dân tộc ta đã trải qua trong những cuộc kháng chiến đầy đau thương, trong những cuộc chiến mà nhân dân ta phải hy sinh xương máu để giữ lai từng mảnh đất thiêng liêng, chỉ với vài câu thơ điểm qua,“Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm vẫn đủ để ta có thể hình dung về một đất nước đã dày dặn trải qua những cuộc đấu tranh đẫm máu nhưng vẫn hiên ngang vượt qua chúng một cách đầy oai hùng. Có thể thấy, ở “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã thật tài tình khi nhắc lại truyền thống yêu nước của nhân dân ta từ thuở xa xưa: “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” Hay: “Gót ngựa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại” Khi đọc đến những câu thơ này, bất chợt hình ảnh Thánh Gióng năm nào dũng cảm nhổ tre làng đánh đuổi giặc Ân xâm lược bỗng ùa về, gợi nhắc về lịch sử chống giặc ngoại xâm hào hùng của nhân dân ta và những năm tháng đất nước ta đã oằn mình hứng chịu những cuộc chiến đẫm máu. Khác với “Bên kia sông đuống” của Hoàng Cầm và “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nhắc về những năm tháng chiến tranh ác liệt, song ông lai kể lại với giọng điệu hết sức hào hùng. Biết bao nhiêu con người đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc, biết bao nhiêu máu xương đã đổ, biết bao nhiêu sự hy sinh thầm lặng của nhân dân ta trong những cuộc đấu tranh ác liệt ấy thật không kể xiết. Và chỉ với năm câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm đã thật sự tạc nên hình vô số những con người đã hy 16 sinh vì sự tồn vong của Đất nước. Câu thơ mang tính khẳng định “…họ đã làm ra Đất nước” một lần nữa khẳng định vai trò của hàng ngàn lớp người đã dũng cảm hy sinh vì Đất Nước, đó chính là hồn thiêng của dân tộc. Đất Nước hôm nay có tầm vóc để sánh vai với các cường quốc năm châu chính là nhờ sự hy sinh, xương máu của cả thế hệ ông cha ta đi trước: “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ta Đất Nước” 3. Đất nước với con người sống trọn tình trọn nghĩa Đất nước với một quá khứ hào hùng hiện lên rõ trong từng trang văn của mỗi bài thơ. Và trong quá khứ hào hùng ấy, để Đất nước có một tương lai tươi sáng như ngày hôm nay, chắc chắn không thể thiếu được hình ảnh những con người bất khuất, anh dũng, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Đất nước chính là hóa thân của hàng ngàn con người đã hy sinh và cả những con người đang sống, cống hiến cho sự tồn tại của dân tộc. Đất nước tồn tại được chính là nhờ những con người sống trọn tình trọng nghĩa với quê hương, đất nước. Điều này được thể hiện rất rõ qua bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Dân tộc ta có lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là một quá khứ bi thương nhưng rất hào hùng của dân tộc. Chính cái quá khứ ấy đã hun đúc làm nên bề dày truyền thống của dân tộc, làm cho dân tộc vẫn tồn tại đến ngày hôm nay qua bao cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội về nhiều mặt như quân số, kinh tế, vũ khí... chúng ta thắng kẻ thù bằng sức mạnh của lòng yêu nước. Chính vì vậy mà trong đoạn trích “Đất nước”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc nhở, khuyên nhủ thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá khứ của dân tộc: “Em ơi em Hãy nhìn rất xa Vào bốn nghìn năm đất nước” Sỡ dĩ, tác giả muốn nhắc nhở trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước bởi lẽ, ông hiểu rất rõ, để đất nước tồn tại và phát triển đến hôm nay chính là nhờ cả ngàn người đã ngã xuống, đổ máu vì độc lập, tự do của dân tộc. Nhà thơ mong muốn thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi nguồn cội của mình, đừng đánh mất quá khứ, bởi quá khứ đã làm nên hiện tại, không có quá khứ thì làm sao có hiện tại. Nhìn về quá khứ rất xa để thấy được năm tháng nào cũng người người lớp lớp bất phân già trẻ, gái trai cũng luôn vừa cần cù làm lụng để kiếm 17 miếng ăn vừa đánh giặc cứu nước, bất chấp hy sinh, gian khổ, bất chấp trước bạo lực của kẻ thù: “Năm tháng nào cũng người người lớp lớp Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng Khi có giặc người con trai ra trận Người con gái trở về nuôi cái cùng con” Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết, họ sẵn sàng hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình chồng vợ để đi đánh giặc cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt. Hơn nữa, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là một chủ nghĩa yêu nước, anh hùng tập thể,bất phân già trẻ, đàn ông hay đàn bà: “Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh Nhiều người đã trở thành anh hùng Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng, bà Triệu... Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ, họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng mà nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất nước thật vô cùng to lớn. Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người “làm ra Đất Nước”: “Nhưng em biết không Có biết bao người con gái, con trai Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi Họ đã sống và chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt, đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất Nước” Điều này còn được nhà thơ khẳng định rõ trong hai câu thơ cũng ở trong trích đoạn này: “Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.” 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất