Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính khẩu ngữ trong thơ nôm nguyễn trãi...

Tài liệu Tính khẩu ngữ trong thơ nôm nguyễn trãi

.PDF
148
198
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ THUÝ ANH TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Phƣơng Thái Thái Nguyên, năm 2010 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 1 http://www.lrc-tnu.edu.vn MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU....................................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài......................................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu……..............................................................................3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................................7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...........................................................................7 5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................8 6. Đóng góp của luận văn ......................................................................................... 8 7. Kết cấu luận văn......................................................................................................9 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN.............................10 1.1. Tác giả Nguyễn Trãi..........................................................................................10 1.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi......................................................................................10 1.1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi..................................11 1.1.3. Quốc âm thi tập...............................................................................................15 1.2. Giới thuyết về vấn đề nghiên cứu......................................................................16 1.2.1. Khái niệm về khẩu ngữ...................................................................................16 1.2.2. Đặc điểm của khẩu ngữ...................................................................................18 1.2.3. Vai trò của khẩu ngữ trong tác phẩm văn học. ..............................................21 CHƢƠNG 2: KHẢO SÁT TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI…………………………………………………………………………….……… .23 2.1 Về phương diện từ vựng ....................................................................................23 2.1.1. Thực từ ...........................................................................................................24 2.1.1.1. Danh từ.........................................................................................................25 2.1.1.2. Động từ.........................................................................................................26 2.1.1.3. Tính từ..........................................................................................................28 2.1.1.4. Số từ.............................................................................................................31 2.1.1.5. Đại từ............................................................................................................32 2.1.2. Hư từ ..............................................................................................................34 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 2 http://www.lrc-tnu.edu.vn 2.2. Về phương diện cú pháp....................................................................................37 2.2.1. Kết hợp từ ngữ trong sự đăng đối hài hòa ......................................................38 2.2.2. Sử dụng các kiểu câu cảm thán, câu nghi vấn.................................................40 2.2.3. Sử dụng kết cấu của lối nói khẩu ngữ.............................................................43 2.3. Một số biện pháp tu từ......................................................................................47 2.3.1. Cách so sánh ví von giàu hình ảnh.................................................................47 2.3.2. Sử dụng biện pháp ẩn dụ, hoán dụ .................................................................50 Tiểu kết ............ ......................................................................................................53 CHƢƠNG 3: HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT CỦA TÍNH KHẨU NGỮ TRONG THƠ NÔM NGUYỄN TRÃI..................................................................................55 3.1. Giá trị biểu hiện..................................................................................................55 3.1.1. Thể hiện con người cá nhân Nguyễn Trãi ……..............................................56 3.1.2. Sức sống lâu bền của thơ Nôm Nguyễn Trãi..................................................62 3.2. Nguồn gốc sử dụng từ ngữ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi..68 3.2.1. Nhân tố khách quan.........................................................................................68 3.2.1.1. Ảnh hưởng văn học dân gian.......................................................................68 3.2.1.2. Ảnh hưởng của văn thơ Nôm đời Trần .......................................................71 3.2.1.3. Vay mượn thi liệu Hán học..........................................................................73 3.2.2. Nhân tố chủ quan............................................................................................79 3.2.2.1. Tư tưởng nhân dân.......................................................................................79 3.2.2.2. Ý thức xây dựng nền văn hóa Việt...............................................................81 Tiểu kết ...................................................................................................................83 KẾT LUẬN...............................................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................87 PHỤ LỤC..................................................................................................................91 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 3 http://www.lrc-tnu.edu.vn MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Lí do khoa học Nguyễn Trãi không chỉ là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới mà còn là một nhà văn nhà thơ vĩ đại. Trên nhiều phương diện khác nhau, Nguyễn Trãi đã được định vị bởi những cống hiến hết sức to lớn cho lịch sử văn hóa nước nhà. Trong văn học, sự đóng góp ấy thể hiện rõ rệt ở việc đẩy mạnh sự phát triển của thơ Nôm. Kế thừa những thành tựu của tác phẩm đời Trần, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của thơ Nôm trong dòng văn học viết. Quốc âm thi tập được coi là tập thơ quốc âm đầu tiên của dân tộc ta, cổ nhất, chính xác nhất. Chúng tôi nhận định vậy không phải phủ nhận trước Nguyễn Trãi chưa có thơ chữ Nôm. Văn thơ tiếng Việt được nhen nhóm từ đời Lý - Trần (thế kỉ XIII). Lịch sử và các chứng tích còn ghi lại dưới thời Lý chữ Nôm được dùng để ghi tên người, tên đất và còn lưu lại ở một số văn bia nhà chùa... Đến thời Trần thơ phú bằng tiếng Việt bắt đầu xuất hiện. Theo Đại Việt sử kí toàn thư có đoạn ghi: "Năm 1306 gả công chúa Huyền Trân cho vua nước Chiên Thành là Chế Mân. Các văn sĩ trong triều, ngoài nội nhiều người mượn điển vua nhà Hán đem Chiêu Quân gả cho hung nô làm bài thơ bằng chữ quốc ngữ chê cười" [23, tr.102] và cũng theo sách đó thì Nguyễn Thuyên là người đầu tiên dùng chữ Nôm làm thơ cách luật. Ban đầu việc làm thơ bằng chữ Nôm còn lẻ tẻ sau trở thành một niềm vui thú của các văn nhân trí thức. Tiếp sau Nguyễn Thuyên là Nguyễn Sĩ Cố, Chu An... Theo Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử thì Nguyễn Thuyên có Phi sa tập, trong tập có nhiều quốc âm; Chu An có Quốc âm ngữ thi văn. Nhưng đến ngày nay, chúng ta không còn chút gì về những áng thơ Nôm mở đầu ấy. Chính vì vậy, Quốc âm thi tập được xem là "tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển" (6,tr.587). Nếu như thơ văn chữ Hán nặng về chính trị, khi đọc ta như bay lên với khí thế hoành tráng, kì vĩ và ngọn lửa bùng cháy như tấm lòng yêu nước và quyết tâm diệt kẻ thù của Nguyễn Trãi .... thì thơ Quốc âm của Nguyễn Trãi lại nhẹ nhàng, bộc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 4 http://www.lrc-tnu.edu.vn lộ tâm tình của nhà thơ với cảm xúc đa dạng gắn bó với nhiều cảnh ngộ khác nhau trong cuộc đời. Mỗi bài thơ bộc lộ một mảnh tâm tình. Như vậy nhìn từ nhiều phương diện, Quốc âm thi tập là một di sản văn hóa quý báu, có nhiều đóng góp lớn lao cho văn học nước nhà trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Ngay từ khi xuất hiện bản phiên âm và chú giải tác phẩm Quốc âm thi tập của GS. Đào Duy Anh đã thu hút rất nhiều người nghiên cứu với những công trình khoa học chi tiết đền từng đề tài, từng bài thơ, thậm chí đến từng câu chữ trong thơ. Qua các công trình nghiên cứu, công lao và đóng góp của tác giả Quốc âm thi tập đối với nền thơ ca tiếng Việt ngày càng được khẳng định. Tuy nhiên có thể nhận thấy các ý kiến đánh giá chủ yếu xoay quanh phương diện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Về nghệ thuật mặc dù có một số công trình đề cập đến nhưng để chỉ ra được những đặc sắc, cống hiến cụ thể thì chưa có. Với 254 bài thơ Nôm được tập hợp trong Quốc âm thi tập đã thể hiện Nguyễn Trãi là người rất coi trọng việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc. Ta có thể nhận thấy dấu ấn Hán học hiện ra trong tập thơ nhưng chính điều này đã cho thấy sự thành công và cống hiến lớn lao của Nguyễn Trãi trong việc tiếp thu và Việt hóa ngôn ngữ Hán để tạo nên thể thơ Đường luật dân tộc viết bằng ngôn ngữ văn học dân tộc dựa trên ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ văn học dân gian. Ngôn ngữ văn học dân gian vốn được xây dựng trên cơ sở gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân. Điều này có thể thấy rõ trong Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi đã đưa những khẩu ngữ hằng ngày của nhân dân và tận dụng những ưu điểm của nó để tả cảnh, tả người, tả tình, tả vật. Và việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ một cách tài tình, Nguyễn Trãi đã tạo ra được những hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc. Tìm hiểu "Tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi", chúng tôi hi vọng sẽ góp thêm những cứ liệu để làm rõ công lao của Nguyễn Du với nền văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc,ngôn ngữ bình dân và thấy được ý thức sâu sắc của ông trong việc đưa lời ăn tiếng nói dân gian vào trong sáng tác thơ ca. Với Quốc âm thi tập Nguyễn Trãi được coi là một trong "những người đầu tiên xây dựng lâu đài thi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 5 http://www.lrc-tnu.edu.vn ca Việt Nam" [40, tr.965] và giá trị lao động nghệ thuật của ông đã "dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt lên, làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngang với tiếng nói của nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [26,tr.814]. 1.2. Lí do thực tiễn Từ lâu Nguyễn Trãi cùng với các di sản tư tưởng, văn hóa đã được thu thập phân tích đáng giá khá đầy đủ - thu hút được sự quan tâm đông đảo của giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Có thể khẳng định, Nguyễn Trãi có ảnh hưởng và địa vị rất sâu sắc trong đời sống văn hóa của dân tộc. Vì vậy tác giả Nguyễn Trãi cùng với các kiệt tác, trong đó có thơ Nôm được giới thiệu rộng rãi, được đưa vào chương trình giảng dạy trong các nhà trường phổ thông, đại học ngày càng nhiều. Và đây cũng là nguồn đề tài phong phú cho hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học có giá trị. Hiện nay trong chương trình dạy và học ở bậc Phổ thông trung học, tác phẩm của Nguyễn Trãi chiếm một số lượng tương đối ở lớp 10 với những tác phẩm như: Bình Ngô đại cáo, Dục Thúy sơn, Cây chuối, Bảo kính cảnh giới. Và với sự đổi mới phương pháp giảng dạy - tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc độ thể loại và bám sát vào ngôn từ được thể hiện trên văn bản thì với đề tài trên ít nhiều sẽ có ích cho người học, người giảng dạy và người nghiên cứu thơ Nôm Nguyễn Trãi. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Xem xét tập thơ Quốc âm thi tập ở giá trị tự thân cũng như vai trò, vị trí của nó trong hoàn cảnh nền văn học truyền thống thì tác phẩm gợi mở nhiều hướng tiếp cận, nhiều vấn đề đáng chú ý kể cả về phương diện nội dung cũng như phương diện nghệ thuật. Đặc biệt khi nghiên cứu văn học thì đối tượng nghiên cứu trước hết chính là ngôn ngữ bởi vì ngôn ngữ là chất liệu, là nơi chứa thông tin, thể hiện ý định của tác giả khi sáng tạo ra tác phẩm. Vì thế, tìm hiểu ngôn ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi là một trong những điểm thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu. Sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu đối với Quốc âm thi tập bắt đầu từ khi bản phiên âm, chú giả của học giả Đào Duy Anh công bố năm 1956. Tuy nhiên sau khi Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 6 http://www.lrc-tnu.edu.vn cuốn phiên âm, chú giải tái bản lần 2 (1976) thì phương diện ngôn ngữ mới được đề cập một cách rộng rãi. Có thể điểm qua các tác giả với những công trình nghiên cứu như: Thanh Lãng với Quốc âm thi tập [tr.22], Nguyễn Thiên Thụ với Ảnh hưởng và địa vị của Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam [tr.42], Hoàng Văn Hành - Vương Lộc với Mấy đặc điểm vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua "Quốc âm thi tập" của Nguyễn Trãi [tr.10], Vương Lộc với Một vài hư từ trong Quốc âm thi tập [tr.28], Xuân Diệu với Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu cho nền thơ ca cổ điển Việt Nam [tr.6], Hoàng Tuệ với Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt [tr.46], Phạm Thị Phương Thái với Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi... Tác giả Thanh Lãng ngay từ năm 1967 đã cho rằng, Nguyễn Trãi là ông tổ của nền văn học cổ điển, là ông tổ của nghệ thuật dân tộc. Đồng thời xét từ khía cạnh Nguyễn Trãi sử dụng chất liệu làm nên tác phẩm là ngôn ngữ từ dân gian "những kiểu nói của nhân dân (tục ngữ hay ca dao) tác động được tới nhân dân, bằng việc đem tư tưởng tiếng nói của mình vào tiếng nói của nhân dân" [22, tr.805], tác giả nhấn mạnh đến vai trò "khai sinh ra một nghệ thuật dùng ngôn ngữ dân gian của Nguyễn Trãi" [22, tr.805]. Tuy Thanh Lãng là người nêu ra vấn đề nhưng ông chưa đi sâu tìm hiểu lí giải về hiện tượng đó. Đồng quan điểm với Thanh Lãng, Nguyễn Thiên Thụ ngay đầu bài viết của mình cũng đưa ra lời nhận xét và đánh giá Nguyễn Trãi là một trong " những người đầu tiên xây dựng lâu đài thi ca Việt Nam" [43, tr.956]. Lâu đài thi ca ấy được xây dựng nên từ "kho tàng văn chương bình dân cùng hòa hợp với tinh hoa của văn chương Trung Hoa" [43, tr.967]. Như vậy, tác giả đã khẳng định: Quốc âm thi tập là tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, trên cơ sở một số thi liệu từ văn hóa Trung Hoa, Nguyễn Trãi đã Việt hóa chúng. Đặc biệt Nguyễn Trãi đã sử dụng kho tài nguyên phong phú của nền văn chương Việt Nam là ca dao, tục ngữ của dân gian. Đi sâu vào tìm hiểu yếu tố tục ngữ ca dao trong Quốc âm thi tập, Bùi Văn Nguyên cho rằng, "Tiếng nói của tổ tiên ta được truyền lại gần như nguyên vẹn trong tục ngữ, ca dao qua bao thế hệ" [26,tr.807]. Và trong tập thơ Quốc âm của Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 7 http://www.lrc-tnu.edu.vn chính mình, Nguyễn Trãi dựa trên những tri thức về tục ngữ, ca dao đã thể hiện thái độ, tâm tình của mình một cách rõ nhất. Từ đó có thể thấy được ý thức" trân trọng tiếng nói tổ tiên" của Nguyễn Trãi. Đồng thời từ trong lao động nghệ thuật của nhà thơ đã "dần dần nâng cao giá trị văn học của tiếng Việt, làm cho tiếng Việt ngày càng phong phú, càng có vị trí xứng đáng trên văn đàn, ngang vói tiếng nói của nhiều nước tiên tiến trên thế giới" [26, tr.815]. Khác với các tác giả trên, hai tác giả Hoàng Văn Hành - Vương Lộc lại tiếp cận với Quốc âm thi tập từ khía cạnh khác. Các tác giả đi sâu tìm hiểu một số đặc điểm của vốn từ tiếng Việt văn học thế kỉ XV qua Quốc âm thi tập. Với việc khảo sát một số cặp từ đối lập về cách sử dụng, về mặt cấu tạo từ, nguồn gốc của các từ đơn tiết, song tiết và một vài hiện tượng sử dụng hư từ, từ láy trong Quốc âm thi tập, các tác giả đã đưa ra kết luận, "Tiếng Việt thời Nguyễn Trãi đã phát triển đến mọt trình độ tương đối cao. Điều đó biểu hiện rõ ở sự hình thành các lớp từ đối lập nhau trong cách sử dụng và ở hệ thống các phương thức cấu tạo" [10,tr.22]. Tác giả Đinh Gia Khánh khi trình bày quan điểm của mình về thi liệu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã cho rằng, "Thành tựu lớn nhất của Nguyễn Trãi không phải ở chỗ đồng hóa kho từ vựng và văn liệu Hán học mà là ở chỗ xây dựng ngôn ngữ văn học dân gian trên cơ sở ngôn ngữ nhân dân và ngôn ngữ của văn học dân gian" [14, tr.275]. Đồng thời tác giả cũng lí giải ngôn ngữ trong văn học dân gian vốn đã xây dựng trên cơ sở của sự gọt giũa và cách điệu hóa ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân. Với việc Nguyễn Trãi "đưa khẩu ngữ hàng ngày vào thơ ca và tận dụng khả năng của khẩu ngữ ấy để tả cảnh, tả lòng, tả người, tả vật" [14,tr.258] đã làm cho "hình tượng thơ nhịp nhàng, uyển chuyển và đầy màu sắc dân tộc". Trong luận án tiến sĩ "Ngôn ngữ và thể thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi", tác giả Phạm Thị Phương Thái khi đưa ra những nhận định của mình về việc xây dựng ngôn ngữ tiếng Việt văn hóa từ ngôn ngữ thông tục của Nguyễn Trãi đã viết, "Là một nhà văn hóa, tư tưởng có tầm nhìn chiến lược, Nguyễn Trãi ý thức sự cần thiết xây dựng ngôn ngữ văn hóa" và "hạt nhân cơ bản của ngôn ngữ thơ Nôm Nguyễn Trãi là tiếng Việt"[41,tr.101]. Tác giả đã lí giải nguyên nhân dẫn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 8 http://www.lrc-tnu.edu.vn đến ý thức đó chính là do đòi hỏi của xã hội cũng như ảnh hưởng và tiềm năng diễn đạt của ngôn ngữ bình dân nên đã thôi thúc Nguyễn Trãi đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Như vậy việc vận dụng lời ăn tiếng nói, lối diễn đạt trong đời sống hàng ngày vào thơ Nôm đã cho thấy Nguyễn Trãi là người có ý thức đưa khẩu ngữ vào trong văn học viết. Đồng thời nhà thơ đã đưa tiếng Việt giao tiếp thành tiếng Việt văn hóa. Qua đó tác giả Phạm Thị Phương Thái khẳng định, "Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã có công rất lớn trong việc xây dựng ngôn ngữ văn học, ngôn ngữ văn hóa từ ngôn ngữ giao tiếp thông thường" [41,tr.104]. Tác giả Xuân Diệu trong bài viết "Quốc âm thi tập, tác phẩm mở đầu nền thơ cổ điển Việt Nam" đã đánh giá cao những đóng góp về mặt ngôn từ của tập thơ và dành một phần nghiên cứu về "hành văn" trong thơ Nguyễn Trãi. Tác giả khẳng định, về mặt ngôn ngữ, Quốc âm thi tập " là một kho chất liệu cho ta nghiên cứu lời nói câu viết của tổ tiên làm ngót sáu trăm năm trước" [14,tr.618]. Theo ông, Nguyễn Trãi lấy hình tượng và ý tứ trong những câu tục ngữ ngày xưa hoặc dựa vào lối sáng tạo của tục ngữ để tạo ra những câu thơ vào loại thành công nhất, vào loại "có nhiều nội tâm nhất" [14, tr. 595]. Khác với các tác giả trên, GS. Hoàng Tuệ khi nghiên cứu về Nguyễn Trãi trực tiếp tập trung bàn về "Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt". Theo tác giả cống hiến trước hết của Nguyễn Trãi được thể hiện ở "Bản lĩnh ngôn ngữ trong cuộc đấu tranh của Nguyễn Trãi để bảo vệ nền văn hiến lâu đời của dân tộc" [46,tr.818]. Bản lĩnh ấy được thể hiện ở "thái độ quý trọng và đề cao chất liệu của tiếng "Nôm", tức tiếng Việt, văn học dân gian truyền miệng". Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt ở nhiều phương diện, trước hết đó là: "Bộ phận từ vựng Việt (...) ngữ pháp cũng là Việt, đáng chú ý là các hư từ, ngữ điệu" [46,tr. 819] và đặc biệt tục ngữ rất được "quý chuộng" và "đề cao" trong Quốc âm thi tập. Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt bằng cách "dùng chất liệu hình thức Việt để tiếp nhận chất liệu nội dung Hán" [46,tr.821]. Để khẳng định công lao, vị trí của Nguyễn Trãi trong nền thơ ca viết bằng tiếng Việt và để kết thúc bài viết GS. Hoàng Tuệ nhấn mạnh: "Cống hiến của Nguyễn Trãi đối với tiếng Việt, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 9 http://www.lrc-tnu.edu.vn đó là cống hiến thực lớn lao. Nếu như về tiếng Việt, đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du đã tạo nên được niềm tự hào, thì ở thế kỉ XV, điều mà Nguyễn Trãi đã xây dựng nên được, là niềm tin" [46, tr.826]. Qua tìm hiểu các công trình nghiên cứu trên, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi đã được nhìn nhận trên khá nhiều phương diện, trong đó có các đánh giá về việc sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân hay khẩu ngữ. Tuy nhiên, những công trình này chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra các nhận xét khái quát về đặc sắc trong việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Trãi mà chưa đi sâu tìm hiểu, khảo sát các biểu hiện cụ thể của khẩu ngữ - một phương diện trong ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Trãi. Chính vì lí do trên, chúng tôi chọn lựa đề tài "Tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi" với hy vọng sẽ tổng kết, phân loại hợp lí các biểu hiện của khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và chỉ ra được ý nghĩa biểu đạt cũng như những giá trị thẩm mĩ tiêu biểu của "hệ lời" đặc biệt này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở khảo sát, thống kê, so sánh, phân tích lí giải các đặc điểm của tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, đề tài sẽ đưa ra những nhận định, đánh giá khoa học về mức độ ảnh hưởng và cách thức sử dụng những thi liệu của khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập. Kết quả của nó sẽ đóng góp phần nào vào việc đánh giá toàn diện và sâu sắc hơn về Quốc âm thi tập, về tác giả Nguyễn Trãi từ góc độ ngôn ngữ trong nền văn học viết bằng tiếng Việt. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu tính khẩu ngữ ở nhiều góc độ thể hiện (từ vựng, cú pháp, biện pháp tu từ) được thể hiện trong thơ Nôm đó là đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi trong nền thơ ca viết bằng ngôn ngữ dân tộc. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Như tên gọi của đề tài, luận văn sẽ tập trung tìm hiểu những biểu hiện đặc trưng của tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 10 http://www.lrc-tnu.edu.vn Để đảm bảo tính khách quan, khoa học trong việc đánh giá những đóng góp của Quốc âm thi tập trong tiến trình thơ Nôm về phương diện ngôn ngữ (tính khẩu ngữ), chúng tôi sẽ đặt tập thơ này trong sự đối sánh với một số tác phẩm thơ trước và sau Nguyễn Trãi. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu những đặc điểm biểu hiện của tính khẩu ngữ trong 254 bài thơ Nôm. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ vận dụng tổng hợp một số phương pháp chính sau: - Phương pháp khảo sát, thống kê, phân loại được sử dụng để có được những cứ liệu cần thiết trong quá trình nghiên cứu. Qua đó cung cấp dữ liệu, số liệu chính xác, tạo cơ sở tin cậy cho những kết luận của luân văn. - Phương pháp phân tích tổng hợp được sử dụng để phân tích các cứ liệu có được khi thống kê, phân loại. Trên cơ sở phân tích, chúng tôi tổng hợp, khái quát về hiệu quả của việc đưa khẩu ngữ vào trong thơ Nôm của Nguyễn Trãi. Nhờ vậy các nhận xét về Quốc âm thi tập sẽ được sáng tỏ hơn. - Phương pháp so sánh đối chiếu được sử dụng để đưa các hiện tượng cần xét vào trong tiến trình phát triển thơ ca của dân tộc. Từ đó rút ra được những nhận xét về các đặc trưng của khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. 6. Đóng góp của luận văn Thực hiện luận văn này, chúng tôi hi vọng sẽ: 1. Chỉ ra được những đặc sắc trong cách sử dụng các từ ngữ, cú pháp, biện pháp tu từ mang tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. 2. Thông qua những con số thống kê và phân tích cụ thể về từ ngữ, cú pháp, biện pháp tu từ mang tính khẩu ngữ trong Quốc âm thi tập sẽ có thêm những cứ liệu khoa học, khách quan để khẳng định sự đóng góp của Nguyễn Trãi về mặt ngôn ngữ trong nền thơ ca cổ điển trung đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 11 http://www.lrc-tnu.edu.vn 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần Mở đầu (7trang), Kết luận (3 trang), Thư mục tham khảo (4 trang), Phụ lục (50 trang), Phần nội dung chính của luận văn (71 trang) gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung có liên quan (từ trang 10 -> trang 23) Chương 2: Khảo sát tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi (từ trang 24 -> trang 54) Chương 3: Giá trị và vai trò của tính khẩu ngữ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi.(từ trang 55 -> trang 92) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 12 http://www.lrc-tnu.edu.vn Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CÓ LIÊN QUAN 1.1. Tác giả Nguyễn Trãi 1.1.1. Thời đại Nguyễn Trãi Trong tiến trình lịch sử xã hội, mỗi thời đại đều tạo ra những con người vĩ đại. Vào cuối thế kỉ XIV, đất nước ta ở vào tình trạng rối ren và phức tạp. Đây là giai đoạn lịch sử với nhiều biến cố thăng trầm.Từ cuối đời nhà Trần sang nhà Hồ, thời kì đấu tranh quyết liệt chống giặc Minh xâm lược cho đến hết hai đời vua đầu tiên nhà Lê... Chính trong hoàn cảnh ấy, lịch sử đã phôi thai và kết tinh vẻ đẹp của thời đại trong con người toàn tài Nguyễn Trãi - nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam với các tư cách anh hùng dân tộc - nhà văn - nhà tư tưởng - nhà chính trị - quan chức, nhà ngoại giao - nhà sử học và địa lý học. Thời kì cuối thế kỉ XIV, các ông vua vãn Trần đắm chìm trong cuộc sống xa hoa, không lo triều chính chỉ lo hưởng thụ vì thế đã trở thành những ông vua nhu nhược, hèn yếu. Lợi dụng tình hình đó, Hồ Quý Li đã thao túng quyền lực của nhà Trần. Đến năm 1400, Hồ Quý Li chính thức cướp ngôi nhà Trần, lập lên nhà Hồ.Sau khi lên làm vua, Hồ Quý Li tiến hành cải cách nhiều mặt của đời sống xã hội nhằm đưa nhà nước phong kiến thể kỉ XIV ra khỏi cơn khủng hoảng như: hạn chế ruộng đất của quý tộc, đánh thuế theo tài sản, phát hành tiền giấy, di dân đi khai hoang... Tuy nhiên những biện pháp cải cách táo bạo không làm khởi sắc được bộ mặt héo úa tàn lụi của xã hội vãn Trần để lại. Bởi những cải cách ấy về thực chất vẫn duy trì những đặc quyền của quý tộc quan liêu mà không mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân cho nên nó không thể bắt rễ được vào trong quần chúng. Vì thế cơ đồ nhà Hồ sụp đổ nhanh chóng sau sáu năm vào tay quân Minh là tất yếu. Sau khi cướp được nước ta, giặc Minh ra sức đàn áp và khủng bố nhân dân ta về mọi mặt. Nhân dân ta rơi vào cảnh khốn cùng, bao cảnh tang tóc, điêu linh thật oán thán... Biết bao cuộc đấu tranh của nông dân nổ ra chống giặc nhưng tất cả đều bị nhấn chìm trong bể máu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 13 http://www.lrc-tnu.edu.vn Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi dấy lên như ngọn gió thổi bùng lên ý chí diệt giặc của nhân dân ta. Toàn dân tộc tiến hành cuộc khởi nghĩa kì diệu nhất, lâu dài nhất, gian khổ nhất và chiến thắng vẻ vang nhất trong lịch sử. Đất nước sạch bóng quân thù, giấc mộng xây dựng một đất nước "trong thôn cùng xóm vắng không có tiếng hờn giận oán sầu" có cơ hội thực hiện. Sau khi giải phóng đất nước, triều đại mới đã ra sức khôi phục nền kinh tế văn hóa bị phá hoại nghiêm trọng. Tuy nhiên, xã hội nước ta với những mặt thối nát đã là nguồn gốc nảy sinh những mâu thuẫn, xung đột trong tầng lớp các quan lại, quý tộc. Nguyễn Trãi đã nhận ra sự thay đổi thời cuộc và con người. Chính ông nhận ra sự bất lực của mình trong trách nhiệm mới ấy và nhận thấy những công thần thủa nào từng là bạn chiến đấu vào sinh ra tử, giờ đây trở thành bọn quan lại sâu mọt, tham ô, kết bè đảng tranh giành quyền vị, làm hại lẫn nhau. Và cũng chính ông chứng kiến Lê Lợi từ vị chủ tướng tài ba thành ông vua đa nghi, độc tài, đa sát. Nhà vua nghi ngờ tấm lòng trung nghĩa của ông, nghi ngờ sự tận tụy của ông và đỉnh cao là phải nhận thảm án oan khiên nhất trong lịch sử dân tộc - chu di tam tộc. 1.1.2. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn Nguyễn Trãi. 1.1.2.1. Cuộc đời. Nguyễn Trãi (1380 - 1442) - nhà văn, nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất của Việt Nam, hiệu là Ức Trai; Người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay là huyện Chí Linh - Hải Dương). Khi Nguyễn Trãi lên 6 tuổi thì mẹ mất, ông phải sống với ông ngoại ở Côn Sơn (Chí Linh - Hải Dương). Nhưng đến 1390 khi ông 10 tuổi thì ông ngoại cũng mất. Nguyễn Trãi về sống với cha ở Nhị Khê (Thường Tín - Hà Nội). Tại đây ông được cha dạy dỗ rèn cặp. Năm 1400, Hồ Quý Li mở khoa thi đầu tiên, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Ông được Hồ Quý Li cử giữ chức Ngự sử đài chánh trưởng. Vì sớm nhận ra ở Nguyễn Trãi một nhân cách đặc biệt, dám nói, dám làm, một tài năng xuất chúng trong sự nghiệp cải cách đất nước nên Hồ Quý Li đã tin tưởng ở Nguyễn Trãi rất nhiều. Nhưng tiếc rằng, Nguyễn Trãi chưa có dịp bộc lộ tài năng thì giặc Minh xâm lược nước ta. Năm 1407, nhà Hồ bị giặc Minh đánh bại. Cha con Hồ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 14 http://www.lrc-tnu.edu.vn Quý Li và nhiều bề tôi của nhà Hồ trong đó có phụ thân của Nguyễn Trãi bị bắt về Trung Quốc. Nghe tin, ông vội vàng cùng em trai đi theo chăm sóc cha. Sau khi nghe lời khuyên của cha, Nguyễn Trãi trở về "tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha thì mới là đạo hiếu". Khi trở về ông bị tướng giặc bắt và giam lỏng ở thành Đông Quan. Mặc dù quân giặc dùng nhiều mưu mua chuộc nhưng ông nhất quyết không ra làm quan cho giặc. Thời gian ở thành Đông Quan (từ 1406 - 1414) là khoảng thời gian Nguyễn Trãi tìm tòi, nghiên cứu, suy nghĩa sách lược đánh quân Minh. Sau khi trốn khỏi thành Đông Quan, Nguyễn Trãi tìm đến với Lê Lợi - vị chủ soái phong trào Tây Sơn và dâng Bình Ngô sách. Được tin dùng Nguyễn Trãi trở thành một trợ thủ đắc lực, tin cậy luôn sát cánh cùng Lê Lợi. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với cương vị Tuyên Phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, ông đã cùng Lê Lợi xây dựng một đường lối quân sự, chính trị táo bạo và đúng đắn, giúp quân ta dành hết thắng lợi từ trận này sang trận khác. Có thể nói trong 10 năm kháng chiến chống Minh, Nguyễn Trãi cùng với nghĩa quân đã trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ, thiếu thốn những đây cũng là giai đoạn rực rỡ, huy hoàng nhất trong cuộc đời ông. Tài năng của ông được đánh giá đúng, khí phách ngang tàng của ông có chốn để vẫy vùng thỏa chí. Sau cuộc kháng chiến thắng lợi đầy oanh liệt, triều đình non trẻ nhà Lê vừa được thành lập đã nhanh chóng rơi vào khủng hoảng, mâu thuẫn trong nội bộ tầng lớp thống trị phát sinh. Do tầm nhìn hạn hẹp, do quá lo lắng cho quyền lợi của hoàng gia, Lê Lợi đã ngăn cản Nguyễn Trãi phát huy hết tài năng ý nguyện của mình. Cho nên chức vụ của Nguyễn Trãi tuy cao nhưng không đủ quan trọng để thi thố tài năng. Năm 1429 do nghi kị, Lê Lợi đã sai bắt Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo - hai nhân vật vào hàng khai quốc công thần. Năm sau, Nguyễn Trãi cũng bị tống giam nhưng sau đó được tha. Tuy nhiên cho đến tận khi Lê Lợi mất (1432), Nguyễn Trãi vẫn không được giao một trọng trách đáng kể nào. Sau khi Lê Lợi mất, Lê Thái Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 15 http://www.lrc-tnu.edu.vn Tông lên ngôi, Nguyễn Trãi vẫn được làm quan nhưng đó chỉ là chức quan "hữu danh vô thực" mà thôi. Năm 1439, Nguyễn Trãi cáo quan về Côn Sơn. Nguyễn Trãi về Côn Sơn mà trong lòng mang nhiều tâm trạng u uất. Năm 1440, khi Lê Thái Tông hiểu Nguyễn Trãi là người có tài có đức bèn triệu ông ra làm quan, phong cho ông chức Kim tử vinh lộc đại phu, Hàn lâm thừa chỉ coi việc Tam quán và kiêm chức Hành khiển Đông Bắc đạo, phụ trách dân bạ tịch Hải Dương, An Quảng. Nguyễn Trãi tin rằng đây là lúc quyền thần bị diệt thì chắc rằng có thể thi thố tài năng - có những ngày tháng hả hê nhất. Thế nhưng cuộc đời Nguyễn Trãi đâu được thỏa ý mà lại rẽ sang ngả đường đầy oan nghiệt bởi vụ án oan tại Trại Vải (làng Đại La, Gia Bình, Bắc Ninh ngày nay). Nguyễn Trãi bị vu oan, kết tội thí nghịch và tru di tam tộc. Hai mươi năm sau ngày Nguyễn Trãi qua đời (1464), vua Lê Thánh Tông xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù Bá, bổ dụng Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện và cấp 100 mẫu ruộng dùng vào việc thờ cúng. Năm 1962, Đảng và Chính phủ ta đã tổ chức lễ kỉ niệm 520 năm ngày Nguyễn Trãi mất. Sau đó, năm 1980 lại tổ chức lễ kỉ niệm 600 năm Nguyễn Trãi sinh và tổ chức văn hóa - khoa học và giáo dục của Liên hợp quốc (UNESCO) ghi nhận ông là: Danh nhân văn hóa thế giới và được kỉ niệm rộng rãi trên toàn thế giới. Ở cả hai lần, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ca ngợi Nguyễn Trãi hết lời, coi Nguyễn Trãi "là anh hùng cứu nước, đồng thời là nhà văn lớn, nhà thơ lớn nước ta", coi "Nguyễn Trãi là một tiêu biểu rất đẹp của thiên tài Việt Nam". 1.1.2.2. Sự nghiệp sáng tác Sau thảm họa tru di tam tộc, tác phẩm của Nguyễn Trãi bị thất lạc hoặc bị hủy nhiều. Tuy nhiên với một khối lượng lớn sáng tác còn lại thì có thể khẳng định, Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học, trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Tác phẩm của ông còn lại, về phần Hán văn có những quyển như, Quân trung tư mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí, Văn kia Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 16 http://www.lrc-tnu.edu.vn Vĩnh Lăng, Văn loại. Sáng tác chữ Nôm có Quốc âm thi tập gồm 254 bài thơ viết theo thể Đường luật hoặc Đường luật xen lục ngôn (sáu chữ). Trong văn học trung đại Việt Nam, Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận lỗi lạc nhất. Ông đã để lại một khối lượng khá lớn văn chính luận, Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, chiếu biểu dưới thời Lê... Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã có ý thức dùng văn chính luận như một vũ khí chiến đấu có hiệu quả nhất cho cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì quyền lợi nhân dân, vì lý tưởng nhân nghĩa. Văn chính luận Nguyễn Trãi có giá trị mẫu mực, cổ điển và là cột mốc đánh dấu sự phát triển của văn chính luận dân tộc. Ngoài ra về văn chính luận của Nguyễn Trãi phải kể đến những tác phẩm, Chí Linh sơn phú, Băng hồ di sự lục, Truyện Nguyễn Phi Khanh, Văn bia Vĩnh Lăng, Lam Sơn thực lục, Dư địa chí.... Trên lĩnh vực thơ ca, cống hiến của Nguyễn Trãi vào lịch sử văn học cũng lớn lao không kém văn xuôi; có khi qua thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm chúng ta mới thật sự hiểu hết ông - một tâm hồn phong phú và tế nhị, phóng khoáng và sáng tạo. Về sáng tác thơ chữ Hán, người ta luôn nhắc tới Ức Trai thi tập. Tác phẩm gồm 105 bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn và do Trần Khắc Kiệm sưu tập, đề tựa năm 1480. Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi giàu tính chất trữ tình tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh di tích lịch sử, tả tâm tình,... và đặc biệt người đọc dường như hiểu nhiều điều về thân thế, cảnh ngộ và niềm tâm sự sâu lắng trong hồn thơ Nguyễn Trãi. Có thể nói, trong văn học Việt Nam, thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một tác phẩm đặc sắc và cũng là tập thơ hay bậc nhất của dòng thơ chữ Hán Việt Nam. Tuy nhiên những đóng góp lớn lao của Nguyễn Trãi với nền văn học dân tộc là tập thơ viết bằng ngôn ngữ dân tộc – Quốc âm thi tập. Đó cũng là lí do quan trọng xuất hiện tập thơ Nôm đầu tiên của nước ta - Quốc âm thi tập. Tác phẩm gồm 254 bài thơ Nôm bộc lộ tâm sự, tình cảm, khí tiết của cá nhân con người Nguyễn Trãi đối với giang sơn đất nước, cỏ cây, cầm thú. Và với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi được xem là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên với số lượng nhiều nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 17 http://www.lrc-tnu.edu.vn Xuất hiện ở nửa đầu thế kỉ XV, thiên tài văn học Nguyễn Trãi đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lí - Trần, đồng thời mở đường cho cả một giai đoạn văn học mới. Về nội dung, văn chương Nguyễn Trãi kết hợp hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Về nghệ thuật, văn chương Nguyễn Trãi đóng góp lớn ở cả hai bình diện thể loại và ngôn ngữ. Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất, nhà thơ trữ tình sâu sắc. Ông đem đến cho văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, góp phần làm cho ngôn ngữ văn học của người Việt thêm giàu và đẹp. 1.1.3. Quốc âm thi tập Quốc âm thi tập được viết vào những thời điểm khác nhau trong cuộc đời nhiều thăng trầm của Nguyễn Trãi. Tuy nhiên phần lớn thơ Nôm Nguyễn Trãi được sáng tác vào những năm cuối đời. Tập thơ gồm 254 bài, không còn cái hào hùng tráng lệ như Bình Ngô đại cáo,không phải là những vần thơ chất nặng suy tư của con người đang tìm đường, người cô đơn, thất vọng đối với vương triều mới như trong Ức Trai thi tập mà ở đó chất chứa bao tâm sự u uất, ngậm ngùi của một tấm lòng suốt đời vì dân vì nước. Về nội dung : Quốc âm thi tập là tập thơ bộc lộ những tâm sự, tình cảm, khí tiết của cá nhân con người Nguyễn Trãi. Tập thơ Quốc âm thi tập thể hiện tình yêu thiên nhiên thiết tha, ca ngợi cảnh đời an lạc thái bình, tự băn khoăn đến nền đạo đức luân lí ...và đặc biệt chứa đựng những tâm sự sâu kín của con người cá nhân Nguyễn Trãi. Chẳng hạn Nguyễn Trãi không chỉ sống với khát vọng, đòi hỏi của riêng mình mà còn đòi hỏi cho người khác. Ông ao ước có một xã hội mà : Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng Dân giàu đủ khắp đòi phương. ( Bài 170) Về nghệ thuật : Quốc âm thi tập là tài liệu văn học cổ nhất hiện nay còn lưu giữ được của nền văn học quốc âm. Tác phẩm là kho chất liệu về những lời nói của ông cha ta thời trung đại và Nguyễn Trãi được mệnh danh là ông tổ của nền văn học cổ điển, ông tổ của nền nghệ thuật dân tộc. Thành tựu lớn nhất tập thơ Quốc âm là xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc trên cơ sở ngôn ngữ của nhân dân, ngôn ngữ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 18 http://www.lrc-tnu.edu.vn văn học dân gian và sự vay mượn sáng tạo thi liệu Hán học. Có thể nói với 254 bài thơ, Nguyễn Trãi được xem là nhà thơ lớn đầu tiên viết thơ Nôm, đồng thời cũng là người sáng tác thơ Nôm đoản thiên có số lượng nhiều bậc nhất trong nền thơ cổ điển dân tộc. Với Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi đã đem đến một cách nghĩ Việt, một tâm hồn thơ Việt Nam. Quốc âm thi tập là sự thể hiện một bước trong quá trình xây dựng "thi pháp Việt Nam” và đặt nền móng cho thơ ca dân tộc ở giai đoạn tiếp theo. 1.2. Giới thuyết về vấn đề nghiên cứu 1.2.1. Khái niệm về khẩu ngữ Không một nền văn học nào trên thế giới có thể tồn tại và phát triển mà không phản ánh con người dân tộc mình bằng chính thứ ngôn ngữ mà dân tộc đó đang sử dụng và lưu giữ. Hay nói cách khác, văn chương nghệ thuật muốn phản ánh chân thực hiện thực cuộc sống thì phải dùng chính lời ăn tiếng nói hàng ngày - khẩu ngữ của nhân dân làm chất liệu. Khi đi vào văn học viết, tiếng nói ấy mang cả điệu hồn dân tộc vào trong đó. Có lẽ vì thế nên các nhà văn, nhà thơ lớn ở bất kì thời đại nào cũng đều ý thức sâu sắc việc đưa khẩu ngữ vào trong tác phẩm của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đưa khẩu ngữ vào trong sáng tác văn học, các nhà nghiên cứu đã quan tâm và chú ý nghiên cứu về khẩu ngữ. Hiện nay có rất nhiều các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm khẩu ngữ. Có thể điểm qua những công trình như, Hoàng Phê với Từ điển tiếng Việt; Nguyễn Như Ý với Từ điển thuật ngữ ngôn ngữ học; Đinh Trọng Lạc với Phong cách học tiếng Việt, Mai Ngọc Trừ - Vũ Đức Nghiệu - Hoàng Ngọc Phiến với Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Cù Đình Tú với Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Ngữ văn 10 (tập 1) sách nâng cao... Nhìn chung các tác giả đều đưa ra những khái niệm về khẩu ngữ, mặc dù có thể nhấn mạnh ở khía cạnh này hay khía cạnh khác nhưng tựu chung lại các tác giả đều cho rằng,khẩu ngữ là lời nói thường dùng trong cuộc sống của người dân. Với việc dựa vào đặc trưng, phạm vi sử dụng của khẩu ngữ, Hoàng Phê trong Từ điển tiếng Việt cho rằng, "khẩu ngữ là dạng lời nói thường, dùng trong cuộc sống hàng ngày, có phong cách đối lập với phong cách viết" [33, tr.196]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 19 http://www.lrc-tnu.edu.vn Tiếp nhận đối tượng ở khía cạnh tính chất của khẩu ngữ, chỉ ra sự khu biệt giữa ngôn ngữ cầu kì kiểu cách trong văn chương với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, các tác giả Quang Hùng và Minh Nguyệt nêu định nghĩa khẩu ngữ như sau, "Khẩu ngữ là lời nói thường, bạch thoại (lời nói thông thường không kiểu cách, xa hoa) khác với văn chương cầu kì kiểu cách" (9, tr.574). Hay Nguyễn Như Ý khi nói về khẩu ngữ thì lại cho rằng khẩu ngữ giống như ngôn ngữ nói và định nghĩa ngôn ngữ nói như sau: "1. Ngôn ngữ nói chỉ tồn tại dưới dạng nói, không có chữ viết. 2. Biến thể phong cách của ngôn ngữ đặc trưng cho dạng nói; còn gọi là khẩu ngữ. (Đó là một hệ thống kí hiệu có thể được thể hiện bằng âm thanh và có chức năng đáp lại một kích thích tố hữu quan (thường đòi hỏi phản ứng ngay lúc ấy) một cách năng động, tức là sự phản ứng phải hoàn chỉnh và nêu rõ mặt cảm xúc cũng như nội dung của các sự kiện hữu quan)[49, tr.170]. Như vậy, tác giả cho rằng khẩu ngữ chỉ là một biến thể phong cách của ngôn ngữ đặc trưng cho dạng nói. Cho nên biến thể này có thể có rất nhiều. Nó mang đặc điểm của người nói, của môi trường giao tiếp, năng lực ngôn ngữ của người giao tiếp...và nó chỉ tồn tại ở dạng nói. Khác với các quan niệm trên, các tác giả trong các công trình, Phong cách học tiếng Việt, Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Phong cách học và đặc điểm tu từ trong tiếng, Ngữ văn 10 (tập 1) sách nâng cao... cũng đưa ra khái niệm khẩu ngữ nhưng với tư cách là phong cách sinh hoạt hàng ngày. Có thể dẫn ra quan niệm của Đinh Trọng Lạc trong Phong cách học tiếng Việt như sau, "Phong cách sinh hoạt hàng ngày (SHHN) là khuôn mẫu thích hợp để xây dựng lớp phát ngôn (văn bản) trong đó thể hiện vai của người tham gia giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày"(16, tr.122). Đồng thời tác giả cũng chỉ rõ vai của người tham gia giao tiếp trong sinh hoạt hằng ngày có thể là "vai của người ông, người bà, vai của bố, mẹ, con, cháu, anh, em, bạn, đồng nghiệp, đồng hành .... tất cả những ai với tư cách cá nhân trao đổi tư tưởng, tình cảm của mình với người khác"(16, tr.122). Vì thế phong cách sinh hoạt được chia ra hai biến thể, Sinh hoạt hằng ngày tự nhiên (thông tục) và sinh hoạt hằng ngày văn hóa (thông dụng). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 20 http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng