Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình sử dụng và sự hài lòng của bệnh nhân với dịch vụ KCB YHCT tại xóm IV -...

Tài liệu Tình hình sử dụng và sự hài lòng của bệnh nhân với dịch vụ KCB YHCT tại xóm IV - xã Văn Xá - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam trong khoảng thời gian 82012 – 82013

.DOC
71
216
58

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI *** TỔ 28 LỚP Y3G §IÒU TRA T×NH H×NH Sö DôNG Vµ Sù HµI LßNG CñA BÖNH NH¢N VíI DÞCH Vô KH¸M CH÷A BÖNH YHCT T¹I X· V¡N X¸ HUYÖN KIM B¶NG TØNH Hµ NAM BÁO CÁO THỰC TẾ CỘNG ĐỒNG HÀ NỘI 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ 2 TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI *** TỔ 28 LỚP Y3G §IÒU TRA T×NH H×NH Sö DôNG Vµ Sù HµI LßNG CñA BÖNH NH¢N VíI DÞCH Vô KH¸M CH÷A BÖNH YHCT T¹I X· V¡N X¸ HUYÖN KIM B¶NG TØNH Hµ NAM CHUYÊN NGÀNH: YHCT BÁO CÁO THỰC TẾ CỘNG ĐỒNG Giáo viên hướng dẫn: BS.Nguyễn Mậu Thực HÀ NỘI 2013 3 CÁC CHỮ VIẾT TẮT BVĐK Bệnh viện đa khoa BYT Bộ y tế CAM Complementary andAlternative Medicine -Thuốc bổ trợ và thay thế CSSK Chăm sóc sức khỏe KCB Khám chữa bệnh PYT Phòng Y tế TYT Trạm Y tế TTYTDP Trung tâm Y tế dự phòng YHCT Y học cổ truyền YHHĐ Y học hiện đại YDHCT Y dược học cổ truyền WHO World Health Organization -Tổ chức Y tế thế giới 4 5 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong thời đại khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, cùng với sự phát triển của các ngành khoa học cơ bản và kĩ thuật ứng dụng, YHHĐ ngày càng chiếm vai trò ưu thế. Điều đó thể hiện trong một số mặt bệnh mà YHCT không thể can thiệp được như: bệnh ngoại khoa, tai - mũi - họng, mắt, sản khoa, các bệnh lí cấp cứu... Nhưng để có nền YHHĐ phát triển thật sự cần sự đầu tư đồng bộ về cơ sở hạ tầng, trang thiết bị kĩ thuật cùng đội ngũ cán bộ y tế chuyên sâu. Bên cạnh đó người bệnh phải chấp nhận giá cả phục vụ rất cao. Cùng với sự phát triển của YHHĐ trong những thập kỷ gần đây, YHCT vẫn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống y tế và góp một phần không nhỏ trong công tác bảo vệ và CSSK nhân dân. YHCT ngày càng trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới ngay cả ở các nước tiên tiến, nơi có nền YHHĐ rất phát triển. Tỷ lệ người sử dụng YHCT ngày càng tăng, đem lại những hiệu quả to lớn trong CSSK và hiệu quả kinh tế. Đặc tính cơ bản của YHCT là tính sẵn có, dễ áp dụng, giá thành thấp nên đặc biệt thích hợp với mọi đối tượng nhất là những ở những quốc gia đang phát triển, cộng đồng dân cư nghèo, nơi vùng nông thôn, xa xôi hẻo lánh, nơi người dân khó tiếp cận được với những dịch vụ y học kỹ thuật cao, đắt tiền. Tại Việt Nam, YHCT là thành phần không thể thiếu trong hệ thống y tế, có vai trò và tiềm năng to lớn trong sự nghiệp CSSK nhân dân. Với lịch sử phát triển hàng ngàn năm cho tới nay, tích lũy được nhiều kinh nghiệm quý báu và phong phú, được đúc kết truyền thụ từ đời này sang đời khác nền YHCT đã và đang phát triển mạnh mẽ, nhất là ở vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng kinh tế khó khăn, khoa học kĩ thuật còn chưa vươn tới…để phục vụ CSSK cho nhân dân.Với ưu điểm nổi trội như các phương pháp chữa bệnh không dùng thuốc: châm cứu, xoa bóp, khí công, dưỡng sinh, thực 6 dưỡng… giúp cơ thể khỏe mạnh, tinh thần thư thái, ôn hoà. Các phương phương pháp này có ưu điểm là dễ phổ biến cho cộng đồng, thao tác dễ thực hiện, loại nguyên liệu dễ tìm kiếm ở xung quanh… Hơn thế nữa, YHCT còn còn đóng góp tích cực trong việc giảm nhẹ gánh nặng chi phí y tế quốc gia, trong nâng cao hiệu quả điều trị một số bệnh mạn tính, phục hồi chức năng … Vì vậy các cơ sở YHCT vẫn giữ vai trò cao trong việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ở những địa phương này. YHCT Việt nam đang ngày càng một hoàn thiện và khoa học hơn, khẳng định được vị trí và vai trò trong CSSK, song hành cùng với sự phát triển của YHHĐ. Điều này đã được khẳng định trong Nghị quyết 46/TW ngày 23/2/2005 của Bộ Chính trị về việc củng cố và phát triển nền YHCT thành một chuyên ngành khoa học [1]. Với nhận thức đó, Bộ Y tế đã ban hành chính sách Quốc gia về YHCT đến năm 2010 với mục tiêu kế thừa, bảo tồn và phát triển Y dược cổ truyền, kết hợp với YHHĐ trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, xây dựng nền Y dược Việt Nam hiện đại, khoa học dân tộc và đại chúng. Mục tiêu chiến lược phát triển Y dược học cổ truyền giai đoạn đến năm 2010 là KCB bằng YHCT ở tuyến trung ương là 10% so với tổng số người bệnh, tuyến tỉnh bằng 20%, tuyến huyện bằng 25% và tuyến xã bằng 40% so với tổng số người bệnh [3]. Tuy nhiên, theo một số nghiên cứu gần đây cho thấy, việc sử dụng YHCT trong điều trị tại tuyến y tế cơ sở còn thấp. Trên thực tế việc triển khai những chủ trương của Đảng, Nhà nước và ngành Y tế về phát triển YHCT vẫn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là ở các TYT xã, nơi vùng sâu, vùng xa, nông thôn hẻo lánh. Vậy thực trạng của YHCT ở các địa phương ra sao, tình hình sử dụng và sự hài lòng của bệnh nhân về các dịch vụ KCB YHCT như thế nào? Tính đến nay chúng tôi chưa thấy nghiên cứu nào nói về vấn đề đó. Cho nên, chúng tôi tiến hành làm nghiên cứu đề tài “Tình hình sử dụng và sự hài lòng của 7 bệnh nhân với dịch vụ KCB YHCT tại xóm IV - xã Văn Xá - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam trong khoảng thời gian 8/2012 – 8/2013” với các mục tiêu như sau: 1. Khảo sát tình hình sử dụng các dịch vụ KCB YHCT tại xóm IV - xã Văn Xá - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam trong khoảng thời gian 8/2012 – 8/2013. 2. Đánh giá sự hài lòng về các dịch vụ KCB YHCT tại xóm IV - xã Văn Xá - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà Nam. 8 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1.1. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ THÀNH TỰU NỀN YHHĐ 1.1.1. Sự phát triển của YHHĐ ở Việt Nam Y học là khoa học và nghệ thuật chữa bệnh, bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể từ việc phòng ngừa và chữa bệnh. YHHĐ ứng dụng các ngành khoa học sức khỏe, y sinh học, công nghệ y học để chẩn đoán và chữa trị bệnh tật bằng thuốc men, phẫu thuật hoặc bằng phương pháp trị liệu khác. Tại Việt Nam, từ năm 2008 bằng nguồn trái phiếu chính phủ 594 bệnh viện tuyến huyện được đầu tư, 12548 tỷ đồng để xây mới và nâng cấp bổ sung trang thiết bị và đào tạo cán bộ. Việc đầu tư đó đã tạo ra bộ mặt mới cho bệnh viện tuyến huyện và tạo được lòng tin của người dân địa phương. Theo báo cáo của bộ y tế có 645 BVĐK huyện, đa khoa liên huyện và một số BVĐK khu vực được đầu tư. Đến nay có 594 bệnh viện, trung tâm y tế huyện được đầu tư trong đó có một số ít được xây dựng mới, còn phần lớn là cải tạo, mở rộng, nâng cấp mua sắm bổ sung trang thiết bị. 51 bệnh viện chưa được đầu tư là do vốn được cấp chưa đáp ứng nhu cầu nên phải xem xét, ưu tiên đầu tư tập trung cho các bệnh viện đang trong quá trình đầu tư hoàn chỉnh. Đến nay đã hoàn thành đầu tư và đưa vào sử dụng 460 bệnh viện huyện và 70 phòng khám đa khoa khu vực. Các bệnh viện được trang bị các thiết bị cần thiết cho chuyên môn như: máy siêu âm, X-quang, máy nội soi, máy xét nghiệm sinh hóa, huyết học, giường tủ, bàn ghế… là điều kiện cần thiết để cán bộ y tế triển khai các kĩ thuật, nâng cao tay nghề, bước đầu đã khuyến khích bác sĩ về công tác. 9 Cùng với tập trung đào tạo, tập huấn chuyên môn, việc chuyển giao kĩ thuật đã góp phần phát triển kĩ thuật ở các bệnh viện. Chất lượng chẩn đoán, điều trị tăng lên, nhiều bệnh viện đã thực hiện được hơn 80% số kĩ thuật phân tuyến, quản lý các bệnh mạn tính tại địa bàn. Công suất sử dụng buồng bệnh của hầu hết các bệnh viện đều tăng khoảng 30% so với trước đây,đáp ứng nhu cầu KCB cho người dân ngay trên địa bàn cư trú. Thống kê cho thấy năm 2012 các cơ sở y tế KCB cho 132 triệu lượt người thì các bệnh viện tuyến huyện thực hiện khám cho 60 triệu lượt người, 65% số lượt người điều trị ở bệnh viện tuyến huyện có bảo hiểm y tế. Những phát kiến quan trọng nhất trong YHHĐ là:  Gây mê giảm đau.  Thuốc kháng sinh.  Thuốc chữa bệnh tâm thần.  Cấy tế bào và màng tạo ra phương thức điều trị mới trong tương lai.  Sử dụng máy tính trong sử lý dữ liệu bệnh dịch học.  Chẩn đoán bằng hình ảnh( từ X-quang đến tac,Rnm, Pet).  Phát hiện những tác hại của việc hút thuốc lá.  Chẩn trị qua thực tiễn- phương pháp lựa chọn cách chữa trị dựa trên các thông số y học tập hợp từ số đông người bệnh.  Dịch tễ học.  Thuốc tránh thai.  Xác định được cấu tạo của DNA ( mở ra thời kì di truyền hiện đại). 10  Sản xuất Vac –xin. 1.1.2 Các thành tựu đặc biệt của YHHĐ ở Việt Nam Mười thành tựu y học Việt Nam nổi bật:  Ghép đa tạng tại bệnh viện Việt Đức, ghép tim trên người ở BVĐK trung ương Huế, ghép tạng tại bệnh viện 103.  Can thiệp tim mạch/ ung bướu ở viện tim mạch quốc gia, bệnh viện đại học y dược thành phố Hồ Chí Minh, ứng dụng kĩ thuật Pet/CT mô phỏng xạ trị điều biến liều trong điều trị ung thư tại bệnh viện Bạch Mai.  Phẫu thuật nội soi điều trị bệnh lý tại bệnh viện Nhi Trung ương và Nội tiết Trung ương.  Ứng dụng vi phẫu trong điều trị tổn thương bỏng sâu, tạo hình sẹo bỏng tại bệnh viện Lê Hữu Trác, bệnh viện chấn thương chỉnh hình Thành phố Hồ Chí Minh.  Ứng dụng tế bào gốc điều trị các bệnh máu ở bệnh viện Huyết học truyền máu Trung ương và bệnh viện truyền máu huyết học thành phố Hồ Chí Minh.  Thụ tinh trong ống nghiệm ở bệnh viện Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh và bệnh viện phụ sản Trung ương.  Ứng dụng Femtosecond Laser trong phẫu thuật nhãn khoa ở bệnh viện mắt Trung ương và bệnh viện mắt thành phố Hồ Chí Minh.  Kết hợp YHCT với phẫu thuật trong điều trị bệnh trĩ, ứng dụng kĩ thuật thủy châm, điện châm trong điều trị giảm đau sau phẫu thuật, ung thư. 11  Nghiên cứu sản xuất Vac- xin cúm A H5N1 và cúm A H1N1, thiết lập công nghệ sản xuất vac- xin cúm A H1N1, vac- xin sởi theo tiêu chuẩn WHO – GMP.  Cụm công trình ngiên cứu về cây trinh nữ hoàng cung. Y học Việt Nam đã đạt được một số thành tựu ngang tầm với thành tựu y học của khu vực và thế giới. Ngành y tế Việt Nam ngày càng được quốc tế đánh giá cao, đặc biệt là các chính sách y tế dành cho người nghèo và cận nghèo được triển khai hiệu quả. Mạng lưới y tế xã thôn là mô hình được nhiều nước học tập. * Nhận xét: YHHĐ nhờ ứng dụng những thành quả công nghệ khoa học tiên tiến của nhân loại với các trang thiết bị hiện đại, các hóa dược mạnh, có thể chẩn đoán, can thiệp, điều trị kịp thời, có hiệu quả cao các bệnh lý cấp cứu, ngoại khoa, cấp tính, truyền nhiễm… thậm chí nếu cần thiết có thể cấy ghép, thay thế các bộ phận bệnh lý. Tuy nhiên, hạn chế của YHHĐ lại chính là việc người bệnh, thậm chí cả thầy thuốc dễ bị rơi vào tình trạng lạm dụng thuốc. Các dược chất bị lạm dụng vốn chưa từng có trong tự nhiên, xa lạ với cơ thể con người, đã và đang gây nhiều tác hại cho sức khỏe nhân loại… Ngoài ra, sự phát triển quá nhanh, quá sâu của các chuyên khoa hẹp cũng là điều kiện thuận lợi cho khuynh hướng chỉ quan tâm tới chữa bệnh đơn thuần, coi nhẹ việc chăm sóc nhằm cải thiện khả năng tự điều chỉnh, tích cực, chủ động bảo vệ sức khỏe của người bệnh. Chính vì thế, để đạt mục tiêu nâng cao sức khỏe, an toàn, hiệu quả, hiện đại, dễ tiếp cận trong KCB, xu hướng của các nước là kết hợp hai nền y học một cách toàn diện, chặt chẽ. Kết hợp hai nền y học chính là một bước nâng cao của quá trình kế thừa, trong quá trình kết hợp mỗi nền y học cần chọn lọc, giữ lại những phần tinh hoa, loại 12 bỏ, hạn chế những phần độc hại, lạc hậu, để xây dựng một nền y học thực sự vì con người, cho con người. 1.2. NỀN YHCT 1.2.1. Khái niệm chung về YHCT a. Định nghĩa về YHCT Theo định nghĩa của WHO: “YHCT hay còn được gọi là Y học dân tộc (Traditional medicine) là toàn bộ những kiến thức, kỹ năng, thực hành dựa trên những nền tảng lý luận, lòng tin và kinh nghiệm của mỗi khu vực, mỗi nền văn hóa khác nhau. Được sử dụng để duy trì sức khỏe, cũng như phòng và chữa bệnh, cải thiện, điều trị những rối loạn thể chất, tinh thần” [41]. Đề cập tới những cách bảo vệ và phục hồi sức khỏe ra đời, tồn tại trước khi có YHHĐ, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. YHCT là một phần của di sản văn hóa các dân tộc [22]. b. Đặc tính của YHCT Hầu hết các hệ thống của mỗi nền YHCT trên thế giới đều gắn liền với đặc điểm văn hóa và lối sống của dân tộc đó. Mặc dù vậy trong nhiều hệ thống YHCT vẫn có những đặc tính chung phổ biến, đó là:  Niềm tin và hệ thống lý luận cho rằng con người là một thể thống nhất của thể xác và tâm hồn, tinh thần và cảm xúc. Sức khỏe là sự cân bằng của nhiều mặt đối lập nhau trong cơ thể cũng như là sự cân bằng giữa cơ thể con người và môi trường sống. Bệnh tật xuất hiện nếu như mất đi sự cân bằng đó.  Cách tiếp cận trong chẩn đoán và điều trị của YHCT là một cách tiếp cận tổng thể, không đơn giản là chỉ xác định cơ quan nào của cơ thể bị rối loạn, tổn thương. Cũng như khi đưa ra các phương pháp điều trị, các 13 thầy thuốc YHCT thường kèm theo các lời khuyên về lối sống và hành vi sức khỏe. Trong điều trị, YHCT dựa trên những nhu cầu khác nhau, sự khác biệt của từng người bệnh cụ thể. Mỗi người bệnh khác nhau sẽ nhận được cách điều trị khác nhau cho dù họ mắc cùng một chứng bệnh [40]. WHO đã nhận định về lợi ích của YHCT: “Không cần phải chứng minh lợi ích của YHCT mà cần phải đề cao và khai thác rộng rãi hơn những khả năng của nó có lợi cho toàn thể nhân loại, phải đánh giá và công nhận cho đúng giá trị của nó và làm cho nó hữu hiệu hơn, chắc chắn hơn, rẻ tiền hơn để sử dụng nhiều hơn”. 1.2.2 YHCT trên thế giới. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, ngày nay người ta càng nhận rõ vai trò quan trọng của việc sử dụng YHCT trong CSSK, chính vì thế, nhiều quốc gia đã đặt ra vấn đề kết hợp YHHĐ với YHCT trong CSSK ban đầu. Không chỉ ở các nước châu Á và các nước nghèo mà ngay cả những nước phát triển YHCT cũng được sử dụng rộng rãi [35]. Trong tuyên ngôn Alma-Ata “Sức khỏe cho mọi người” năm 1978, WHO đã kêu gọi các quốc gia chấp nhận YHCT vào trong hệ thống CSSK và công nhận vị trí của thầy thuốc YHCT trong hệ thống y tế. Kết quả là hơn 30 năm qua việc sử dụng YHCT trong CSSK ban đầu tại tuyến y tế cơ sở đã tăng lên một cách đáng kể ở những nước đang phát triển cũng như việc sử dụng những thuốc bổ trợ và thay thế ở những nước phát triển trên thế giới. Bởi những lý do đó, ngay trong những năm đầu của thế kỷ 21, WHO đã vạch ra chiến lược về YHCT trong giai đoạn 2002-2005 để kết hợp YHCT vào trong hệ thống hệ thống y tế quốc gia [39]. 14 Trong 3 năm nghiên cứu, WHO đã đưa ra khuyến cáo chung cho các nước trên thế giới về việc điều trị kết hợp YHCT với YHHĐ trong CSSK cộng đồng với các mục tiêu:  Kết hợp YHCT với YHHĐ để phát triển và hoàn thiện các chương trình, chính sách y tế quốc gia.  Đảm bảo sử dụng thuốc YHCT, thuốc thay thế và bổ trợ an toàn, hiệu quả và phù hợp.  Tổ chức nghiên cứu, đào tạo, thu thập những kinh nghiệm, sử dụng các biện pháp điều trị bằng YHCT, duy trì và bảo tồn nền YHCT của các quốc gia. Cải thiện các phương pháp điều trị bằng YHCT. Làm cho YHCT được phổ cập, nhất là đối với những người nghèo [38]. Đấy chính là những tác động tích cực từ phía những nhà quản lý, người cung cấp dịch vụ, còn đối tượng sử dụng là người dân đó dùng YHCT như là một phương pháp hiệu quả trong CSSK. YHCT đã được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tại châu Phi có tới 80% dân số sử dụng YHCT trong CSSK. Tại châu Á và Mỹ La tinh số lượng người sử dụng YHCT ngày một tăng [37]. Tại Ethiopia tỷ lệ dân số sử dụng YHCT trong CSSK ban đầu lên tới 90%, con số này tại Rwanda là 70%, Uganda là 60% [39]. Tại Nam Phi có tới 30 triệu người được điều trị bằng YHCT và có khoảng 200000 thầy thuốc YHCT trong hệ thống y tế [22]. Tỷ lệ nguời sử dụng các biện pháp chữa bệnh bằng YHCT tại Ghana là hơn 60%. Đối với khu vực Mỹ - La tinh, theo báo cáo của WHO 71% dân số Chile sử dụng YHCT và 40% dân số Colombia đã sử dụng YHCT trong KCB [36]. 15 Tại Ấn Độ tỷ lệ người dân sử dụng YHCT cũng rất cao là 70%. Ở Ấn Độ, có 2 hình thức YHCT được sử dụng, đó là chính thống và không chính thống. Hình thức YHCT chính thống của Ấn Độ được chính thức công nhận là Ayurveda, Yoga, Naturopathy, Unani, Sidda và Homeopathy gọi tắt là AYUSH. Tại Tanzania, tỷ lệ sử dụng YHCT trong chữa bệnh là 60%. Khu vực Tây Thái Bình Dương là khu vực mà YHCT rất phát triển. Tại Malaysia, YHCT Malay, YHCT Trung Quốc, và YHCT Ấn Độ đều được sử dụng. Một nghiên cứu tại Nauru năm 1997 đã cho thấy 60% người tham gia nghiên cứu và 71% bệnh nhân đang điều trị trong bệnh viện sử dụng YHCT [40]. Theo báo cáo của Bộ Y tế Philipine có khoảng 250000 thầy thuốc YHCT đang hoạt động tại nước này, họ đặc biệt có hiệu quả trong việc hướng dẫn người dân tại cộng đồng trong CSSK ban đầu [40]. Tại Singapore, có khoảng 12% bệnh nhân ngoại trú sử dụng YHCT. Một khảo sát của Bộ Y tế năm 1994 cho thấy 45% người dân Singapore sử dụng YHCT và 19% người dân Singapore đã sử dụng YHCT trong năm trước đó. Tại Bangladesh 70-75% dân số sử dụng YHCT, tiếp cận với YHCT trước tiên khi họ gặp vấn đề sức khỏe [40]. Tại Lào, trong nghiên cứu của K.Sydra và cộng sự điều tra 600 hộ gia đình về sử dụng YHCT, tỷ lệ người sử dụng YHCT là 77%, có rất ít khác biệt giữa thành thị và nông thôn, và không có sự khác biệt trong sử dụng YHCT giữa người dân sống ở vùng núi cao và đồng bằng. Các bệnh chủ yếu khi sử dụng YHCT là những chứng bệnh thông thường như cảm mạo, sốt, tiêu chảy, sốt rét và rối loạn tiêu hóa. Tuy nhiên, tỷ lệ sử dụng YHCT tại tuyến y tế cơ sở lại rất thấp 2%. Bộ Y tế Lào đã khuyến khích nhân dân sử dụng YHCT trong CSSK, trồng cây thuốc trong vườn nhà [32]. 16 Thái Lan là một quốc gia có nền YHCT lâu đời, tuy nhiên trước sự phát triển mạnh mẽ của YHHĐ, YHCT Thái Lan bị lãng quên trong suốt một thời gian dài. Nhưng trước những giá trị và hiệu quả không thể phủ nhận của YHCT, Chính phủ Thái Lan cũng có những biện pháp để khuyến khích người dân sử dụng YHCT, tuyên truyền và giáo dục về vai trò của YHCT trong CSSK ban đầu [22], [30]. Cuba là một nước thuộc nhóm đang phát triển, tuy nhiên những chỉ số sức khỏe của Cuba rất tốt, tỷ lệ sử dụng YHCT trong các cơ sở y tế rất cao, 86% các y bác sĩ Cuba sử dụng các phương pháp chữa bệnh bằng YHCT trong điều trị [31]. Trong khi đó tại các nước phát triển, tỷ lệ người dân đến với thuốc thay thế và bổ trợ ngày càng phổ biến. Theo thống kê của WHO tỷ lệ người dân có sử dụng thuốc YHCT và những thuốc bổ trợ thay thế khác tại Úc là 48%, Canada là 70%. Con số này ở Mỹ là 42%, Bỉ là 38% và Pháp là 75% [38]. Một nghiên cứu khảo sát trên 600 bác sĩ Thụy sĩ cho thấy 46% đã sử dụng một vài hình thức của YHCT, chủ yếu là châm cứu và vi lượng đồng căn, Yoga, tác động cột sống... Tại Anh khoảng 40% các bác sĩ đa khoa đã sử dụng một vài phương pháp chữa bệnh bằng YHCT và các thuốc bổ trợ thay thế khác. Châm cứu là một hình thức chữa bệnh không dùng thuốc của YHCT đã trở nên rất phổ biến. Châm cứu bắt nguồn từ YHCT Trung Quốc nhưng ngày nay đã được sử dụng tại 78 quốc gia trên thế giới. Theo báo cáo của Hội Châm cứu thế giới, hiện nay có khoảng 50000 các nhà châm cứu tại các nước châu Á. Tại châu Âu, có khoảng 15000 nhà châm cứu. Tại Đức, 77% các trung tâm chống đau sử dụng châm cứu trong điều trị, tại Bỉ 74% các bác sĩ điều trị giảm đau sử dụng châm cứu như là một biện pháp rất hiệu quả [38]. 17 YHCT không chỉ điều trị những chứng bệnh thông thường như cảm mạo, giảm đau, bổ dưỡng, mà còn có tác dụng điều trị nhiều bệnh lý phức tạp như sốt rét, điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân HIV/AIDS…Tại Ghana, Mali, Nigeria và Zambia hơn 60% trẻ em sốt cao được điều trị tại nhà bằng thuốc YHCT. Tỷ lệ những bệnh nhân có HIV/AIDS tại Mỹ sử dụng YHCT làm thuốc điều trị hỗ trợ lên tới 78%. Trong một nghiên cứu của Peltzer và cộng sự tại Nam Phi đối với bệnh nhân HIV/AIDS cho thấy YHCT đóng một vai trò quan trọng trong điều trị nhiễm trùng cơ hội, điều trị kết hợp với thuốc kháng virus và nâng cao sức khỏe đạt hiệu quả cao. YHCT cũng đóng một vai trò quan trọng trong phòng chống, hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân HIV/AIDS và các bệnh lấy truyền qua đường tình dục khác. Cũng trong một nghiên cứu khác của Peltzer và cộng sự tại Nam phi cho thấy YHCT còn đóng vai trò quan trọng trong CSSK sinh sản, chăm sóc trước sinh, trong khi sinh và sau sinh, chăm sóc sơ sinh và kế hoạch hóa gia đình. Nghiên cứu sử dụng các thuốc thảo dược của YHCT trong điều trị những bệnh hiểm nghèo như ung thư cũng đang được tiến hành tại nhiều quốc gia trên thế giới, người bệnh cũng tìm đến YHCT sau khi điều trị bằng các phương pháp YHHĐ bị thất bại. Các sản phẩm từ thảo dược dành cho bổ dưỡng, chống lo âu, thực phẩm chức năng, vitamin tự nhiên được dùng ngày càng nhiều tại các nước phát triển [43]. Người bệnh sử dụng YHCT hay các biện pháp thay thế bổ trợ còn tìm thấy sự hài lòng trong các dịch vụ cung cấp về chất lượng, về tính an toàn trong sử dụng, các báo cáo khảo sát của Mỹ đã chỉ ra rằng những phàn nàn của người bệnh về các dịch vụ KCB YHCT ít hơn YHHĐ. Sử dụng YHCT còn cắt giảm bớt chi phí quốc gia về y tế. Trong nghiên cứu của Doris Muta về hiệu quả kinh tế của việc sử dụng YHCT trong KCB năm 2001, tại Kenya, chính phủ đã tiết kiệm được 80.000 USD/ năm. Tác giả cũng nêu ra rằng các thầy thuốc YHCT giải quyết được 68,7% gánh nặng 18 bệnh tật, so với 31,3% từ phía Chính phủ [33]. Một trong các quốc gia tiêu biểu có nền YHCT phát triển cao phải kể tới là Trung Quốc. Nền YHCT Trung Quốc có từ lâu đời và có ảnh hưởng sâu sắc đến nền YHCT của nhiều quốc gia như Nhật Bản, Việt Nam, Ấn Độ...Nền YHCT Trung Quốc là nền YHCT dựa trên nền tảng lý luận sâu sắc, kết hợp nhuần nhuyễn với triết học phương Đông, với học thuyết Âm dương, Ngũ hành, với những tác phẩm lý luận kinh điển như Nội kinh, Nạn kinh, Thương hàn, Kim quỹ yếu lược. Sự kết hợp YHCT với YHHĐ tại Trung Quốc là một trong những chủ trương chính của ngành y tế Trung Quốc. Trong đó các thầy thuốc Tây y được đào tạo thêm về YHCT bên cạnh những thầy thuốc chuyên khoa YHCT và các thầy thuốc YHCT được đào tạo thêm về YHHĐ, họ được công nhận một cách chính thức vào hệ thống y tế [22]. Hệ thống CSSK bằng YHCT của Trung Quốc theo báo cáo của WHO lên đến 525 000 bác sĩ chuyên khoa YHCT với 2 654 bệnh viện YHCT, 170 trường đại học và các viện nghiên cứu về YHCT. Số lượng người dân sử dụng YHCT tại Trung Quốc là 90%, lượng bệnh nhân hàng năm điều trị ngoại trú là 200 triệu, bệnh nhân nội trú là 3 triệu lượt người một năm. YHCT Trung Quốc đã được hơn 120 quốc gia và khu vực trên thế giới chấp nhận và giành được vị trí hợp pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới như Singapore, Malaisia và Indonesia. Tại Hồng công, Trung Quốc, 60% dân số đã khám chữa bệnh bằng YHCT, trong năm 2000, 22% tổng số lượt khám bệnh là bằng YHCT [40]. Nhật Bản cũng là một quốc gia có nền YHCT lâu đời và phát triển với lịch sử trên 1400 năm. Nhật Bản được xem là nước có tỷ lệ người sử dụng YHCT cao nhất thế giới hiện nay. YHCT Nhật Bản là sự kết hợp giữa YHCT Trung Quốc và y học dân gian Nhật Bản gọi chung là Kampo. Khoảng 65% các bác sĩ Nhật Bản đã sử dụng phối hợp YHCT với YHHĐ trong KCB. Một khảo sát được tiến hành tại Tokyo năm 1990 cho thấy 91% số người tham gia 19 đánh giá cao hiệu quả của YHCT đối với các bệnh mạn tính, 49% đã sử dụng thuốc thảo dược và 30% đã sử dụng châm cứu trong CSSK [34]. YHCT không chỉ có vai quan trọng trong CSSK nhân dân ở nhiều nước trên thế giới, đã được công nhận chính thức vào hệ thống y tế của một số quốc gia tại nhiều khu vực. Sử dụng YHCT còn đem lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn. Tại Úc, ước tính chi phí hàng năm dành cho các thuốc bổ trợ và thay thế vào khoảng 1 tỷ đô la Úc, trong đó khoảng 621 triệu đô la dùng cho các thuốc thay thế. Một nghiên cứu về sử dụng YHCT Trung Quốc tại Úc cho thấy sự phổ biến của khám chữa bệnh bằng YHCT, ước tính có khoảng 2,8 triệu lượt khám bằng YHCT mỗi năm, tương đương với khoảng 84 triệu đô la Úc. Tại Trung Quốc, năm 1995 tổng sản phẩm thuốc thảo dược trị giá khoảng 2,3 tỷ USD và chiếm 33% thị trường dược Trung Quốc, đến năm 2005 đã đạt tới con số 14 tỷ USD. Tại Nhật Bản, thị trường thuốc thảo dược ước tính khoảng 1,5 tỷ USD/ năm chiếm 3,5% tổng thị trường dược phẩm. Tại nhiều nơi khác trên thế giới chi phí cho thuốc và dịch vụ YHCT tăng nhanh một cách đáng kể. Tại Malaysia thị trường thuốc YHCT ước tính khoảng 1 đến 2 tỷ USD/ năm, lớn hơn thị trường thuốc tân dược. Tại Canada, Mỹ con số dành cho YHCT và thuốc bổ trợ thay thế lần lượt là 2,4 tỷ và 2,3 tỷ USD. Tại châu Âu, tổng giá trị bán thuốc thảo dược năm 2003 đạt tới con số 3,7 tỷ Euro. Thị trường thuốc thảo dược của YHCT hiện nay đã lên tới 60 tỷ USD, sản phẩm phổ biến nhất là Sâm Triều tiên, dầu tỏi [40]. Để khẳng định vai trò, tầm quan trọng và lợi ích của YHCT trong CSSK, WHO và nhiều quốc gia đã có những chính sách để đẩy mạnh việc phát triển YHCT. 20 1.2.3. Chiến lược phát triển YHCT giai đoạn 2002- 2005 của WHO. - Ngày 7/11/2008 tại Bắc Kinh, trong tuyên bố Bắc Kinh, qua bài phát biểu của Tổng giám đốc Margaret Chan, WHO đã một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng của YHCT trong CSSK ban đầu [42]. - Từ 31/8- 2/9/2009 tại Bangkok, đó có hội nghị về YHCT các nước thuộc khối ASEAN. Trong tuyên bố Bangkok đã đưa ra một số định hướng mang tính chiến lược để phát triển hệ thống YHCT trong khu vực như chia sẻ thông tin, các bằng chứng khoa học về YHCT của các nước thành viên. Chính sách để quản lý, điều chỉnh các hoạt động, đảm bảo tính an toàn, hiệu quả của YHCT, tăng cường kết hợp YHCT với YHHĐ trong CSSK và phát triển YHCT qua sự phối hợp giữa các nhà chuyên môn, các đơn vị kinh tế, các tổ chức phi lợi nhuận, các viện nghiên cứu, các cộng đồng có quan tâm [44]. Tuy nhiên, mỗi quốc gia thì nền YHCT lại có những sắc thái riêng. Đây chính là yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa riêng của mỗi dân tộc. 1.2.4 YHCT ở Việt Nam a. YHCT trong chăm sóc sức khoẻ nhân dân ở Việt Nam Việt Nam là một nước có nền YHCT lâu đời và phát triển. YHCT Việt Nam là một bộ phận của hệ thống y tế Việt Nam, là một di sản văn hóa của dân tộc, đã tồn tại phát triển song song với công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, một bộ phận không thể thiếu trong sự nghiệp CSSK nhân dân [22]. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, YHCT Việt Nam đó đúc rút được nhiều kinh nghiệm phòng bệnh và chữa bệnh có hiệu quả, từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng dần lên thành lý luận, kết hợp với tiến bộ của nhân loại, nhất là triết học, y lý của của phương Đông để hình thành một bản sắc
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất