Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của ma văn kháng, tạ duy anh, hồ anh thái...

Tài liệu Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của ma văn kháng, tạ duy anh, hồ anh thái

.PDF
109
212
115

Mô tả:

PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn xuôi Việt Nam hiện đại thời kỳ đổi mới có dung lượng phản ánh rộng lớn hết sức sinh động. Bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, sự nghiên cứu nghiêm túc đối tượng phản ánh, các tác giả đã dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp. Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái là các nhà văn có đóng góp to lớn trong nền văn học hiện đại thời ký đổi mới. Trong sáng tác của họ, muôn mặt của bức tranh xã hội được miêu tả, được phản ánh một cách sâu sắc, đa chiều, đáp ứng được yêu cầu khách quan của cuộc sống, giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực. Luận văn được nghiên cứu xuất phát từ sự yêu mến và cảm phục của tác giả đối với những dòng tư tưởng chứa đựng giá trị nhân văn sâu sắc của ba nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái. Đây là các nhà văn có nhiều thành tựu trong việc dùng văn chương để đấu tranh cho cái thiện, cái chính nghĩa của cuộc sống. Với nhiều truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị hiện thực, các tác giả này đã ý thức được sứ mệnh viết văn là để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người. Luận văn nghiên cứu cách nhìn đa chiều, mới mẻ về con người và cuộc sống trong thời kỳ hậu chiến của các nhà văn Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái qua đó làm sáng tỏ những tác động và ảnh hưởng của một hiện thực còn ngổn ngang đến cuộc sống của con người như thế nào. Qua đây, luận văn cũng làm sáng tỏ cảm hứng chủ đạo của các nhà văn được thể hiện qua các tác phẩm, đó là cảm hứng phê phán mang tính tích cực để gióng lên những hồi chuông để cảnh tỉnh con người tránh xa tội ác, lừa lọc, phản trắc để xây dựng một xã hội với những con người có phẩm chất cao đẹp, sống có nghĩa tình, nhân hậu. 2. Lịch sử vấn đề Tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái rất phong phú về nội dung. Các bài viết về những tác giả và tác phẩm này đã khai thác nhiều vấn đề như đặc điểm cốt truyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách thức trần thuật, nghệ 1 thuật tự sự…Tuy nhiên, vấn đề cảm hứng phê phán chưa được đề cập tới một cách kỹ lưỡng trong các tác phẩm nghiên cứu. Ma Văn Kháng thành công cả về thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Từ những năm 80 trở lại đây, các tác phẩm của Ma Văn Kháng thu hút sự quan tâm của nhiều bạn đọc. Thể loại sáng tác của ông đa dạng hơn, hình thức nghệ thuật phong phú, nhân vật được xây dựng với nhiều tính cách điển hình cho con người thời đại mới, tư tưởng hiện đại, tiến bộ. Ở mảng tiểu thuyết thế sự đời tư của nhà văn, giới nghiên cứu phê bình đánh giá rất cao về những đóng góp của Ma Văn Kháng bởi ý tưởng sáng tạo và ý thức đổi mới tư duy của tác giả. Ông đã cho ra mắt bạn đọc 11 cuốn tiểu thuyết, 20 tập truyện ngắn và 3 tập truyện viết cho thiếu nhi. Gần đây, tập truyện ngắn mới nhất của Ma Văn Kháng mang tựa đề “Trốn nợ” (NXB Phụ nữ 2008) bao gồm 18 truyện ngắn đã ra mắt và gây được nhiều ấn tượng của bạn đọc. Với trên 40 năm lao động nghệ thuật, Ma Văn Kháng ý thức được sứ mệnh là viết để bảo vệ và khẳng định những giá trị chân chính của con người, của cuộc sống. Các tiểu thuyết viết về mảng thế sự đời tư của Ma Văn Kháng đã khẳng định được những giá trị nhất định: Các tiểu thuyết “Mưa mùa hạ”, (1982), “Mùa lá rụng trong vườn” (1985), “Côi cút giữa cảnh đời” (1989), “Đám cưới không có giấy giá thú” (1988), “Chó Bi đời lưu lạc” (1992), “Ngược dòng nước lũ” (1999) của ông đã thu hút nhiều sự quan tâm của nhiều độc giả. Phong Lê nhận định trong Vẫn chuyện văn và người (NXB Văn hoá thông tin - 1989): “Cuốn sách của Ma Văn Kháng đã vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ như nhiều cuốn sách khác. Nhưng thật lạ, anh lại đưa con người vào quỹ đạo những tình cảm nhân hậu, tốt lành, có thể nói đó là một hiệu quả thanh lọc, tẩy rửa tâm hồn con người. Cái hiệu quả thanh lọc dành cho nghệ thuật, và dường như cũng chỉ có nghệ thuật đích thực, nghệ thuật cao hơn cuộc đời mới làm nổi bật”. Tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú (1988) thực sự là một đổi mới mạnh mẽ của Ma Văn Kháng. Các bài viết: Phải chăng đời là một vại dưa hỏng của Vũ Dương Quý, Nếu đám cưới không có giấy giá thú của Nguyễn Văn Lưư; Đám cưới không có giấy giá thú có tính chất luận đề về mối quan hệ giữa những giá trị văn hoá với đời sống con người của Mai Thục và cuộc thảo luận về Đám cưới 2 không có giấy giá thú do Báo Văn nghệ tổ chức… đều đưa ra những nhận xét khá lý thú, bổ ích và công bằng về giá trị đích thực của đời sống cũng như những mặt còn hạn chế về mọi phương diện của tác phẩm, cả về mặt nội dung và nghệ thuật. Về cuốn tiểu thuyết Ngược dòng nước lũ (1999), Hồ Anh Thái nhận xét: “Cảm hứng phê phán mỗi ngày mạnh hơn cảm hứng trữ tình…Dường như tập hợp đầy đủ mọi thói tật nhỏ nhen đố kỵ, mọi mưu chước công chức hành chính ở đây. Văn chương cũng bị đẩy theo cảm hứng phê phán mà rậm hơn, xổng xểnh, lan man hơn”. Còn Lã Duy Lan trong bài viết Ngược dòng nước lũ - cuộc khám phá mới đầy tiềm năng vào nguồn văn chương, vào dòng đời cuộn chảy đã nhận xét: “Ngược dòng nước lũ sẽ đi vào đời sống xã hội như sự định hình vững chãi địa vị của văn chương trong kinh tế thị trường, mở ra cuộc khám phá đầy tiềm năng vào tận nguồn mạch văn chương, tận tầng sâu của dòng đời cuộn chảy, mà ở tác giả nội lực đã được chuẩn bị kỹ từ nhiều chục năm trước” [64]. Ngoài các bài viết trên, chúng ta có thể kể đến một số bài viết về tác phẩm của Ma Văn Kháng như: Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80 của Nguyễn Thị Huệ; Hỏi chuyện nhà văn Ma Văn Kháng của Lê Kim Vinh; Nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng của Đỗ Hải Ninh; Sống rồi mới viết của Ma Văn Kháng… và các luận văn thạc sĩ gần đây như: Nhân vật trí thức với sự đổi mới tư duy nghệ thuật của Ma Văn Kháng trong tiểu thuyết sau 1980 - Luận văn thạc sĩ của tác giả Phạm Thị Kim; Quan niệm nghệ thuật về con người tự nhiên trong sáng tác của Ma Văn Kháng sau năm 1975 Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Cẩm Giang; Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng - Luận văn thạc sĩ của Bùi Lan Hương… Đề cập đến cảm hứng phê phán trong sáng tác của Ma Văn Kháng, tác giả Nguyễn Văn Xuất có công trình nghiên cứu Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện đại (qua một số tiểu thuyết ở Liên Xô và Việt Nam). Đây là công trình nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong một số tác phẩm văn xuôi Liên Xô và Việt Nam. Trong luận án này, tác giả đã nghiên cứu về cảm hứng phê phán trong tác phẩm Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng dưới tư duy tiểu thuyết của nhà nghiên cứu Đôxtôiepxki. Trong mảng phê bình nghiên cứu về các tác phẩm thế sự đời tư của Hồ Anh 3 Thái đáng kể đến là những bài viết của các tác giả Nguyễn Thị Minh Thái, Nguyễn Anh Vũ, Ngô Thị Kim Cúc, Vân Long, Nguyễn Thị Phương, Trần Duy Hiển, Phạm Chí Dũng, Hoài Nam, Tuyền Lâm…Trong bài viết Hơn cả sự thật, Nguyễn Anh Vũ cho rằng: “Với cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái đã khai thác triệt để khả năng phản ánh một cách trọn vẹn và sinh động hiện thực đời sống của thể loại tiểu thuyết. Đọc tiểu thuyết này, ta không khỏi lo ngại trước lối sống của một bộ phận thanh niên trong xã hội hôm nay. Đó là một lối sống thực dụng, buông thả, ích kỷ, với những ham muốn điên loạn, cuồng loạn. Rõ ràng, họ không đại diện cho thế hệ trẻ đang tràn đầy sức sống, tài năng và nhiệt huyết trong xã hội ngày nay. Thế nhưng, ta vẫn không khỏi xót xa, ngậm ngùi cho những cảnh sống vô hồn, không hoài bão, lý tưởng đó. Nếu không cảnh báo, ngăn chặn, rất có thẻ đó sẽ là “mảnh đất màu mỡ” cho cái ác nảy mầm, tồn tại và phát triển” [38, tr 285-286]. Bàn về tiểu thuyết “Mười lẻ một đêm”, tác giả Hoài Nam nhận định: “Bằng tiếng cười, tác giả Mười lẻ một đêm đã phanh phui cái nhẽ ra không có quyền tồn tại song lại nghiễm nhiên đang tồn tại trong cuộc sống, và mặt khác, nhà văn cũng buộc người đọc phải nhận thức một sự thật: cuộc sống này, ở đây, bây giờ đều đang ngổn ngang, và chắc hẳn để có một trật tự tương đối, sẽ phải không mất ít thời gian và nỗ lực cho nó”. Cho đến nay, mặc dù chưa có chuyên luận nào viết về Hồ Anh Thái nhưng đã có một số luận văn viết về tác phẩm của anh. Đó là các luận văn của Nguyễn Thị Vân Nga (2004): Về tiểu thuyết cõi người rung chuông tận thế của Hồ Anh Thái; Ngô Thị Thu Hương (2007): Đặc điểm tiểu thuyết Hồ Anh Thái qua 3 tác phẩm “Người và xe chạy dưới ánh trăng, cõi người rung chuông tận thế, mười lẻ một đêm”, Võ Anh Minh (2005) Văn xuôi Hồ Anh Thái nhìn từ quan điểm nghệ thuật vì con người… Tạ Duy Anh là một tác giả mới của văn học đương đại, được nhiều bạn đọc yêu mến. Xuất hiện vào những năm 80 của thế kỷ 20, Tạ Duy Anh có thời gian sáng tác chưa thật dài so với các nhà văn khác. Chính vì vậy, các công trình khoa học nghiên cứu sâu về tác phẩm của Tạ Duy Anh chưa có nhiều. Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Hiện trạng tiểu thuyết Việt Nam đã đưa ra nhận định một cách khái quát về tác phẩm của Tạ Duy Anh: “Tạ Duy Anh sau Khúc dạo đầu còn chưa thoát 4 khỏi lối ghi chép tiểu thuyết đã cho ra mắt Lão Khổ - một cuốn sách mặn chát vị đời và lừng lững con người thời đại… Không ít tiểu thuyết hướng tới những vấn đề bức xúc của đời sống xã hội như Lão Khổ, Ăn mày dĩ vãng, Gót đỏ quyền uy…Trong tiểu thuyết hôm nay, con người được trình bày như một ẩn số. Bản chất con người là gì? Nó sống ra sao trong thời hiện tại…Lữ Quán của Hà Phạm Phú, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Lão Khổ của Tạ Duy Anh…đã gây một niềm tin tưởng rằng chúng ta đang được văn học như một phương tiện linh điệu để hiểu rõ con người” [43,tr. 14-15]. Tác giả Việt Hoài trong bài viết Tạ Duy Anh giữa lằn ranh thiện ác đã nhận định: “Vẫn là chuyện làng quê Bắc Bộ nhưng thời gian rộng hơn: từ những năm 1940-1990, dung lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhà văn cũng già dặn từng trải và kỹ thuật nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận như một bước tiến dài của Tạ Duy Anh …Thiên thần sám hối khiến ai đọc cũng có thể tìm thấy mình trong đó và hầu hết là giật mình, không tự vấn lương tâm thì cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ mặt, nhưng nó cũng không quá nghiệt ngã, ráo riết mà vẫn mở đường cho nhân vật - người đọc một lối thoát lương tâm [57]. Trong bài viết này, tác giả cũng đưa ra một số nhận định về nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình (…) Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở lằn ranh giới thiện - ác. Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn - đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân, với chính bản thân mình. [58]. Ngoài ra, nghiên cứu về tác phẩm của Tạ Duy Anh có bài viết: “Tạ Duy Anh - gương mặt nổi bật của văn đàn 2004” của Nguyên Trường, cuốn sách: Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh của Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà, NXB Hội Nhà văn 2007. Bên cạnh đó có một số luận văn đã đề cập đến vấn đề nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh. Qua khảo sát kết quả của những người đi trước, có thể nhận thấy những bài viết nghiên cứu về 3 tác giả Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh và Ma Văn Kháng chủ yếu liên quan đến những vấn đề về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật xây dựng cốt truyện…Tuy có đề cập đến những vấn đề còn tồn tại ngổn ngang trong xã hội nhưng những tác phẩm nghiên cứu chưa đề cập sâu sát đến vấn đề cảm 5 hứng phê phán. Bằng cách phân tích và tham khảo các ý kiến về tác phẩm của 3 tác giả, chúng tôi bước đầu nghiên cứu về vấn đề cảm hứng phê phán được thể hiện qua các tác phẩm nhằm làm sáng tỏ tư tưởng nhân văn tích cực mà các tác giả muốn gửi gắm tới độc giả. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích của đề tài: - Phân tích, đánh giá và làm nổi bật được cảm hứng phê phán được thể hiện qua các tác phẩm của 3 tác giả. - Chứng minh rằng sự phản ánh hiện thực cuộc sống của các tác giả không chỉ dừng lại ở việc miêu tả những bề bộn của thế sự - đời tư con người, không chỉ dừng lại ở việc tố cáo cái xấu cái ác. Các tác giả luôn nhìn nhận cuộc sống với niềm tin vào lẽ phải và cái thiện và do đó sáng tác của họ có tác dụng hướng con người đến với những giá trị đạo đức tốt đẹp của cuộc sống. 3.2. Nhiệm vụ của đề tài: - Khảo sát kỹ lưỡng nội dung và nghệ thuật trong các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái để chỉ ra được cảm hứng chủ đạo của các tác phẩm. - Vận dụng các phương pháp nghiên cứu văn xuôi hiện đại để thấy được những đóng góp của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái trong việc đổi mới tư duy nghệ thuật trong nền văn học hiện đại thời kỳ đổi mới. 4. Phạm vi tư liệu nghiên cứu Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi xin được phép chọn ra những tác phẩm tiêu biểu viết về mảng thế sự đời tư của các tác giả. Cụ thể là các tác phẩm: Đám cưới không có giấy giá thú (1989), Ngược dòng nước lũ (1999), Côi cút giữa cảnh đời (1989) của Ma Văn Kháng; Lão Khổ (2005), Đi tìm nhân vật (2004), Thiên thần sám hối (2005) của Tạ Duy Anh; Người và xe chạy dưới ánh trăng (1986), Cõi người rung chuông tận thế (2002), Mười lẻ một đêm (2006) của Hồ Anh Thái. 6 4 . Phương pháp nghiên cứu: - Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, so sánh, phương pháp thống kê, hệ thống, phương pháp thi pháp học với mong muốn tiếp cận tới cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại. 5. Bố cục của luận văn Luận văn bao gồm 3 chương: Chương I: Chân dung cái xấu trong diện mạo con người cụ thể Chương II: Tính nhân văn trong cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái Chương III: Nghệ thuật biểu hiện cảm hứng phê phán của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 7 Chương 1 CHÂN DUNG CÁI XẤU TRONG DIỆN MẠO NHỮNG CON NGƯỜI CỤ THỂ 1.1 Nhu cầu bức thiết của việc vạch trần cái xấu trong cuộc sống Một trong những chức năng cao đẹp, thanh khiết của văn học chính là nâng đỡ, thanh lọc tâm hồn con người, hướng con người đến những điều đẹp đẽ của cuộc sống. Lịch sử luôn luôn biến động không ngừng, mỗi giai đoạn văn học lại gắn với những nội dung phản ánh khác nhau. Nếu như dòng văn học cách mạng trước đây thiên về cảm hứng ca ngợi vẻ đẹp của quê hương đất nước, vẻ đẹp tâm hồn anh dũng bất khuất của con người Việt Nam thì nền văn học hậu chiến lại dành nhiều trang viết để tiếp cận những mảng khuất của cuộc sống, những dòng chảy tâm lý bên trong, những nỗi đau nhân thế âm ỉ dai dẳng đã và đang vẫn diễn ra trong cuộc sống thường nhật. Trong bất cứ giai đoạn xã hội nào đều tồn tại song hành hai thái cực trái ngược nhau đó là tốt - xấu, chính - tà, ánh sáng - bóng tối. Nhìn nhận và phản ánh về hai thái cực ấy trong mỗi giai đoạn văn học lại có những biểu hiện khác nhau. Trong giai đoạn văn học hiện đại, nhà văn đã có được độ lùi xa của khoảng cách thời gian để nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn dập của quá khứ xa cũng như gần, và phần lớn những trang viết đã đề cập đến những mảng khuất của cuộc sống vẫn đang ngày đêm âm ỉ sôi trào. Về vấn đề cảm hứng phê phán trong văn học, chúng ta có thể nhận thấy đây là vấn đề xuất hiện mạnh mẽ nhất trong văn học Việt Nam vào thời kỳ 1930- 1945 dựa trên những mâu thuẫn dân tộc và những mâu thuẫn giai cấp trong xã hội một cách sâu sắc lúc bấy giờ. Trước những năm 30 của thế kỷ XX, những tiền đề của chủ nghĩa hiện thực phê phán đã xuất hiện, trước hết là trong thơ trào phúng của Tú Xương, Nguyễn Khuyến, Học Lạc, Nguyễn Thiện Kế và sau đó là văn xuôi của Phạm Duy Tốn, Vũ Đình Long, Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Nam Xương….Tuy nhiên, bản thân những truyện, những tiểu thuyết và kịch của các tác giả nói trên chưa phải là những tác phẩm mang cảm hứng phê phán mạnh mẽ. Một số nhà văn 8 còn mang nặng quan niệm văn dĩ tải đạo, thường dùng nhân vật làm “cái loa phát ngôn” cho những lý thuyết về số kiếp, về quả báo của nhà Phật hay cho những nguyên tắc của luân lý đạo Nho hoặc những quan niệm cải lương phong kiến. Trong giai đoạn những năm 30 của thế kỷ XX, xã hội thực dân phong kiến ở nông thôn cũng như thành thị ngày càng bộc lộ những vấn đề nhức nhối đang tấy lên trầm trọng. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế thế giới (1929-1933) và thoái trào cách mạng, khuynh hướng lãng mạn xuất hiện và chiếm ưu thế trên đàn văn học công khai. Tuy nhiên, những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao vẫn lần lượt ra đời khẳng định vị trí của văn học hiện thực phê phán. Cảm hứng chung của văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 – 1945 đó là vạch trần bộ mặt xấu xa của xã hội thực dân phong kiến thối nát, phê phán một cách gay gắt các thế lực thống trị xã hội trên cơ sở cảm thông, yêu thương trân trọng con người nhất là những con người bị vùi dập, chà đạp. Trong những trang viết về hiện thực xã hội thời kỳ 1930-1945, ta thấy hiện lên một cách sinh động không chỉ về cuộc sống của người nông dân, mà còn đề cập đến thân phận của những người trí thức tiểu tư sản nghèo với số phận đầy trắc trở, khó khăn và bế tắc. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ văn học hiện thực phê phán phát triển rực rỡ hơn bao giờ hết, lực lượng sáng tác ngày càng đông đảo hơn. Ngoài Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Tú Mỡ, Vũ Trọng Phụng còn có thêm Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Lạp… Nếu như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng là những nhà văn tiêu biểu cho văn xuôi hiện thực phê phán những năm 1930-1939 thì Nam Cao lại là ngọn cờ tiên phong của văn xuôi trong những năm Chiến tranh thế giới thứ hai. Cùng với Nam Cao, xuất hiện hàng loạt các cây bút trẻ như Tô Hoài, Bùi Hiển, Mạnh Phú Tư, Kim Lân… Nối tiếp dòng văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945 là trào lưu văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa xuất hiện ở Việt Nam từ sau năm 1945. Trong một khoảng thời gian dài tồn tại và phát triển, dòng văn học này đạt được những thành tựu rực rỡ với những nhà văn có tầm cỡ như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Khải, Anh Đức, Nguyễn Minh Châu, … 9 Xã hội mới ở nước ta từ sau Cách mạng Tháng Tám đã biến chuyển một cách hùng hậu với các sự kiện to lớn diễn ra dồn dập, nhanh chóng vô cùng. Trong 30 năm chiến tranh cách mạng xảy ra, biết bao con người đã sống chung trong một bầu không khí tuy mất mát nhưng cũng hiển hách những chiến công vẻ vang nhất trong lịch sử dân tộc. Khí thế cách mạng như làn sóng lan nhanh đến từng vùng đất, làm thay đổi bộ mặt của từng thôn xóm, từng số phận con người. Và, cũng chính trong giai đoạn này, bản chất anh hùng cách mạng được kết tinh một cách rực rỡ trong những hình tượng anh hùng, chiến sĩ trong khi nếu ở xã hội cũ, những mặt tốt, những mặt anh hùng chìm đi, lẩn xuống chiều sâu, như một dòng nước chảy ngầm. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, có thể nói nhân dân ta “ra ngõ gặp anh hùng”. Những con người đẹp có tâm hồn trong như ánh sáng và hành động cao cả đã tạo nên một sức hấp dẫn kỳ diệu đối với các nhà văn để chúng ta có thể thấy được từng nét đẹp trong tâm hồn của những anh hùng chống thực dân Pháp ở Tây Nguyên, những dũng sĩ diệt Mỹ ở Củ Chi, những nữ anh hùng như Út Tịch ở Trà Vinh, Nguyễn Thị Hạnh ở Long An, Trần Thị Tâm ở Quảng Trị…và anh hùng Trần Thị Lý, bà mẹ Suốt, Nguyễn Văn Trỗi, anh giải phóng quân, những cô gái ở Ngã Ba Đồng Lộc… Tất cả họ đã trở thành những hình tượng mang vẻ đẹp lý tưởng trong thơ Tố Hữu. Hiện thực đấu tranh cách mạng trong giai đoạn cách mạng 1945-1975 cũng là mảnh đất màu mỡ cho sự phát triển của thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa. Để chiến đấu cho lý tưởng “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, biết bao nhiêu thế hệ đã lên đường hành quân “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Hiện thực cao cả đó là đối tượng của thi ca, đặc biệt là anh hùng ca. Tiểu thuyết miêu tả tất cả các sắc màu của cuộc sống bình thường hàng ngày, đó là: cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái thi vị và cái hiện thực, còn thơ ca thường nghiêng về cái đẹp, thi vị và cao cả. Cảm hứng về Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, về sự thắng lợi tất yếu của cách mạng, đó là chất thép, là nguyên tắc cơ bản của thơ ca hiện thự xã hội chủ nghĩa. Lý tưởng lúc đó như một niềm tin ở tương lai. Văn học thời kỳ sau năm 1945 có đặc điểm và quy luật phát triển riêng do yêu cầu của thời đại cách mạng - phản ánh kịp thời, ca ngợi nhiệt thành chủ nghĩa anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả. Nguyễn Khải là tác giả 10 với tư chất của một cán bộ chính trị, một quân nhân từng trải các vấn đề nóng hổi của xã hội như vấn đề chủ nghĩa cá nhân khoác áo tập thể (Truyện ngắn Tầm nhìn xa), vấn đề tôn giáo trong đời sống chung (truyện ngắn Xung đột), vấn đề hạnh phúc cá nhân trong đời sống chung (Truyện ngắn Mùa lạc). Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Khải thường phân tích sắc bén các mối quan hệ giữa con người với con người, quan hệ đạo đức mới xã hội chủ nghĩa. Những nhân vật của Nguyễn Khải có nhiều tỳ vết. Con người vẫn có thể là nô lệ của thói kiêu ngạo, ham thích phô trương và chuộng hình thức màu mè. Phong cách Nguyễn Khải chính là sự nhạy bén, phát hiện vấn đề. Nguyễn Khải nhìn đâu cũng thấy “vấn đề”. Ông khẳng định, con người vẫn có thể mất tự do nếu còn đố kỵ, chỉ nhìn và tìm thấy cái xấu của con người, nếu vị kỷ và thờ ơ trước số phận của người khác. Lối viết tỉnh táo, trí tuệ của Nguyễn Khải làm như tác phẩm của ông có vẻ như được viết thành các tuyến nhân vật đối lập nhau: tốt - xấu hay còn gọi là tích cực – tiêu cực. Văn học giai đoạn 1975-2000 phát triển phong phú, đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với giai đoạn 1945-1975. Nhờ có công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng năm 1986, xã hội Việt Nam có những chuyển động tích cực, tuy nhiên, văn học cũng đứng trước những thách thức mới trong cơ chế kinh tế thị trường luôn song hành tồn tại hai mặt tích cực và tiêu cực. Trong giai đoạn này, nổi bật những tác giả văn xuôi có tên tuổi như: Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Hảo, Y Ban, Trầm Hương, Trần Thanh Hà, Như Bình,… Điều đáng mừng nữa là lớp nhà văn thời kỳ trước như Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Nguyễn Kiên, Xuân Thiều… tiếp tục hăm hở viết, viết bằng cảm xúc sâu lắng. Văn học sau 1975 chú trọng nghiên cứu thực trạng tinh thần xã hội Việt Nam sau chiến tranh, đó là một hiện thực phức tạp, đa dạng, đan xen mặt sáng và tối trong đời sống cũng như những thay đổi tất nhiên trong nhận thức và tình cảm con người. Nhà văn nhờ ngọn gió lành của công cuộc đổi mới đã có thể nhìn thẳng vào sự thật, viết về mọi sự thật. Sau năm 1980, trong văn học đương đại hình thành khuynh hướng văn xuôi đời tư - thế sự, các nhà văn gọi là văn xuôi đời thường cùng tồn tại như một dòng quan trọng bên cạnh văn xuôi sử thi. Văn học có thể viết về mọi chuyện kể cả những điều phiền toái nhất của đời sống, văn học nói chung đã có 11 điều kiện nhìn sâu hơn vào thế giới sâu kín, những điều nhỏ bé của con người, về các trạng huống tinh thần tinh tế của nó trong thế giới tâm linh (truyện ngắn Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành của Nguyễn Minh Châu). Âm hưởng phê phán - sự phê phán trên tinh thần nhân văn, cầu thị vang lên mạnh mẽ: truyện ngắn Người không đi cùng chuyến tàu của Nguyễn Quang Thân, truyện ngắn Bức tranh của Nguyễn Minh Châu, truyện ngắn Gió từ miền cát của Xuân Thiều… Trong thời kỳ đổi mới, nhà văn đã có được độ lùi xa của khoảng cách thời gian để nhìn lại một cách toàn diện và sâu sắc hơn những sự kiện, biến cố dồn dập của quá khứ. Chính trong thời điểm đầy biến động này của hiện thực cuộc sống đã giúp nhà văn nhìn rõ những nét bản chất của hiện thực quá khứ và từ đó soi sáng những cái tưởng như mịt mùng hỗn mang của đời sống xã hội hiện tại. Nếu như trước đây, nhà văn chỉ kịp thời phản ánh được một vài khía cạnh của hiện thực, bộc lộ được một vài cảm xúc hoặc ca ngợi, hoặc phê phán thì giờ đây, bằng sự chiêm nghiệm sâu sắc, bằng sự nghiên cứu nghiêm túc đối tượng phản ánh, các tác giả đã có thể dựng lại những bức tranh chân thực và rộng lớn với tất cả sự đa dạng của hiện thực phong phú và phức tạp của đời sống với sự đan xen của cái cao cả và cái thấp hèn, cái thiện và cái ác…Nói cách khác, hiện thực cuộc sống với những chiều dài lịch sử khác nhau đã được phản ánh một cách đa diện, nhiều chiều mà trung tâm của nó là con người thời đại với những số phận cụ thể gắn liền với vận mệnh của dân tộc, đất nước. Và đặc biệt hơn, cảm hứng sử thi và cảm hứng đời thường không có sự tách biệt mà đã gặp nhau trong cảm hứng sự thật. Với định hướng tư duy sáng tạo như vậy, những tác phẩm viết theo xu hướng này đã đáp ứng được yêu cầu khách quan của cuộc sống, đã giúp người đọc nhìn rõ bản chất của hiện thực trong bối cảnh cuộc sống trắng đen lẫn lộn, thật giả khó phân tách, khó nhận biết. Điều đáng nói là, ở những tác phẩm viết theo hướng này, chất lý tưởng, vẻ đẹp rực rỡ của những tính cách nhân vật không hề bị hạ thấp mà càng cháy lên trong biết bao cái dữ dội, khốc liệt của cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác!... Cảm hứng phê phán trong văn học là một vấn đề đã được bàn đến từ lâu khi nói về văn học hiện thực XHCN và được xác định như một nhiệm vụ song song bên cạnh nhiệm vụ khẳng định, ca ngợi cái đẹp, cái anh hùng. Đồng chí Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Chúng ta cần khuyến khích sự phê phán và có nhiệm vụ phê 12 phán những cái xấu, cái không đúng còn tồn tại trong xã hội ta, để loại trừ nó, để phá bỏ nó” (Xây dựng nền văn hóa văn nghệ ngang tầm vóc dân tộc ta, thời đại ta, NXB Sự Thật, H. 1979, tr47). Nền văn học hiện thực XHCN đã vượt qua văn học hiện thực phê phán ở nhiệm vụ lịch sử mới của nó là khẳng định xu thế phát triển theo chiều hướng tiến bộ và chiến thắng của hiện thực mới - hiện thực tốt đẹp của xã hội XHCN. Văn học hiện thực XHCN của chúng ta chỉ thực sự là vũ khí đấu tranh cách mạng, đấu tranh cho những tư tưởng nhân văn của con người khi nó đồng thời làm tốt hai nhiệm vụ phê phán và khẳng định như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là nó phải “phò chính trừ tà”. Nhiều tác giả văn học thời kỳ hiện đại đã ngày đêm trăn trở, viết nhiều trang sách để phản ánh chân thực sự phức tạp, bề bộn của cuộc sống. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp thì Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là những tác giả tiêu biểu viết về đề tài này. Mỗi người một tâm sự, một cảm nhận khác nhau, nhưng ở đó tất cả đều là nỗi đau nhân thế khi phải chứng kiến sự thực cay nghiệt của cuộc sống. Sự xuống dốc trong quan niệm sống, thói tư duy giáo điều máy móc, sự tôn thờ chủ nghĩa vật chất, sự coi trọng quyền lực, con người sa đoạ, độc ác, giả dối… Muôn vàn những nhức nhối của cuộc sống được miêu tả trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái khiến ta thấm thía hơn bao giờ hết cái đa đoan, đa sự của cuộc sống thường nhật hôm nay. Viết không chỉ là phê phán thuần tuý, phủ định sạch trơn những mặt tiêu cực còn tồn tại trong xã hội, viết nhiều về cái ác nhưng các tác giả đều không hề mất niềm tin vào con người và cuộc sống. Khát khao hướng thiện và xây dựng một cuộc sống tươi đẹp trong tâm hồn mỗi con người chính là thông điệp mà các tác giả muốn gửi tới bạn đọc. 1.2. Những vấn đề nổi bật trong nội dung phản ánh cái xấu trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái 1.2.1. Con người tha hoá vì chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi Macxim Goorky đã từng nói: “Văn học là nhân học”, văn học luôn quan tâm đến đời sống của con người, đến thân phận con người và có nhiều khám phá mới về con người. Văn học nói chung và các sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ 13 Anh Thái nói riêng đều quan tâm đến giá trị cá nhân trong cuộc sống thường nhật. Cho nên, bên cạnh những khía cạnh đáng được ca ngợi, cổ vũ của xã hội khi thể hiện hết tính ưu việt thì cũng cần lên án, phê phán những khiếm khuyết, những kẽ hở của xã hội đã tạo điều kiện cho cái xấu, cái ác nảy nở, hoành hành. Một trong những điều nhức nhối mà văn học hiện đại đề cập đến chính là thực tế một số không nhỏ con người đang ngày càng biến chất, tha hoá nhân cách vì mải mê chạy theo chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa danh lợi. Trong cuộc sống hiện nay, không ít “con người vì cái lợi vật chất đang hèn đi, tầm thường đi” (Ma Văn Kháng). Nói đến những yếu tố khiến con người rơi vào tình trạng tha hoá nhân cách thì không thể không kể đến sức mạnh của đồng tiền. Đồng tiền chi phối đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người. Đứng trước sự cám dỗ của đồng tiền, con người không biết kìm hãm lòng tham và dễ dàng trở thành nô lệ của đồng tiền, trở nên tha hoá nhân cách. 1.2.1.1. Nhân vật trí thức tha hoá về nhân cách Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái là một trong số các tác giả thường đi sâu khai thác về mảng đề tài thế sự đời tư của con người hiện đại. Qua những tác phẩm của ba nhà văn, ta thấy một xã hội đa chiều, đa màu sắc được tái hiện một cách sinh động dưới ngòi bút đậm tình người, với chiều sâu của tâm tư, với khao khát cháy bỏng về một cuộc sống nhân ái, tốt đẹp. Trong tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, bên cạnh nội dung ca ngợi những trí thức giàu phẩm chất, tâm huyết thì các tác giả còn chú trọng tới việc xây dựng nên loại trí thức tha hoá về nhân cách. Trí thức tha hoá về nhân cách là những con người vốn mang danh là trí thức nhưng nhân cách đã bị huỷ hoại mạnh mẽ bởi đồng tiền, bởi danh vị, họ đã lợi dụng quyền lực của mình để gây ra bao nỗi éo le, bi kịch cho những người có tài, có tâm, những con người có đạo đức trong xã hội. Đáng tiếc và đau đớn nào bằng sự tha hoá của kẻ có học lại bắt nguồn, có mầm, cõ rễ từ những ham hố cá nhân và trước sức mạnh của vật chất thì sự tha hoá của người tri thức còn đáng sợ gấp ngàn lần hơn sự tha hóa của kẻ vô học. Ma Văn Kháng bắt đầu đến với văn chương từ năm 1959 với truyện ngắn “Phố cụt” trong thời điểm cuộc chiến tranh của dân tộc đang diễn ra cam go, khốc liệt. Trong mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, Ma Văn Kháng có quan niệm khác 14 nhau về con người. Trong sáng tác sử thi của Ma Văn Kháng, ông thường viết với mạch cảm xúc chung của văn học cách mạng với sự phân định rõ ràng của hai thái cực: tốt - xấu, ta - địch, bạn - thù. Sáng tác giai đoạn đầu của Ma Văn Kháng chủ yếu ca ngợi con người mới của thời chiến tranh vệ quốc có đau thương, mất mát mà hào hùng. Bước chân của ông nối tiếp nhà văn Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Mạc Phi… để khẳng định những giá trị cao đẹp trong tâm hồn của con người miền núi nói chung và đồng bào Tây Bắc nói riêng. Bước sang giai đoạn mới, cùng với sự chuyển mình của đất nước, dân tộc, thì văn học cũng có những sự thay đổi lớn. Nếu các tác phẩm mang tính sử thi trọng tâm tạo dựng bức tranh lịch sử hoành tráng về một thời đại chiến tranh có mất mát hy sinh mà không kém phần hào hùng của các dân tộc vùng biên ải thì tiểu thuyết thời kỳ đổi mới của Ma Văn Kháng nhiều khi khiến cho người đọc cảm thấy nhà văn đang đối thoại với cuộc sống, đối thoại với con người, đối thoại với những dòng chảy cảm xúc của nhân vật mà ông đang đào sâu, tìm tòi để thể hiện chiều sâu cảm xúc của nhân vật. Những sự kiện đời sống trong tác phẩm của Ma Văn Kháng là những sự kiện của cuộc sống đan kết bởi vô vàn điều bất ngờ, nhỏ nhặt. Khác với cái quyết liệt trong đời sống chiến tranh người ta có thể nhận định rõ được ranh giới giữa hai thái cực tốt - xấu, trắng - đen, chính tà của cuộc sống, trong cuộc sống thời hậu chiến bề ngoài có vẻ như bình yên nhưng trong lòng đầy mâu thuẫn đã trở thành cuộc chiến nội tâm đầy dai dẳng hiện diện trong mối con người, mỗi số phận, mỗi gia đình. Thật dễ hiểu vì sao sau chiến tranh, con người không còn ở thế giằng co giữa sự sống và cái chết nhưng trong tâm hồn luôn luôn cảm thấy chông chênh, lạ lẫm với chính mình. Với giọng văn mềm mại, hiền lành nhưng quyết liệt, Ma Văn Kháng viết về những mặt trái của xã hội với nội dung nhấn mạnh ma lực của đồng tiền đã làm hoại suy ý chí, tình cảm và nhân cách của con người một cách mạnh mẽ. Ma Văn Kháng đã từng khẳng định: “Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền là một hoàn cảnh lắm vi trùng làm cho con người ta bị nhiễm một thứ bệnh mất nhân tính” (Mùa lá rụng trong vườn). Cũng như những nhà văn khác như Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Ma Văn Kháng đã không ngần ngại nhấn mạnh giá trị vật chất của đồng tiền ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhân tính của con người. Một trong những tác phẩm đề cập đến vấn đề này của ông là: Đám cưới không có giấy giá thú (1988), Côi cút 15 giữa cảnh đời (1989) và Ngược dòng nước lũ (1999). Đám cưới không có giấy giá thú (1988) ra đời được bạn đọc đón nhận một cách nồng nhiệt. Đọc tiểu thuyết này, độc giả khó có thể quên được cảm giác xót xa đến não nề dâng trào trong lòng mình bởi vô vàn những trái khoáy ập vào số phận của từng nhân vật. Đây là một tác phẩm phản ánh sâu sắc hình ảnh những con người bị cơn lốc ham muốn vật chất cuốn đi trong nền kinh tế thị trường có vô vàn điều cám dỗ lòng người. Họ đã bị những dục vọng tầm thường, những cơn lốc của ham muốn cuốn trôi một cách mạnh mẽ. Trước thực tế ấy, nhiều người đã bị mất nhân cách, bản lĩnh của mình. Ma Văn Kháng tập trung phản ánh hiện tượng những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất giá trị bản thân mình một cách sinh động với một tâm trạng buồn đến da diết. Sự sùng bái đồng tiền trở thành biểu hiện bằng cuộc chạy đua đầy cuồng vọng đuổi bắt những món lợi vật chất tầm thường hàng ngày. Sau những năm tháng chiến tranh gian khổ, con người trở về với một cuộc sống bình yên nhưng cũng phải đối mặt với không ít những khó khăn. Đối mặt với mọi cám dỗ của đồng tiền, nếu không kiên định trong ý thức vì mất phương hướng, rơi vào bóng tối của sự tha hoá biến chất là lẽ đương nhiên. Hình ảnh những nhân vật trong “Đám cưới không có giấy giá thú” cho ta thấy được một bức tranh đủ màu sắc về những con đường dẫn nhân cách người trí thức rơi vào bùn lầy. Ta thấy ở đó bóng dáng của Xuyến, Trình, Quỳnh, Thảnh, Thầy Thuật. Đối với Ma Văn Kháng, bên cạnh việc ca ngợi những trí thức được nâng lên thành kiểu mẫu của giá trị thì ông còn tập trung bóc tách nhân cách của những trí thức bị tha hoá, tự đánh mất bản ngã của mình. Với những cán bộ, thầy giáo, học sinh trong miêu tả của ông phần nhiều bị chìm trong lối sống lạnh nhạt, thiếu tình người, một cách sống thờ ơ và vô trách nhiệm với chính tư cách bản thân mình. Ma Văn Kháng nhận ra và xót xa thốt lên một sự thật đau lòng: “Học trò giờ lẫn lộn với lưu manh. Chúng có thể lột truồng thầy giáo của chúng ra và chơi trò phết sơn đỏ lắm” [24,299]. Cu học trò Tuẫn - con trai Bí thư Lại đã cậy quyền lực của bố mà hỗn láo, phỉ báng thầy trước mặt bạn bè. Thầy Tự phạt Tuẫn bằng một cái tát thì hắn nói: đời ông từ nay khốn khổ rồi. Bên cạnh đó, cô nữ sinh Trình vốn là một người ngoan ngoãn, chỉ vì bệnh tật và bị bỏ rơi, bị nghèo đói đã trở nên mất niềm tin vào cuộc sống, trở nên đáo để, cong cớn, chụp giật để trả thù 16 đời. Còn Xuyến, vợ Tự, vốn là một cô thủ thư, do ham muốn vật chất quá độ đã trở thành một người đàn bà đầy bản năng, với một nguyện vọng là giàu có, sung sướng. Nhân vật Thầy Thuật trong “Đám cưới không có giấy giá thú” là một nhân vật vừa đáng thương và đáng trách, anh bị cái lợi vật chất lôi đi dần xa những giá trị cao quý của cuộc sống. Vốn là bạn thân của Tự và Kha, nhưng khác với Tự và Kha là những con người tuy đối diện với sóng gió vùi dập của cuộc đời nhưng vẫn giữ được tâm hồn thanh cao, Thuật lại rơi vào bi kịch của cơn lốc vị kỷ tầm thường cuốn trôi. Buồn vì sự thay đổi của bạn, Tự vẫn luôn tự hỏi vì sao: “Vậy thì từ lúc nào Thuật đã cách xa anh?” Thuật là nạn nhân trong sự giả dối, sự lôi kéo của Cẩm và Dương. Bị Dương và Cẩm vừa ra đòn dụ dỗ vừa ngấm ngầm hành hạ, Thuật dần dần bị chìm trong cuộc sống mất niềm tin và bị lối sống bất cần, ngạo mạn lôi kéo. Tài năng của Thuật bị xuống dốc bắt nguồn từ sự đố kỵ, mưu chước, sự chèn ép ngáng chân của Cẩm và Dương. Anh trở nên suy đốn, trở thành một kẻ “ngông ngạo khinh bạc và độc địa” [24,266], anh “lạm dụng uy tín của thầy dạy giỏi, lao như điên vào các lớp dạy thêm, thoát ra khỏi cảnh túng bấn” [24,256-257], và “chỉ nhăm nhăm kiếm tiền làm giàu gây bao tiếng xấu đến thanh danh nhà trường, …gây ai oán cho bao gia đình học sinh”. [24,273]. Khi bị kìm hãm quá mức, Thuật đã đánh mất giá trị và tài năng của một người thầy dạy giỏi và đã phát điên chỉ trong một thời gian ngắn. Đau đớn thay và tiếc nuối cho Thuật, từ một người trí thức có bản lĩnh, tâm huyết với nghề nghiệp lại trở thành nạn nhân của thế giới biến động và quay đảo. Khác với những nhà văn của thế hệ trước, Tạ Duy Anh đặc biệt quan tâm thể hiện trạng thái tinh thần con người hiện đại với tất cả những mặt xấu - tốt của nó. Đời sống hiện thực được phản ánh trong ba cuốn tiểu thuyết của anh: Đi tìm nhân vật (2004), Lão Khổ (2005) và Thiên thần sám hối (2005) là muôn vàn mặt trái, mặt mâu thuẫn và phức tạp của cuộc sống. Anh đã phản ánh trong tác phẩm của mình hiện thực con người đối xử với nhau bằng sự nhẫn tâm, sự vô tâm và vô ơn. Những dòng suy tưởng, những câu hỏi được đưa ra với sự chua xót khôn nguôi: “Cuộc sống này tồn tại phải chăng bằng sự vờ vĩnh? Chao ôi, bao giờ con người mới gỡ được chiếc mặt nạ phải đeo vào kể cả khi ngủ với tình nhân? Đối với lão, ông Bùi bí thư huyện - chỉ là một thằng ăn cắp mạt hạng. Ông ta ăn cắp từ cái dăm cối cho đến 17 lòng tin của lão và hàng vạn người” [1,61]. “Ai đó chết chứ không phải ta: thằng bé đánh giầy nào đó chết chứ không phải con cháu ta…Thậm chí ý nghĩ ấy khiến chúng ta hoan hỉ, sự hoan hỉ của những người đứng ngoài nỗi bất hạnh, hoặc không khỏi có lúc ta tặc lưỡi “cho chúng nó chết đi, bọn lưu manh” [2, 6]. “Đứa nào chết mặc mẹ chúng nó. Không thích sống thì chết liên quan gì đến tôi! Buổi sớm ông đừng có nói chuyện chết chóc nghe chưa? [2,10]. “Án mạng à? Thì đã sao? Liên quan gì đến con Miss của tôi? [2,12]. “Cô sinh viên oằn mình móc trong túi ra những tờ giấy màu xanh mà tôi đã kể. ông bác sĩ lạnh lùng đếm lại rồi bỏ vào túi áo blu của ông ta. Khiếp cái tay vừa lầy nhầy máu giờ đã lại trắng muốt. Những tờ giấy màu xanh khiến ông ta phấn chấn hẳn lên, miệng huýt sáo một giai điệu rất nhộn” [3,18]. Chính sự thản nhiên, vô tư, thờ ơ, ích kỷ của con người và lối đối xử vì đồng tiền đã dẫn đến những hậu quả khôn lường, là nguồn gốc cho những bi kịch của số phận con người. Đi tìm nhân vật là hành trình tìm kiếm chính mình, tìm kiếm bản chất của con người và là tiểu thuyết mang đậm màu sắc triết lý, luôn đặt ra cho bản thân và độc giả phải trả lời câu hỏi: Tôi là ai? Ai là tôi? Tôi là hắn? Hắn giết tôi? Trong tác phẩm này, nhà văn đã đi tìm những mẫu nhân vật mới phù hợp với con người hiện đại. Con người hiện đại đang có những thay đổi cơ bản và mạnh mẽ cả về hình thức lẫn bản chất. Những thay đổi đến chóng mặt đã khiến cho chúng ta không còn nhận ra mình là ai nữa. Có người nói rằng, tiểu thuyết Ði tìm nhân vật của Tạ Duy Anh mở đầu như một tiểu thuyết trinh thám: một kẻ tình cờ vớ được mẩu báo, vỏn vẹn mấy hàng: nạn nhân là thằng bé đánh giầy, quãng 10-12 tuổi bị một gã đàn ông đâm chết ngay tại chỗ. Hung thủ được tạm mô tả như kẻ mắc chứng thần kinh, ăn mặc sang trọng. Việc truy bắt đang được tiến hành ráo riết. Với sự mở đầu đầy tính nghi vấn như vậy, cả tác phẩm được mở ra với vô vàn câu hỏi, câu hởi lớn nhất vẫn là câu hỏi về tình người. Tác phẩm viết nhiều về nhân vật “tôi” - Chu Quý, nhưng nếu như nhân vật “tôi” bị ám ảnh bởi những hận thù, thì nhân vật tiến sĩ N lại sống trong cảnh huống tìm kiếm những vị kỷ cá nhân, đi theo sự chỉ đạo của “hắn”, một kẻ vô hình, nhưng có mặt ở khắp nơi, ở bất cứ chỗ nào con người có sự ganh ghét thù hận. Có người ví tiến sĩ N trong Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh và nhân vật Khuynh trong Người 18 và xe chạy dưới ánh trăng của Hồ Anh Thái là một cặp anh em sinh đôi được tách ra sống ở hai môi trường khác nhau nhưng lại có tính cách giống nhau tương đồng. Tiến sĩ N luôn sống trong hai trạng thái một là của con người an nhiên, thành đạt trong cuộc đời giả và một kẻ cô đơn cực độ trong những suy nghĩ về lẽ sống chết trong cuộc đời thật của mình. Bề ngoài là một con người hết sức hoàn hảo “Ông là hình mẫu của một con người tự làm nên sự nghiệp, một nhà khoa học tận tuỵ, một công chức mẫn cán, một người đàn ông điềm đạm và đức độ. Ông biết nương theo thời thế để sống và hiến mình cho sự nghiệp chung - một cách đánh giá phổ biến và chính xác” [2,128]. Vậy nhưng, trong tận sâu trong tâm hồn, ông lại là một con người hoàn toàn khác. Tiến sĩ N vì muốn bảo vệ lí lịch trong sáng của mình, muốn giữ cái địa vị mà mình đang có nên đã để mặc đứa em trai của mình bị chết trong thê thảm. N đã bị ám ảnh bởi cái chết của đứa em trai, nên đã tìm ra chiến trường để tìm kiếm một cái chết nhưng đây là hành động mang tính chất vụ lợi. "Không một ai hồi đó hiểu được động cơ nhập ngũ của tôi. Tôi quyết định tìm kiếm một cái chết." (2,127) Tiến sĩ N càng dằn vặt lương tâm thì hắn càng muốn xung trận để được chết nhưng đó là hành động nhằm nguỵ trang cho những tham lam và dục vọng của ông. Nhưng “éo le” thay, mọi người lại nghĩ đó là hành động dũng cảm và con người này cần được gìn giữ. May cho N, hắn đã không phải ra trận mà còn được cử đi học ở nước ngoài. Dường như đó cũng là một hình phạt dành cho hắn, N đã phải sống từ giả dối này kéo theo giả dối khác, và giả dối đã được đẩy lên thành cực điểm trong mối quan hệ với vợ mình. Ông nhận thấy mình thực sự là một con người đê tiện, ngay cả khi ngủ với vợ, ông cũng phải sống giả dối để rồi khi đồng hồ điểm 4h sáng, ông lại bước vào căn phòng làm việc và tự đối diện với chính mình và sự dày vò day dứt khôn nguôi. Không thể chịu đựng được những cuộc “tra tấn tinh thần” khi ông đặt chân vào phòng làm việc, vào 4h sáng của một ngày, tiến sĩ N đã giết vợ và tự kết thúc cuộc đời, kết thúc cuộc sống dằng dặc cô độc và giả dối. Viết về cái xấu trong xã hội, Hồ Anh Thái là một trong những tác giả tiên phong của nền văn học hiện đại. Bắt đầu cầm bút từ khi là cậu sinh viên 17 tuổi và thành danh khá sớm khi chưa đầy 20 tuổi, Hồ Anh Thái trở thành một trong những hội viên Hội Nhà văn trẻ tuổi nhất vào thời điểm lúc bấy giờ. Từ những tác phẩm 19 đầu tiên, Hồ Anh Thái đã viết về những chủ đề sắc bén về các vấn đề xã hội và nhân tình thế thái. Những sáng tác đầu tay của Hồ Anh Thái thường gắn với chủ đề cuộc sống của lớp thanh niên trí thức trên con đường lựa chọn hướng đi cho mình. Khi đất nước bước vào con đường mở cửa, Hồ Anh Thái lại hướng về đề tài viết về những nỗi đa đoan của cuộc sống và con người miền đô thị với bao trăn trở. Một trong những số đó là Người và xe chạy dưới ánh trăng, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm. Người và xe chạy dưới ánh trăng có bối cảnh là khu nhà tập thể, một tổ dân phố, là một bức tranh thu nhỏ của xã hội thời hậu chiến. Bên cạnh việc miêu tả những con người có lối sống trong sáng, có nhân cách, có ý chí; thể hiện niềm tin yêu của tác giả đối với thế hệ trẻ, tác giả đã khắc hoạ một cách chân thực chân dung của những con người có lối sống tham lam, vị kỷ, chạy theo dục vọng cá nhân nổi bật nhất là nhân vật Khuynh-Diệu. Khuynh là một nhân vật được Hồ Anh Thái miêu tả cặn kẽ từ hình dáng đến tính cách. Tuổi thơ Khuynh đã mang sự lọc lõi của một con người, “Khuynh sống một tuổi thơ sung sướng, những ý thích oái oăm đều được thỏa mãn, và một thời thanh niên thoải mái, buông thả” [34,172]. Để gột rửa tàn dư của những điều xưa cũ, “Khuynh đã lao vào cuộc sống hừng hực khí thế mới của thủ đô giải phóng, nhiệt tình tham gia các hoạt động của sinh viên, sau đó tình nguyện gia nhập quân đội” [34, 172]. Con người lạnh lùng, thiếu tình người của Khuynh được tác giả miêu tả trong mối quan hệ với người vợ cũ của Khuynh. Khi vào sâu trong tuyến lửa, “để lại vợ con tại hậu phương, anh như cảm thấy trút được gánh nặng, vì đã để được vợ con ở lại. Cũng lạ, trong suốt mấy năm ở tuyến lửa, Khuynh ít nghĩ đến họ” [34, 177]. Khi từ tuyến lửa trở về, một ngày sau Khuynh mới hỏi đến thông tin về vợ con và hay vợ con đã bị bom chết nhưng anh vẫn dửng dưng, chỉ cần một vài lời ngọt nhạt dỗ dành của mẹ đã đủ giải thoát cho Khuynh nỗi day dứt, bất an về vợ con. Khuynh, con trai bà, “nếu làm chồng, làm cha sẽ là một người chồng, người cha dửng dưng lạnh lẽo. Nếu là một người yêu sẽ là một người yêu ích kỷ, không bao giờ yêu hết mình, ngoại trừ nỗi đam mê xác thịt đến cuồng bạo” [34,179]. Khuynh điển trai, giỏi tiếng Anh nhưng lắm tham vọng, ích kỷ và trống rỗng tình người. Là một người mang trong mình sự tham vọng mãnh liệt và tham vọng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan