Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tình hình ruộng đất của người thái ở tây bắc trước năm 1945 (qua nguồn tài liệu ...

Tài liệu Tình hình ruộng đất của người thái ở tây bắc trước năm 1945 (qua nguồn tài liệu địa phương)

.PDF
107
364
122

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác. Tác giả luận văn Trần Thị Phượng LỜI CẢM ƠN Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Phạm Văn Lực, người đã tận tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tôi xin gửi tới các thầy giáo, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, khoa Lịch sử, Phòng sau Đại học Trường Đại học sư phạm Hà Nội, Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc lời cảm ơn chân thành vì đã quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa học. Tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Bảo tàng, Thư viện các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái; các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian: Lò Văn Lả, Hoàng Trần Nghịch, Vi Trọng Liên… đã tạo điều kiện thuận lợi và có những ý kiến đóng góp quý báu cho tôi trong quá trình thu thập tư liệu, nghiên cứu để hoàn thành bản luận văn này. Với thời gian nghiên cứu còn hạn chế, chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Chúng tôi rất mong sự đóng góp chân thành của quý thầy giáo, cô giáo và bạn đọc để luận văn này có giá trị trong thực tiễn. Tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2015 Tác giả luận văn Trần Thị Phượng MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................................3 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu .............................................................5 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu .............................................................6 5. Đóng góp mới của luận văn ....................................................................................7 6. Bố cục của luận văn ................................................................................................7 CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC TÂY BẮC VÀ NGƯỜI THÁI Ở TÂY BẮC ...................................................................................................................8 1.1. Khái quát lịch sử hình thành vùng đất Tây Bắc ...................................................8 1.2. Điều kiện tự nhiên, địa vực cư trú ......................................................................12 1.2.1. Địa hình, đất đai ..............................................................................................12 1.2.2. Sông ngòi, khí hậu...........................................................................................12 1.2.3. Địa vực cư trú ..................................................................................................15 1.3. Lịch sử hình thành cộng đồng người Thái ở Tây Bắc .......................................16 1.4. Tình hình kinh tế - xã hội ...................................................................................21 1.4.1. Tình hình kinh tế .............................................................................................21 1.4.2. Tình hình xã hội ..............................................................................................24 Tiểu kết chương 1......................................................................................................29 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ LOẠI HÌNH RUỘNG ĐẤT CỦA NGƯỜI THÁI Ở TÂY BẮC TRƯỚC KHI THỰC DÂN PHÁP CHIẾM ĐÓNG TÂY BẮC (NĂM 1888)..............................................................................................................30 2.1. Cơ sở phân loại và cách gọi tên ruộng của người Thái ở Tây Bắc ....................30 2.1.1. Cách phân loại theo tác động của con người với tự nhiên ..............................31 2.1.2. Sự phân loại ruộng mang tính chất xã hội ......................................................34 2.2. Một số loại hình ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống ...............................40 2.2.1. Khái quát về ruộng đất ....................................................................................40 2.2.2. Ruộng của quý tộc và chức dịch .....................................................................43 2.2.3. Ruộng của nông dân ........................................................................................61 Tiểu kết chương 2......................................................................................................67 CHƯƠNG 3: MỘT SỐ LOẠI HÌNH RUỘNG ĐẤT CỦA NGƯỜI THÁI Ở TÂY BẮC THỜI KÌ PHÁP THUỘC (1888 – 1945) ............................................68 3.1. Quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Pháp ở Tây Bắc .........................68 3.2. Sự biến động các loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc ......................76 3.2.1. Về loại hình sở hữu .........................................................................................76 3.2.2. Về phương thức canh tác.................................................................................85 Tiểu kết chương 3......................................................................................................89 KẾT LUẬN ..............................................................................................................90 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................92 PHỤ LỤC MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Khoảng thế kỉ XIII, với việc người Thái định cư ở khu vực Tây Bắc đã đánh dấu bước chuyển biến mạnh mẽ trong xã hội cổ truyền nơi đây. Khi đến khu vực này và cho đến tận ngày nay người Thái được phân chia thành hai ngành Thái Trắng và Thái Đen. Sự phân chia này là kết quả của một quá trình thiên di, xáo động trên những diễn biến lịch sử lâu dài và phức tạp. Song, cho dù hiện nay có hai ngành Thái, chẳng qua cũng là do sự chuyển hóa từ một nhóm Thái (Táy) cổ xưa nhất mà thiên di đi mỗi người một ngả. Rồi trên địa vực cư trú của từng nhóm một tiếp xúc với điều kiện tự nhiên và đặc biệt chịu ảnh hưởng của các dân tộc xung quanh để rồi xa dần các nguyên gốc của mình. Và cũng từ đó xuất hiện các nhóm Thái ở mỗi địa phương khác nhau. Nằm trong thành phần của dân tộc Việt Nam, người Thái đã sớm sinh tụ ở miền tây của Tổ quốc. Với tên tự là Táy, họ đã có một ý niệm thống nhất về những người đồng tộc của mình. Ngôn ngữ Thái hiện nay được xếp vào nhóm tiếng Thái hay còn gọi là nhóm Tày – Thái. Về loại hình thể chất, cũng như các tộc người hiện nay có mặt trên đất nước ta, người Thái thuộc nhóm loại hình Nam Á, nằm trong đại chủng Mônggôlôít (Mongoloides). Người Thái ở Tây Bắc là một thành phần trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ý thức quốc gia Việt Nam thống nhất ở họ đã có từ lâu đời. Đồng bào tự nhận là người thái ở Việt Nam hay người Việt. Dân tộc Thái là dân tộc thiểu số có số lượng dân cư đông nhất khu vực Tây Bắc, chiếm khoảng 53% dân số (theo số liệu thống kê năm 2009 của Tổng cục thống kê). Đồng thời, dân tộc Thái có trình độ phát triển và cuộc sống định cư sớm hơn các dân tộc khác trong khu vực. Cùng với cuộc sống định cư của đồng bào Thái, sản xuất nông nghiệp cũng có bước phát triển mới đạt được nhiều thành tựu rực rỡ trong đó vấn đề ruộng đất từng bước được xác lập. Bản mường Thái đã tồn tại trên một đối tượng sản xuất chủ yếu là ruộng đất. Cho nên ruộng đất bao giờ cũng có ý nghĩa tự nhiên và xã hội. Xã hội Thái chưa bị hàng hóa và tiền tệ chi phối bởi vì kinh tế hàng hóa chưa phát triển. Mọi hiện tượng, 1 mọi quan hệ đều nảy sinh từ ruộng đất. Bởi vậy có thể ví ruộng đất như một chìa khóa để mở những điều cốt tử nhất cho sư hiểu biết về xã hội họ. Bên cạnh những nét chung, vấn đề ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc cũng có đặc trưng riêng so với miền xuôi và các địa phương khác. Người Thái có chung một loại hình cơ cấu kinh tế và xã hội cổ truyền, đó là loại hình tổ chức xã hội theo chế độ “ phìa tạo”. Xã hội đó phân chia địa hạt hành chính thành từng châu mường. Mỗi một châu mường (tương đương như một huyện hiện nay) đã hình thành nên một bộ máy chính trị, bóc lột của một dòng quý tộc thế tập. mọi thể chế xã hội đều dựa trên sự phân bố ruộng đất một cách trực tiếp. Đất được mang danh nghĩa của toàn mường (công thổ) và ruộng cũng mang tên “ruộng toàn mường” (ná háng mướng) – một loại công điền. Mọi người đều có quyền sử dụng ruộng đất, nhưng phải chịu làm “việc mường” – một loại việc công ích. Song mọi khoản “việc mường” đều do bộ máy thống trị “phìa tạo” điều khiển, nó phải phục vụ lợi ích của “phìa tạo”. Do đó, “phìa tạo” đã lợi dụng được “đòn bẩy” này để thống trị và bóc lột toàn dân trong mường. Thế nhưng cho đến nay, chưa có công trình khoa học nào đề cập đến vấn đề này một cách hoàn chỉnh, hệ thống. Nhiều vấn đề khoa học về chế độ ruộng đất nói chung và các loại hình ruộng đất của người Thái nói riêng chưa được làm rõ. Vì thế, việc lựa chọn: “Tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 (qua nguồn tài liệu địa phương)” làm đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sau: Về khoa học + Góp phần làm sáng rõ và phong phú thêm lí luận về chế độ ruộng đất ở Việt Nam trước năm 1945. + Làm rõ thêm tính độc đáo về chế độ ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống – đó là một trong những tri thức bản địa cần được lưu giữ, kế thừa và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Về thực tiễn + Bổ sung thêm kết quả nghiên cứu về Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung đặc biệt về vấn đề nông nghiệp và ruộng đất. 2 + Từ quan hệ ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống góp phần xây dựng bản làng văn hóa ở Sơn La nói riêng, khu vực Tây Bắc nói chung. + Góp phần bảo tồn tri thức bản địa. + Làm tài liệu tham khảo và giảng dạy lịch sử địa phương trong các trường Phổ thông, Trung học chuyên nghiệp, Cao đẳng và Đại học ở Tây Bắc. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đến nay, có rất nhiều công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề ruộng đất nói chung và các loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc nói riêng. Trong một số tác phẩm như Dư địa chí (Bản dịch của Phan Huy Tiếp; Hà Văn Tấn chú thích và giới thiệu) của tác giả Nguyễn Trãi (1959), Nxb Sử học, Hà Nội. đã cung cấp cho tác giả sự nhìn nhận chính xác về phạm vi của khu vực Tây Bắc, cũng như sự thay đổi các đơn vị hành chính của khu vực trong từng thời kì, từ đó tác giả có thể xác định được cụ thể, rõ ràng giới hạn về không gian của luận văn. Tác giả Lã Văn Lô (1973) với Bước đầu tìm hiểu các dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, đã đề cập tới vai trò to lớn của các dân tộc thiểu số trong đó có dân tộc Thái với quá trình “xây dựng bản mường” nói riêng và với sự nghiệp dựng nước và giữa nước của quốc giá, dân tộc nói chung. Tác giả Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1977), Tư liệu về lịch sử và xã hội Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, đã vẽ nên một bức tranh khái quát về những nét đặc trưng kinh tế của các dân tộc nói chung, dân tộc Thái nói riêng. Mặc dù không trực tiếp đề cập đến một số loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc nhưng đã giúp tác giả có cơ sở lí luận để thực hiện nhiệm vụ của đề tài. Là vùng đất địa đầu của Tổ Quốc, khu vực Tây Bắc đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu, với nhiều công trình chuyên sâu. Tác giả Cầm Minh (1972) với Báo cáo về một số tình hình ruộng đất ở vùng người Thái, Tài liệu lưu tại thư viện tỉnh Sơn La, đã khái quát về tình hình ruộng đất của người Thái làm nền tảng cho luận văn nghiên cứu và phát triển. 3 Tác giả Cầm Trọng (1978) với Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam đã đi sâu nghiên cứu về cơ cấu kinh tế - xã hội cổ truyền, yếu tố chủ yếu đã kiến tạo nên cộng đồng Thái. Trên cơ sở đó đánh giá mức độ phát triển của xã hội cổ truyền của họ. Từ đó tiếp tục nêu lên bước phát triển có tính chất nhảy vọt lớn lao về kinh tế - xã hội khi họ đứng dưới lá cờ quang vinh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cuốn sách là nguồn tài liệu quý giá đã đặt cơ sở cho tác giả có cái nhìn nhận chính xác về ruộng đất và ảnh hưởng của nó tới xã hội của người Thái Tây Bắc. Trong một số bài viết chuyên khảo như: Lã Văn Lô (1964), "Bước đầu nghiên cứu về chế độ xã hội ở vùng Tày, Nùng, Thái dưới thời Pháp thuộc", ; Cầm Trọng, Hữu Ưng (1973), "Góp phần tìm hiểu chế độ ruộng công và hình thái xã hội của người Thái Tây Bắc trước đây"; Đặng Nghiêm Vạn (1987), "Vai trò của Chúa đất trong xã hội tồn tại chế độ Thổ ty, Lang đạo, Phìa tạo, Chúa đất (cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX)". Các bài viết này đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản nhất của chế độ ruộng đất của người Thái Tây Bắc và những tác động của chế độ ruộng đất đó tới thiết chế chính trị xã hội. Đây chính là những tài liệu tham khảo quan trọng để tác giả có thể làm rõ hơn sự thay đổi về tình hình ruộng đất của người Thái trước và sau khi thực dân Pháp xâm chiếm Tây Bắc. Các công trình Lịch sử Đảng bộ huyện Mường La 1940 - 1990; cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Lai Châu (Tập 1); cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Phù Yên (1940 1975); cuốn Lịch sử Đảng bộ tỉnh Sơn La 1939 - 1954 (Tập 1) đều của Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội… đã đề cập đến vấn đề ruộng đất của người Thái Tây Bắc trong phần đề dẫn. Những tác phẩm này khiến cho tác giả có cơ sở xác định được tầm quan trọng của vấn đề ruộng đất trong chính sách của Đảng, Nhà nước đối với vùng Tây Bắc. Các tác phẩm bằng tiếng Thái như Quam tô mương; Táy Pú Xấc, Chương Han, Phiết mương… cũng đề cập đến các loại hình ruộng đất của người Thái khi họ bắt đầu sinh sống và định cư ở vùng Tây Bắc. Đây chính là những bằng chứng cụ thể nhất để cho tác giả có cơ sở dựa vào để phân tích và làm rõ vấn đề. 4 Những tác phẩm trên đã đề cập đến những mặt khác nhau về tình hình ruộng đất, các loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc. Tuy nhiên, còn tản mạn, chưa có hệ thống, các công trình nghiên cứu còn đơn lẻ, độc lập. Song các công trình trên đã cung cấp nguồn tư liệu quan trọng, phong phú, gợi ý phương hướng để tôi nghiên cứu đề tài này. 3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945. 3.2. Phạm vi đề tài - Giới hạn thời gian: Với đề tài “Tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 (qua nguồn tài liệu địa phương)” được giới hạn trong phạm vi thời gian từ khi người Thái định cư tại khu vực Tây Bắc (thế kỉ XIII) đến trước năm 1945. - Giới hạn không gian: Với đề tài “Tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 (qua nguồn tài liệu địa phương)” được giới hạn trong phạm vi không gian khu vực Tây Bắc bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái và một phần của Hoà Bình. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu tác giả có sự so sánh, đối chiếu với một số tỉnh khác để thấy được đặc trưng về ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc. - Giới hạn về nội dung: Đề tài tập trung làm rõ một số loại hình ruộng đất truyền thống của người Thái ở Tây Bắc. Đồng thời, luận văn cũng làm rõ những biến đổi của các loại hình ruộng đất nêu trên trong thời kì Pháp thuộc (1888 – 1945) thông qua nguồn tài liệu địa phương. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu Một số loại hình ruộng đất và sự biến đổi của các loại hình ruộng đất qua các giai đoạn đặc biệt từ sau khi thực dân Pháp chiếm đóng khu vực Tây Bắc, làm nổi bật lên vai trò của ruộng nước đối với đời sống kinh tế - xã hội của dân tộc Thái ở Tây Bắc. Đây là loại ruộng đất điển hình của người Thái ở Tây Bắc. 5 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu 4.1. Phương pháp nghiên cứu Để hoàn thành luận văn tác giả sử dụng chủ yếu các phương pháp: - Phương pháp luận: + Phương pháp biện chứng + Phương pháp lịch sử + Phương pháp logic - Phương pháp cụ thể: + Thu thập tư liệu + Đính chính, chỉnh lý tư liệu + Phân loại, hệ thống tư liệu + So sánh, đối chiếu, thống kê + Điền dã - Phương pháp nghiên cứu liên ngành + Dân tộc học + Xã hội học + Văn hóa học + Kinh tế học 4.2. Nguồn tài liệu - Nguồn tài liệu văn kiện của Đảng, Nhà nước, Bộ, tài liệu của Đảng bộ tỉnh Sơn La, Đảng bộ huyện Mường La, Thuận Châu... Nguồn tài liệu này giúp chúng tôi có định hướng nghiên cứu để giải quyết các vấn đề đề tài đặt ra. - Nguồn tài liệu lưu trữ: Báo cáo của chính quyền địa phương như Báo cáo về khả năng đất đai của khu vực Tây Bắc, Báo cáo về tình hình ruộng đất ở Thuận Châu trước năm 1954… Các tác phẩm, bài báo của các tác giả, tập thể các tác giả được công bố ở các Nhà xuất bản, Tạp chí… Các công trình địa chí của địa phương. Đây là nguồn tài liệu quan trọng, là cơ sở để xây dựng nên luận văn, là nguồn tài liệu tham khảo, cung cấp cho chúng tôi thêm những thông tin về tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 để hoàn thành luận văn. 6 - Nguồn tài liệu điền dã: Nguồn tài liệu này bổ sung thêm cho các nguồn tài liệu thành văn. 5. Đóng góp mới của luận văn Thứ nhất, thông qua tìm hiểu tình hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước năm 1945 đề tài góp phần làm sáng rõ và phong phú thêm lí luận về chế độ ruộng đất ở Việt Nam trước năm 1945. Thứ hai, làm rõ thêm tính độc đáo về chế độ ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống – đó là một trong những tri thức bản địa cần được lưu giữ, kế thừa và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Thứ ba, bổ sung thêm kết quả nghiên cứu về Sơn La nói riêng, Tây Bắc nói chung đặc biệt về vấn đề nông nghiệp và ruộng đất. Thứ tư, từ quan hệ ruộng đất trong xã hội Thái truyền thống góp phần xây dựng bản làng văn hóa ở khu vực Tây Bắc. Thứ năm, góp phần bảo tồn tri thức bản địa, bổ sung nguồn tư liệu trong quá trình giảng dạy, nghiên cứu lịch sử địa phương. 6. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục luận văn được kết cấu làm 3 chương: Chương 1: Khái quát về khu vực Tây Bắc và người Thái ở Tây Bắc Chương 2: Một số loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc trước khi thực dân Pháp chiếm đóng Tây Bắc (năm 1888) Chương 3: Một số loại hình ruộng đất của người Thái ở Tây Bắc thời kì Pháp thuộc (1888 – 1945) 7 CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ KHU VỰC TÂY BẮC VÀ NGƯỜI THÁI Ở TÂY BẮC 1.1. Khái quát lịch sử hình thành vùng đất Tây Bắc Tây Bắc là vùng đất "địa đầu" của Tổ Quốc, chủ yếu bao gồm các tỉnh: Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Lào Cai, Yên Bái và một phần của Hoà Bình. Từ thời các Vua Hùng dựng nước chia nước ta thành 15 bộ, Tây Bắc nằm trong Bộ Tân Hưng. Trong Dư địa chí Nguyễn Trãi viết “Hưng Hoá xưa thuộc bộ Tân Hưng”. Dưới triều đại Nhà Lý (1010 - 1225) Tây Bắc thuộc châu Lâm Tây, châu Đăng, đến triều đại Nhà Trần (1226 - 1400) Tây Bắc thuộc đạo Đà Giang. Vào cuối thời Trần, năm Quang Thái thứ 10 (1397) vùng đất này được đổi thành trấn Thiên Hưng. Trấn Thiên Hưng thời Trần có hai châu (Phủ) là Gia Hưng và Quy Hoá. Đến thời Hậu Lê (XV), theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Tây Bắc thuộc phủ Gia Hưng, bao gồm 16 châu Thái: Mường Lò, Mường Tiến (hay còn gọi là Chiêu Tấn, đến năm 1909 thực dân Pháp đổi là Than Uyên), Mường Tấc (Phù Yên), Mường Sang (Mộc Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Mụa (Mai Sơn), Mường La, Mường Muổi (Thuận Châu), Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lay, Mường Tùng (Tùng Lăng), Mường Hoàng (Hoàng Nham), Mường Tiêng (Lễ Tuyền), Mường Chiềng Khem (Châu Khiêm) Mường Chúp (Tuy Phụ), Mường Mi (Hợp Phì). Năm 1463, trấn Hưng Hoá được thành lập gồm 3 phủ đó là: Gia Hưng, Quy Hoá, An Tây. + Phủ Gia Hưng có 1 huyện, 5 châu, 42 động. Đó là huyện Thanh Xuyên (sau đổi là Thanh Sơn) gồm 1 thôn, 2 động và các châu: Châu Việt, Châu Mai. Địa bàn 5 châu này có 4 châu thuộc vùng đất Sơn La hiện nay là: Châu Phù Hoa là tên được đặt từ thời Lê đến đầu thời Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) châu Phù Hoa đổi tên là châu Phù Yên (bao gồm cả Bắc Yên ngày nay), như vậy tên huyện Phù Yên có từ bấy đến nay. Châu Mộc có từ đời Trần. Theo Đại Nam nhất thống chí, Châu Mộc có 23 động, phía Đông kéo dài đến hết Mai Châu (tỉnh Hoà Bình) phía Tây đến Yên 8 Châu, phía Nam đến Quan Hoá (tỉnh Thanh Hoá), phía Bắc đến châu Phù Hoa. Năm Cảnh Thịnh thứ 36 (1775) thấy địa thế quá rộng anh em thổ tù lại không hoà thuận với nhau, nên triều đình đã chia Châu Mộc thành 3 châu: Châu Mộc, Mã Nam (ở phía Nam Sông Mã) và Đà Bắc (ở phía Bắc sông Đà). Như vậy, Châu Mộc vào thời Hậu Lê có địa giới rộng hơn Mộc Châu ngày nay bao gồm các huyện Mộc Châu, huyện Đà Bắc (tỉnh Hoà Bình) và một phần của huyện Quan Hoá, Bá Thước (tỉnh Thanh Hoá). Thời Nhà Nguyễn, năm Minh Mạng thứ 17, các động được đổi thành xã, các trấn được đổi thành tỉnh. Châu Việt có 3 động. Thời Trần được gọi là Mang Việt (hay Mường Việt). Trần Minh Tông sau khi đánh Ngưu Hống đã đóng quân ở đó và gọi phủ này là Thái Bình. Đầu thời Hậu Lê, phủ Thái Bình đổi thành Châu Việt. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) Châu Việt đổi thành Yên Châu, tên Yên Châu có từ bấy đến nay. Châu Thuận có 10 động. Theo sách Hưng Hoá phong thổ lục của Hoàng Bình Chính thì vào đầu đời Lê Cảnh Hưng (1740) thấy địa thế Châu Thuận quá rộng mới cắt đặt thêm 3 châu là Sơn La (hay Mường La), Mai Sơn, Tuần Giáo. Như vậy, đất Châu Thuận vào thời Hậu Lê gồm đất huyện Tuần Giáo của tỉnh Điện Biên và các huyện Mai Sơn, Mường La, Thị xã Sơn La và Thuận Châu của tỉnh Sơn La hiện nay. Địa danh “Sơn La” lần đầu tiên xuất hiện vào thế kỉ 18 và với danh nghĩa là tên một châu được tách ra từ Châu Thuận. Châu Quỳnh Nhai, thời Hậu Lê thuộc phủ An Tây trấn Hưng Hoá. Thời Gia Long (1802 - 1819), 4 huyện và 16 châu thuộc Bắc Thành, trong đó phủ Gia Hưng có một huyện là Thanh Xuyên (sau đổi là Thanh Sơn) và 10 châu là: Thuận Châu, Sơn La, Tuần Giáo, Mai Sơn, Châu Việt, Ninh Biên, Mộc Châu, Đà Bắc, Phù Yên, Mai Châu. + Phủ Quy Hoá có các châu: Văn Chấn, Trấn Yên,Văn Bàn, Thuỳ Vĩ, Yên Lập + Phủ An Tây có 10 châu đó là: Lai, Luân, Quỳnh Nhai, Chiêu Tấn, Tùng Lăng, Lễ Tuyền, Hoàng Nham, Hợp Phì, Tuy Phụ và Khiêm. Đến đời vua lê Cảnh Hưng (1740 - 1768) có 6 châu là: Tùng Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm bị triều đình phong kiến Mãn Thanh cướp mất, phủ An Tây chỉ 9 còn có 4 châu là: Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, châu Lai và châu Luân. Thời Tây Sơn, vua Quang Trung đã làm một biểu gửi vua Thanh đòi lại 6 châu bị cướp mất nhưng không được chấp nhận. Đến triều Nguyễn (XIX), Tây Bắc được gọi là vùng “Thập Châu” thuộc tỉnh Hưng Hoá, cụ thể là các châu sau: Mường Lò, Mường Tiến (hay còn gọi là Chiêu Tấn, đến năm 1909 thực dân Pháp đổi là Than Uyên), Mường Tấc (Phù Yên), Mường Sang (Mộc Châu), Mường Vạt (Yên Châu), Mường Mụa (Mai Sơn), Mường La, Mường Muổi (Thuận Châu), Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lay. Từ cuối thế kỉ XIX trong quá trình bình định khu vực Tây Bắc, thực dân Pháp đã thực hiện chính sách chia để trị. Sau khi thôn tính được Tây Bắc thực dân Pháp từng bước thâu tóm quyền hành và áp đặt chế độ cai trị ở khu vực này. Ngày 11/4/1900, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái, bao gồm các châu: Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Bàn, Lục Yên, Than Uyên. Đến ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ Tiểu quân khu Vạn Bú chuyển thành tỉnh Vạn Bú (Sơn La). Tỉnh Sơn La từng bước được thành lập như sau: Ngày 24/5/1886, Tổng Trú sứ Trung - Bắc Kỳ ra nghị định chuyển châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng tỉnh Hưng Hoá) thành một cấp tương dương với cấp tỉnh, nhưng đặt dưới quyền cai trị trực tiếp của một sĩ quan gọi là Phó công sứ. Ngày 9/9/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đưa địa hạt Sơn La vào địa hạt của Đạo quan binh 4 mới thành lập, thủ phủ của đạo đặt tại Sơn La. Đến ngày 27/2/1892, Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định lập một tiểu quân khu (cercle) trực thuộc đạo Quan binh 4. Thủ phủ của tiểu quân khu này đặt tại Vạn Bú nên thường gọi là Tiểu quân khu Vạn Bú. Địa bàn của Tiểu quân khu Vạn Bú bao gồm: Phủ Vạn Yên với các châu Mộc, châu Phù Yên; Phủ Sơn La với các châu Sơn La, châu Yên, Mai Sơn, Thuận Châu, Tuần Giáo, Điện Biên (tất cả đều được tách ra từ tỉnh Hưng Hoá). Đến ngày 10/10/1895, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ Tiểu quân khu Vạn Bú chuyển thành tỉnh Vạn Bú, đồng thời nhập toàn bộ Tiểu quân khu phụ 10 Lai Châu vào địa bàn tỉnh Vạn Bú, tỉnh lị tỉnh Vạn Bú đặt tại Vạn Bú (Tiểu quân khu phụ Lai Châu được thành lập theo nghị định ngày 5/6/1893 của Toàn quyền Đông Dương gồm châu Lai, châu Luân, châu Quỳnh Nhai, châu Phong Thổ vốn là đất của tỉnh Hưng Hoá tách ra).Ngày 7/4/1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định chuyển Tỉnh lị tỉnh Vạn Bú từ Vạn Bú về Sơn La. Do đó ngày 23/8/1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra nghị định đổi gọi tỉnh Vạn Bú thành tỉnh Sơn La. Tỉnh Sơn La lúc đó gồm có các châu: Châu Thuận, Mai Sơn, Châu Mộc, Mường La, Châu Yên, Phù Yên, Tuần Giáo, Điện Biên, Châu Lai, Quỳnh Nhai, phủ Luân Châu. Tên tỉnh Sơn La có từ đó nhưng địa bàn rộng lớn gồm toàn bộ tỉnh Sơn La và phần lớn tỉnh Lai Châu hiện nay. Ngày 12/7/1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ Đạo Quan binh thứ 4, chuyển Lào Cai sang chế độ cai trị dân sự để lập thành tỉnh Lào Cai. Địa bàn của tỉnh Lào Cai bao gồm các châu: Bảo Thắng, Thuỷ Vĩ do Công sứ Pháp trực tiếp cai trị. Đến ngày 28/6/1909, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách các châu: Quỳnh Nhai, Điện Biên, Tuần Giáo, Châu Lai và phủ Châu Luân thành lập tỉnh Lai Châu. Lúc này tỉnh Sơn La chỉ còn 6 châu: Sơn La (hay Mường La), Thuận Châu, Mai Sơn, Châu Yên, Châu Mộc, Phù Yên (cả Bắc Yên ngày nay). Sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi (1954), để giúp đồng bào các dân tộc vươn lên hoà nhập cùng cộng đồng các dân tộc Việt Nam, ngày 7/5/1955 đúng vào ngày kỉ niệm 1 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Khu Tự trị Thái – Mèo được thành lập (đến ngày 27/10/1962 đổi thành Khu tự trị Tây Bắc), địa giới của Khu bao gồm hai tỉnh Sơn La, Lai Châu, hai huyện Văn Chấn, Than Uyên của tỉnh Yên Bái và huyện Phong Thổ của tỉnh Lào Cai. Sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước thắng lợi (1975), Khu Tự trị Tây Bắc giải thể theo Nghị Quyết 245 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các tỉnh thuộc Khu Tự trị Tây Bắc trực thuộc Trung ương. 11 1.2. Điều kiện tự nhiên, địa vực cư trú Tây Bắc chủ yếu bao gồm các tỉnh: Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái. Do đó, điều kiện tự nhiên của Tây Bắc vừa có đặc điểm chung của các tỉnh vùng núi phía Bắc, lại vừa có đặc thù riêng so với các địa phương trong cả nước. 1.2.1. Địa hình, đất đai Tây Bắc có địa hình phức tạp, bị cắt xẻ bởi những dãy núi đá vôi nằm trong dãy Hoàng Liên Sơn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dài khoảng 180 km, rộng 30 km và vòng cung Sông Mã chạy từ Đông sang Tây; độ cao trung bình của Tây Bắc từ 700 – 800 m so với mực nước biển. Tuy nhiên, cũng có những đỉnh cao trên dưới 2.500 m, điển hình như Pú Luông cao 2.800 m so với mặt biển; Pan xi phăng cao 3.114 m so với mực nước biển... Toàn khu có hai cao nguyên lớn: cao nguyên Sơn La hay còn gọi là Thảo nguyên Mộc Châu bằng phẳng dài 70 km rộng 50 km, cao 1050 m so với mặt nước biển... rất thuận lợi cho việc phát triển chăn nuôi và trồng cây công nghiệp. Cao nguyên Sìn Hồ chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam dài trên 200 km, rộng khoảng 30 - 50 km, độ cao trung bình từ 700 - 800 m so với mặt biển. Ngoài ra, Tây Bắc còn có một số cao nguyên vừa và nhỏ khác như: Cao nguyên Nà Sản chạy dài theo quốc lộ 6 dài khoảng 100 km, rộng 60 km, cao trung bình khoảng 600 - 700 m so với mặt biển... Do sự kiến tạo của địa chất, sự đan xen giữa những dãy núi đá vôi hiểm trở với các dãy núi đất và các sông, suối lớn nhỏ đã tạo nên các thung lũng, phiêng bãi đất đai màu mỡ phì nhiêu, chủ yếu là đất feralít, tơi xốp, giàu chất mùn, độ chua (PH) từ 4,5 - 5,0 thuận lợi cho việc trồng rau màu và lúa nước; đúng như câu ca của đồng bào Thái đã nói: “Nhất Thanh (Điện Biên - Lai Châu), Nhì Lò (Mường Lò - Nghĩa Lộ), Tam Than (Than Uyên - Nghĩa Lộ) Tứ Tấc (Phù Yên - Sơn La)”. Trong đó, điển hình nhất là cánh đồng Mường Thanh bằng phẳng dài khoảng 20km, rộng 5 - 6 km; cánh đồng Mường Tấc (Phù Yên) bằng phẳng, rộng 660 ha... 1.2.2. Sông ngòi, khí hậu Về sông ngòi: Trên địa bàn Tây Bắc còn có nhiều nguồn nước sông suối. Sông 12 Mã bắt nguồn từ miền Nam Trung Quốc chảy vào Sơn La qua địa phận huyện Sông Mã rồi vòng qua Lào vào Thanh Hoá ra biển. Từ rất sớm trong lịch sử cư dân Việt và Lào đã nhờ con sông này mà giao lưu trao đổi cả về kinh tế, văn hoá. Sách Đại Việt sử kí toàn thư có nói đến các lái buôn người Việt theo đường sông Mã mang muối, vải... theo đường sông Mã lên trao đổi với buôn bán với người Lào Lùm, khi về họ mang theo nhiều hương liệu, ngà voi, sừng tê... Sông Đà bắt nguồn từ vùng Nam Mông Hoá, gần làng Sin Cai thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chảy vào nước ta ở Mường Lái qua Lai Châu vào Sơn La hợp với suối Nậm Na ở phía Bắc và Nậm Mức ở phía Nam theo hướng Tây Nam chảy qua địa phận các huyện: Mường Tè (Lai Châu), Mường Lay (Điện Biên), Thuận Châu, Quỳnh Nhai, Mường La, Mai Sơn, Mộc Châu (Sơn La), qua tỉnh Hoà Bình hội nhập với sông Hồng. Trong lịch sử cũng như hiện nay sông Đà không chỉ là nguồn cung cấp nước cho đời sống, sản xuất mà còn là tuyến huyết mạch đảm bảo cho sự giao lưu trao đổi đặc biệt quan trọng của nhân dân trong vùng và giữa Tây Bắc với các địa phương miền xuôi. Ngoài hai con sông chính, sông Mã, sông Đà, Tây Bắc còn có hàng nghìn con suối lớn, nhỏ chảy luồn lách quanh những gò đồi tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng lúa nước, rau màu, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi. Về khí hậu: Tây Bắc có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng nóng mưa nhiều, mùa khô từ tháng 10 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình từ 230C - 250C, lượng mưa từ 1400 đến 1800 mm/năm. Mùa đông trùng với mùa khô lạnh, ít mưa, khô hanh từ tháng 10 năm trước đến tháng 3 năm sau. Thế nhưng, do ảnh hưởng của độ cao địa lý và địa hình nên khí hậu Tây Bắc cũng có sự phân chia thành những khu vực khác nhau: + Tiểu vùng khí hậu phía Bắc, bao gồm các huyện: Mường Tè, Sìn Hồ, Phong Thổ (Lai Châu), Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai); đặc điểm nổi bật của vùng này là ít bị ảnh hưởng của bão, nhưng lại chịu ảnh hưởng trực tiếp của gió mùa đông bắc, vào mùa đông thường xuyên có băng giá sương muối, nhất là vùng Bắc Hà, Sa Pa; mùa hè mát mẻ, đan xen có gió Tây khô nóng. + Tiểu vùng khí hậu dọc sông Đà, bao gồm các huyện: Mường Lay (Điện 13 Biên), Quỳnh Nhai, Mường La, Mai Sơn, Phù Yên, Bắc Yên (Sơn La), đây là vùng mưa nhiều, lượng mưa trung bình trong năm là trên 2000 mm, mùa đông ấm, ít bị ảnh hưởng của sương muối. + Tiểu vùng khí hậu phía Tây và Tây Nam: bao gồm các huyện Thuận Châu, Mai Sơn, Sông Mã, Yên Châu (Sơn La), huyện Điện Biên (Điện Biên). Đây là vùng bị ảnh hưởng trực tiếp của gió Tây khô nóng, ít mưa hơn các vùng khác, lượng mưa trung bình trong năm là 1400 mm, có nơi mưa 1200 mm, mùa đông thường hay bị ảnh hưởng của sương muối, nhất là vùng cao nguyên Sơn La. + Tiểu vùng khí hậu phía Đông và đông Nam: bao gồm hầu hết các huyện dọc sông Hồng của Yên Bái, Mộc Châu và phần còn lại của huyện Bắc Yên. Đây là vùng chịu ảnh hưởng của bão và gió mùa đông bắc, ảnh hưởng của gió Tây nhưng không nhiều. Địa hình thấp, mùa đông lạnh, thường hay có sương muối. Nhìn chung, khí hậu Tây Bắc tuy thuộc khí hậu nhiệt đới gió mùa nhưng có sự phân chia thành từng vùng rất rõ rệt: mùa hè mát mẻ, nhiệt độ trung bình trong năm từ 250C - 280C, nhiệt độ cao nhất từ 30 - 350C, thậm chí có nơi 380C. Mùa đông nhiệt độ thấp nhất từ 100C - 150C, ở những vùng núi cao xuống đến dưới 50C, cá biệt lại có vùng thường xuyên vẫn có băng giá, sương muối. Những lợi thế về vị trí địa lí, cùng sự đa dạng, phong phú của điều kiện tự nhiên đã tạo cho Tây Bắc có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng ở khu vực Tây Bắc và trong phạm vi cả nước. Tây Bắc không chỉ trù phú với đồng ruộng phì nhiêu, thảm rừng nhiệt đới quanh năm xanh tốt, trong lòng đất lại tiềm ẩn nhiều khoáng sản quý và hiếm... mà còn trở thành chiếc cầu nối cho sự giao lưu trao đổi giữa miền xuôi với miền ngược, Đông Bắc với Thượng Lào và miền Nam Trung Quốc. Từ Sơn La trung tâm của Tây Bắc, theo quốc lộ 6, hoặc Sông Đà đều có thể ngược Tuần Giáo lên Lai Châu, xuôi xuống Hòa Bình, sang Nghĩa lộ một cách dễ dàng, đặc biệt từ Sơn La có thể giao lưu thuận lợi với tỉnh Hủa Păn của nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào qua hai cửa khẩu Pa Háng (Mộc Châu), Chiềng Khương (Sông Mã)... 14 1.2.3. Địa vực cư trú Trước khi người Thái thiên di vào Tây Bắc, nhóm cư dân Nam Á (bao gồm nhiều tộc người khác nhau như: Xinh Mun, La Ha, Kháng, Mảng...) đã sinh sống lâu đời trên mảnh đất này. Họ làm ruộng ở các thung lũng và phiêng đất ven sông, suối và có trình độ phát triển kinh tế xã hội khá cao: “Thuở ấy, cư dân Tây Bắc vẫn là một bộ phận của nền văn minh đồng thau Đông Sơn với sản phẩm nổi tiếng là trống đồng và công cụ bằng đồng, những thứ mà ngày nay đã trở thành vật thiêng, chỉ dùng trong các nghi lễ thờ cúng tổ tiên. Trong số cư dân ấy, người Kháng có tục uống nước bằng mũi (Tà mui). Nước măng chua, hoà tỏi, rau thơm, gạn lấy nước đổ vào vỏ quả bầu mận, cho chảy vào mũi, trong khi ấy miệng thì nhai cá hay thịt. Cách uống này hiện nay vẫn còn tồn tại trong người Kháng ở ven sông Đà phía bên Tà Hộc, (Mai Sơn - Sơn La) Mường Sại, Chiềng Muôn, Chiềng Bằng, Liệp Muội (Thuận Châu - Sơn La), các vùng dọc sông Đà của Mường Lay, Mường Nhé (Điện Biên), Mường Tè (Lai Châu)… Đặc biệt, người Kháng rất giỏi làm thuyền độc mộc, đánh cá ở các sông, suối. Người Thái cũng phải thừa nhận “thuyền tốt không gì bằng thuyền Kháng”. [45,Tr.218] Riêng đối với người La Ha cho đến ngày nay vẫn được người Thái tôn sùng vì được coi là chủ nhân của trống đồng. Cả người La Ha và người Thái đều coi trống đồng là một vật thiêng “có thần trú ngụ ở trong đó” (người Kinh cũng gọi trống đồng là “Đồng cổ thần”). Người La Ha còn nổi tiếng với những lễ hội tưng bừng như: mừng mùa măng mọc, mừng cơm mới, mừng nhà mới… Trong các lễ hội, người La Ha hay nhảy múa với điệu múa thực khí sinh động, rộn ràng trong tiếng đệm của đàn ống tre rỗng, dỗ trên tấm ván với những cô gái nhún nhảy múa. [45,Tr.219] Người Mảng, hiện nay vẫn còn giữ được tục săm những chấm, hoặc vòng tròn có chấm ở giữa, quanh miệng và cằm. Vì thế, người Thái gọi họ là “Xá cằm hoa” (Xá cang lái), tức Xá cằm xăm hoa. Người Mảng cũng là dân tộc có nhiều kinh nghiệm trong việc làm nương rẫy ở các sườn núi có độ dốc cao. Cuộc sống của họ chủ yếu là dựa vào kinh tế nương rẫy, săn bắt, hái lượm và đánh cá ở ven các sông, 15 suối… Về mặt sinh hoạt văn hoá tinh thần, người Mảng cũng giống như người La Ha đều biết nhảy múa trên nền nhạc cụ tre nứa dỗ trên mặt sàn tấm ván. Trong thời gian từ thế kỷ IX đến XIII, người Thái ở cao nguyên Thanh Tạng (Tây Tạng - Trung Quốc) vì nhiều lý do khác nhau đã tìm đường thiên di xuống phía Nam vào vùng Tây Bắc (từ đầu công nguyên ở Tây Bắc đã có một số tụ điểm của cư dân Thái nhưng còn rất thưa thớt). Sự có mặt của người Thái ở Tây Bắc đã tạo ra những cuộc tranh chấp quyết liệt và kéo dài về địa bàn cư trú giữa các nhóm người Thái mới thiên di đến với cư dân bản địa Nam Á. Cuối cùng “Lạng Chượng – một thủ lĩnh Thái tài giỏi nhưng cũng phải chật vật lắm mới đánh thắng nổi quân Nam Á. Truyền thuyết còn kể rằng quân Xá (tức Nam Á) có tên làm bằng đồng sắc nhọn, quân Thái chỉ có tên tre, Lạng Chượng mới nghĩ cách lập mưu thách nhau bắn xem tên của ai cắm vào đá là thắng. Quân Xá bắn tên đồng vào đá thì bật ra. Quân Thái biết cách nạp cục xáp ong vào đầu tên tre nên bắn vào đá thì dính. Quân Xá thua phải chịu dâng trống đồng, để quân Thái chiếm đất, còn quân Xá phải chạy lên núi cao và vào vùng sâu mà ở” [45,Tr.218]. Hiện nay trong lễ hội truyền thống “Xênra” của người Thái Thuận Châu có cả một mục diễn lại cảnh người Xá dâng trống đồng cho người Thái (gọi là Xá Cú Coong). Sự thắng thế của người Thái đã dồn đẩy cư dân Nam Á phải chạy lên các vùng núi cao hiểm trở sinh sống, còn người Thái thì chọn những vùng thấp, đất đai bằng phẳng, màu mỡ phì nhiêu, gần nguồn nước, giao thông đi lại thuận tiện để định cư. Sự ổn định địa bàn cư trú cùng với việc thống nhất ba trung tâm Thái ở Tây Bắc của Ta Ngần - thủ lĩnh Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu) thế kỷ XIII đã tạo ra bước phát triển quan trọng trong lịch sử xã hội Thái ở Tây Bắc: “Nó không chỉ xóa đi sự phân tán cát cứ của các chúa Thái mà từ đây bản mường xuất hiện, chế độ ruộng đất được xác lập, một thiết chế xã hội Thái độc đáo được hình thành trên cơ sở kinh tế nông nghiệp với hai loại hình canh tác chính: làm ruộng nước và nương rẫy”. [67,Tr.33] 1.3. Lịch sử hình thành cộng đồng người Thái ở Tây Bắc Đơn vị cư trú của người Thái được gọi là bản và mường. Nhiều bản hợp thành một mường nhỏ và nhiều mường nhỏ hợp thành châu mường. Ngay từ đầu 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng