Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện...

Tài liệu Tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

.PDF
117
144
50

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- NGUYỄN THỊ HUYỀN TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN --------------------------------- NGUYỄN THỊ HUYỀN TÍNH ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 03 08 LUẬN VĂN THẠC SĨ Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Đào Ngọc Tuấn Hà Nội - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tên tôi là: Nguyễn Thị Huyền Là học viên cao học lớp Cao học Chủ nghĩa xã hội khoa học- khóa 2013- Khoa Triết- Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn- Đại học quốc gia Hà Nội. Tôi xin cam đoan nghiên cứu: “ Tính đặc thù trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu khoa học độc lập và nghiêm túc của cá nhân tôi. Các tài liệu tham khảo và trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng, đáng tin cậy được xử lý trung thực và khách quan. Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình. HỌC VIÊN Nguyễn Thị Huyền LỜI CẢM ƠN Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn đối với TS. Đào Ngọc Tuấn. Thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn các giảng viên đã tham gia giảng dạy khóa học đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu về triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học đã giúp tôi trưởng thành hơn trong suy nghĩ cũng như trong nghiên cứu khoa học. Cảm ơn gia đình, bạn bè đã hỗ trợ tôi hoàn thành luận văn. HỌC VIÊN Nguyễn Thị Huyền MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................... 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 7 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 8 5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu .................................................... 8 6. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9 7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn ...................................................... 9 8. Kết cấu của luận văn ..................................................................................... 9 NỘI DUNG..................................................................................................... 10 CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA .................................................................. 10 1.1. Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc thù ........... 10 1.1.1. Cái phổ biến và cái đặc thù .................................................................. 10 1.1.2. Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến .................................... 13 1.1.3. Hình thức nhà nước với tư cách là cái đặc thù ..................................... 15 1.1.4. Chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước .......................................... 16 1.2. Nhà nƣớc pháp quyền với việc thực hiện dân chủ .............................. 18 1.2.1. Nhà nước pháp quyền là một hình thức thực hiện dân chủ .................. 18 1.2.2. Nền dân chủ tư sản và nhà nước pháp quyền tư sản ............................ 27 1.3. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa............................................... 30 1.3.1. Nhà nước xã hội chủ nghĩa tất yếu là nhà nước pháp quyền ............... 30 1.3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa lí luận và thực tiễn ................ 32 1.4. Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ............................. 38 1.4.1. Quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ................................................................................... 38 1.4.2. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam .......................................................................................................... 42 KẾT LUẬN CHƢƠNG I .............................................................................. 49 CHƢƠNG II: NHỮNG BIỂU HIỆN ĐẶC THÙ VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................. 50 2.1. Những nhân tố quy định tính đặc thù trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam…………………………………... ……50 2.1.1. Nhân tố chính trị ................................................................................... 51 2.1.2. Nhân tố truyền thống văn hóa ............................................................... 58 2.1.3. Nhân tố kinh tế- xã hội .......................................................................... 65 2.2. Giải pháp cơ bản trong xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay .............................................................................. 73 2.2.1. Giải pháp về kinh tế .............................................................................. 73 2.2.2. Gải pháp về chính trị............................................................................. 84 2.2.3. Giải pháp về văn hóa- xã hội ................................................................ 94 KẾT LUẬN CHƢƠNG II............................................................................. 99 KẾT LUẬN .................................................................................................... 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nhà nước pháp quyền- là phương thức tổ chức quyền lực tốt nhất đảm bảo quyền con người. Hiện nay trên thế giới, xây dựng nhà nước pháp quyền không còn là vấn đề lý luận mà đã trở thành hiện thực. Hơn hai thế kỷ qua, các quốc gia phát triển đã và đang hoàn thiện việc xây dựng nhà nước pháp quyền, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, giảm thiểu biên chế trong bộ máy nhà nước, tiết kiệm ngân sách, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, thực hiện nguyên tắc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Xét trên bình diện quốc tế, học thuyết nhà nước pháp quyền từ lý luận vận dụng vào thực tiễn như thế nào đến nay vẫn còn là một vấn đề cần bàn luận. Kinh nghiệm cho thấy, việc vận dụng lý luận xây dựng nhà nước pháp quyền ở các quốc gia trên thế giới không theo một khuôn mẫu xác định, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, chế độ chính trị, truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa mà mỗi quốc gia xây dựng một mô hình nhà nước pháp quyền riêng. Ở Việt Nam, Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải từng bước đổi mới và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Bởi vì, đối với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam- một nước đang phát triển, còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội còn thấp như hiện nay- thì việc xây dựng nhà nước pháp quyền càng có ý nghĩa quyết định. Mặc dù xây dựng nhà nước pháp quyền là một tất yếu khách quan trên con đường tạo lập một xã hội, trong đó: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Nhưng tính tất yếu đó chỉ được thực hiện thông qua hoạt động có ý thức của con người. Điều đó có nghĩa là, mức độ thành công của công cuộc xây dựng này phụ thuộc đáng kể vào năng lực hành vi nhận thức, hành vi sáng tạo, tích cực của chủ thể, mà trước hết là năng lực 1 nhận thức bản chất của nhà nước pháp quyền, thứ nữa là năng lực thấu hiểu các điều kiện đặc thù của từng nước đối với việc tiếp thu những giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền. Ở mỗi quốc gia do những điều kiện lịch sử nhất định, nên việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở mỗi nước lại đòi hỏi những cách làm cụ thể. Chính vì vậy khi xây dựng nhà nước pháp quyền ta cần chú ý đến tính đặc thù của từng nước. Yêu cầu này đã trở thành tác nhân trực tiếp, thúc đẩy tôi lựa chọn vấn đề: “Tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của luận văn. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Hiện nay việc đẩy mạnh nghiên cứu những vấn đề lí luận về nhà nước pháp quyền và tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại để từ đó tìm ra cái thuận lợi, khó khăn cũng như việc kế thừa những tinh hoa của nhân loại, loại bỏ những yếu tố không phù hợp với điều kiện đất nước và bối cảnh mới (toàn cầu hóa) vẫn là vấn đề mà các nhà nghiên cứu trong nước tìm kiếm các câu trả lời. Các kết quả nghiên cứu đã đạt được mức độ đáng kể với kết quả chúng ta đã ban hành Hiến pháp 2013 sửa đổi bổ xung của Hiến pháp 1992. Theo tinh thần đấy ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu với những quy mô và cấp độ khác nhau về nhà nước pháp quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền được thực hiện từ những năm 1991-1995 và từ 1995 đến nay. Có thể thấy nhiều đề tài lớn đã được thực hiện trong những năm 19911995 như một số đề tài cấp Nhà nước thuộc Chương trình KX.05, một số đề tài cấp nhà nước thuộc các chương trình KX.08 và KX.10 cho đến nay. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu sau đây: 1. Nguyễn Văn Thảo chủ biên, Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp và tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Đề tài KX.05-07 thuộc chương trình 2 KX.05 (giai đoạn 1996-2000): Hệ thống chính trị trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 2. Đào Trí Úc chủ biên, Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đề tài KHXH 05-05 thuộc chương trình KHXH-05 (giai đoạn 2001-2005); sau được bổ sung, phát triển và ấn hành dưới dạng một cuốn sách chuyên khảo nhan đề:“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, đã nêu lên nhiều vấn đề bao quát về nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam như: Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng phương Tây, phương Đông. Các tiền đề tư tưởng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ. Dân chủ và nhu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những yêu cầu cơ bản đặt ra về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước pháp quyền. 3. Đề tài cấp nhà nước KX 04.01 “Cơ sở lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” do GS.VS. Nguyễn Duy Quý làm chủ nhiệm. Nhóm nghiên cứu đề tài đã khái quát lịch sử hình thành và phát triển của học thuyết nhà nước pháp quyền từ thời cổ đại đến hiện đại, từ phương Tây đến phương Đông; phân tích quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và nhà nước pháp quyền; nêu những khái niệm, những đặc trưng cơ bản và chức năng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; lý giải các yếu tố quy định và chi phối quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; trình bày những phương hướng, giải pháp chủ yếu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo các tác giả, nan giải trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là việc khắc phục “thái độ hư vô, coi thường pháp luật” của người dân Việt Nam hiện nay. Vì đây là hiện tượng khá phổ biến, nó “có thể diễn ra trên 3 tất cả các mức độ trong quá trình xây dựng pháp luật, trong hoạt động áp dụng pháp luật, trong đời sống hàng ngày của người dân” [58, 25]. Do vậy, “để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cần tạo lập thói quen chấp hành pháp luật, thái độ thượng tôn pháp luật. Nghĩa là phải xây dựng được ý thức pháp luật ở trình độ cao trong xã hội” [58, 25]. Mà muốn xây dựng ý thức pháp luật ở trình độ cao thì tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền, lấy nhân dân làm chủ thể đồng thời là đối tượng của pháp luật. 4. Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa (đồng chủ biên), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, (Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006). Đây là sự tổng kết công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước với sự tham gia đông đảo của nhiều nhà nghiên cứu lý luận cũng như nhiều cán bộ làm công tác quản lý, do đó đã bao quát được khá nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đang diễn ra hiện nay ở Việt Nam. Trong công trình này, sau khi nhìn lại thực tế 20 năm đổi mới nhà nước và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhóm tác giả đã đề xuất những phương án về việc: Đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội. Đổi mới hoạt động hành pháp của Chính phủ. Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Tạo dựng quan hệ biện chứng giữa bộ ba cơ quan nhà nước. Theo các tác giả, nguyên nhân cơ bản làm chậm tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hơn hai thập kỷ qua thuộc về cải cách hành chính, vì bộ máy Nhà nước Việt Nam hiện nay còn “khá cồng kềnh, hoạt động chồng chéo, hiệu quả thấp”. Thực trạng đó đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ nặng nề sắp tới là phải nhanh chóng cải cách hành chính, kiến tạo một bộ máy nhà nước gọn nhẹ về cơ cấu, làm việc có hiệu quả, tiết kiệm thời gian và tiền của cho nhân dân trong quá trình giải quyết các công việc giấy tờ hành chính. 5. Luận án tiến sĩ triết học Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, của 4 Trần Ngọc Liêu (Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009) là một trong những tư liệu nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề đổi mới tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền. Theo Trần Ngọc Liêu, “từ chỗ còn mơ hồ trong nhận thức về khái niệm nhà nước pháp quyền, Đảng ta đã đi đến thừa nhận nhà nước pháp quyền là một phương thức tổ chức và hoạt động của một nhà nước chứa đựng những giá trị có tính phổ biến, có thể vận dụng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” [38, 49]. Không những thế, “Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn những vấn đề có tính đặc thù trong xây dựng nhà nước pháp quyền. Tính đặc thù này do đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội trong lịch sử và quá trình phát triển hiện nay quy định” [38, 49]. 6. Một số học giả Việt Nam đã đi sâu vào vấn đề thực tiễn, nêu lên những thuận lợi và khó khăn hiện tại và có thể có trong tương lai trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền. Thể hiện cụ thể trong các công trình tiêu biểu sau: 1) Phạm Gia Đức, Lê Hải Triều, Nguyễn Văn Thảo, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, (Nxb. Quân đội nhân dân, 2003). 2) Nguyễn Văn Niên, Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb. Chính trị Quốc gia, 1996). 3) Đào Trí Úc, Phạm Hữu Nghị Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện nay - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, (Nxb. Từ điển Bách khoa, 2009). Những công trình kể trên đã nêu lên nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn mà Việt Nam cần phải giải quyết trên từng bước đường xây dựng nhà nước pháp quyền. Trong đó, tập trung nhất là làm gì và làm thế nào để thiết lập nền dân chủ đúng theo nghĩa của nó. Theo các tác giả, dân chủ hoàn toàn đối lập với quan liêu, tức xa rời thực tế, xa rời dân, cửa quyền, sách nhiễu, do vậy quá trình đi đến dân chủ cũng là quá trình loại bỏ chế độ quan liêu - một căn bệnh trầm kha tồn tại quá lâu cùng với nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, quan liêu, bao cấp. 5 7. Hoàng Chí Bảo trong bài báo Từ những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, (Tạp chí Triết học, số 11, 2002) đã nêu một trong những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ là Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo tác giả, đặc điểm cơ bản nhất của nước ta thời kỳ quá độ là việc bỏ qua chế độ tư bản. Thời đại Phục hưng và Khai sáng ở châu Âu là những bước phát triển vượt bậc về phương diện tư duy, đặc biệt tư duy pháp lý, nhờ vậy đã làm thay đổi căn bản đời sống chính trị xã hội tư bản. Sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, trở ngại về chính trị, nếu không biết tiếp thu tư tưởng pháp lý giai đoạn này. 8. Tiêu biểu cho những công trình nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đề tài KX 04.03, Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Tạ Xuân Đại làm chủ nhiệm. Nhóm nghiên cứu nêu cơ sở lý luận về sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó đề xuất những giải pháp cơ bản như: Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, nâng cao chất lượng và hiệu quả quá trình lập pháp. Đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, tạo dựng một chính phủ gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp, tăng cường đạo đức, lương tâm nghề nghiệp của đội ngũ cầm cân, nảy mực. Xây dựng và hoàn thiện chính quyền địa phương đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngoài những công trình khoa học tiêu biểu kể trên, trong các tạp chí Triết học, Nhà nước và pháp luật, Nghiên cứu lập pháp, Nghiên cứu pháp luật, Dân chủ và pháp luật, Luật học, Tạp chí Cộng sản, Thông tin khoa học 6 xã hội, Lý luận chính trị, Lý luận chính trị và truyền thông,… đã đăng tải nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu, trong đó tập trung phân tích tính tất yếu, cơ sở lý luận, điều kiện thực tiễn, đồng thời đề xuất phương hướng, giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy còn những cách lý giải khác nhau, song nhìn chung các bài viết trên các tạp chí đã nêu đều nhất trí cho rằng, nhà nước pháp quyền không chỉ là điều kiện cần thiết cho một phương thức quản trị hiện đại, mà còn là phương tiện hữu hiệu để có thể giao lưu, hội nhập quốc tế trong một thế giới mà mọi vấn đề lớn nhỏ đang trở thành vấn đề chung. Các công trình tổng quan trên đã cung cấp cho tôi những tư liệu có giá trị và cách tiếp cận khoa học, gợi mở cho tôi những cách nhìn mới khi thực hiện đề tài này. Song, nhìn chung trong số các công trình tiêu biểu đã kể trên, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống những nét đặc thù về phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền giai đoạn hiện nay, đồng thời cũng chưa nêu lên một cách hệ thống những giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phù hợp với những phương diện đặc thù đó. Xuất phát từ yêu cầu góp phần đáp ứng tính cấp thiết của đề tài, tiếp thu có chọn lọc thành quả nghiên cứu các công trình trên, luận văn được trình bày theo hướng: Trình bày lý luận chung về nhà nước pháp quyền, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phân tích việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên những phương diện đặc thù về kinh tế, về chính trị, về văn hoá - xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất những giải pháp chủ yếu, phù hợp với những phương diện đặc thù đó. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích 7 Mục đích của luận văn là làm rõ tính đặc thù trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, trên cơ sở đó chỉ ra những vấn đề bất cập, hạn chế của nhà nước ta hiện nay và giải pháp điểu chỉnh, khắc phục. Nhiệm vụ Xuất phát từ mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn là: - Làm rõ nội hàm các khái niệm nhà nước pháp quyền, nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Nêu và phân tích một số nét đặc thù nổi trội của quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Đề xuất một số phương hướng, giải pháp từ đặc thù ở Việt Nam trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số nét đặc thù ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. - Phạm vi: Phạm vi nghiên cứu ở một số nét đặc thù cơ bản trên phương diện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội ở Việt Nam trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hiện nay. 5. Cơ sở lí luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Cơ sở lí luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Luận văn cũng kế thừa các thành tựu nghiên cứu vấn đề này của các học giả Việt Nam và thế giới trong thời gian gần đây. - Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin; phương pháp hệ thống, thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp; tuân thủ các nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn; thống nhất giữa logic và lịch sử… 8 6. Đóng góp của luận văn - Góp phần phân tích sâu sắc hơn tính đặc thù trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nêu một số kiến nghị, đề xuất cụ thể trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những điều kiện đặc thù. 7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm về nhà nước pháp quyền. Ở chừng mực nhất định luận văn có thể đưa lại những gợi ý gián tiếp trong thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chúng ta. 8. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 2 chương: Chương I: Một số vấn đề cơ bản về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Chương II: Những biểu hiện đặc thù và giải pháp cơ bản trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 9 NỘI DUNG CHƢƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 1.1. Bản chất và hình thức nhà nƣớc- cái phổ biến và cái đặc thù Nhà nước là một phạm trù lịch sử, có quá trình phát sinh, phát triển và tiêu vong. Nhà nước là lực lượng nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người. Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất định và tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó mất đi. Vì thế một nhà nước vừa mang những giá trị phổ biến để nó là nó vừa thể hiện nó trong thực tiễn thành những giá trị đặc thù. 1.1.1. Cái phổ biến và cái đặc thù Trong tư duy triết học mac-xít, mỗi sự vật, hiện tượng đều là thể thống nhất giữa cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến. Các phạm trù này luôn gắn liền với cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Biện chứng giữa chúng biểu thị biện chứng của quá trình vận động, phát triển của hiện thực. Phạm trù cái riêng được dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng biệt. Cái riêng là một chỉnh thể có tính toàn vẹn, tính độc lập tương đối. Mỗi cái riêng đều là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm nhiều mặt, nhiều yếu tố, nhiều thuộc tính cấu thành nên. Những yếu tố tạo nên cái riêng có mức độ phổ biến khác nhau: Có những yếu tố riêng có của nó, không có sự lặp lại ở những đối tượng khác; có những yếu tố có sự lặp lại nhiều lần ở một số đối tượng tương tự với nó; có những yếu tố lặp đi lặp lại ở tất cả các đối tượng. Cái xuất hiện một lần, ở một sự vật duy nhất nào đó và không có sự lặp lại được gọi là cái đơn nhất (theo nghĩa: cái đơn nhất là cái không lặp lại thì mỗi cái riêng đồng thời là cái đơn nhất). Cái có sự lặp lại ở nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau được gọi là cái chung. Cái chung có mặt xuất hiện ở một số sự vật, nhưng không xuất hiện ở những sự vật khác được gọi là cái đặc thù. Cái chung có mặt ở mọi sự vật được gọi là cái chung nhất hay cái phổ biến. 10 Cái đơn nhất, cái đặc thù và cái phổ biến chỉ là một mặt, một bộ phận của cái riêng cho nên chúng chỉ tồn tại trong cái riêng, tồn tại thông qua cái riêng. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng những cái đơn nhất, riêng có của nó; chứa đựng cái đặc thù, có mặt ở một số đối tượng giống nhau nào đó; và chứa đựng những cái phổ biến của cả một lớp đối tượng rộng lớn hoặc của tất cả các đối tượng. Tùy thuộc vào từng phạm vi xem xét, từng quan hệ cụ thể để xác định đâu là cái đặc thù, đâu là cái phổ biến. Cái phổ biến trong phạm vi này, trong quan hệ cụ thể này có thể chỉ là cái đặc thù ở một phạm vi khác, trong một quan hệ khác. Trong mỗi cái riêng đều chứa đựng cái chung, cái phổ biến. Quá trình vận động, phát triển của cái riêng bao giờ cũng chịu sự chi phối bởi những quy luật chung, quy luật phổ biến. Tuy nhiên, cái riêng không gia nhập vào cái chung. Mỗi cái riêng còn chứa đựng cái đặc thù, đơn nhất. Quá trình phát triển của mỗi cái riêng còn chịu sự tác động bởi những quy luật đặc thù, riêng có của nó do nó còn chịu ảnh hưởng bởi những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mình. Vì vậy, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, con người cần biết vận dụng cái chung, cái phổ biến vào từng trường hợp cụ thể nhưng đồng thời phải biết cá biệt hóa chúng, tránh thái độ trừu tượng, chung chung hay dập khuôn, máy móc, giáo điều. Cái là đúng đắn, phù hợp với giai đoạn cụ thể này, ở thời điểm cụ thể này có thể không còn đúng đắn, phù hợp với một giai đoạn khác, ở một thời điểm khác và ngược lại. Cho nên không được phép áp đặt một cách tùy tiện, chủ quan cái của sự vật hiện tượng này cho một sự vật, hiện tượng khác. Vạch rõ mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù, Lênin viết: “Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến cái chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng. Bất cứ cái riêng nào cũng là cái chung. Bất cứ cái chung nào cũng là một bộ phận, một khía cạnh, hay một bản chất của cái riêng. Bất cứ cái chung nào cũng chỉ bao 11 quát một cách đại khái tất cả mọi vật riêng lẻ. Bất cứ cái riêng nào cũng không gia nhập đầy đủ vào cái chung....” [35, 38]. Trong quá trình vận động, phát triển của hiện thực, cái phổ biến và cái đặc thù luôn luôn chuyển hóa lẫn nhau. Thông qua cái đặc thù để cái đơn nhất chuyển hóa dần dần thành cái phổ biến và ngược lại, cũng thông qua cái đặc thù mà cái phổ biến có thể chuyển hóa thành cái đơn nhất. Sự chuyển hóa này gắn với quá trình hình thành cái mới và quá trình cái cũ mất đia. Cái mới khi mới xuất hiện lần đầu thì nó chỉ là cái đơn nhất. Và nó là cái tích cực, cái tiến bộ cho nên nó sẽ được khẳng định dần dần để trở thành cái chung, cái phổ biến. Còn cái cũ, khi mất đi cũng phải thông qua quá trình chuyển biến dần dần thành cái đặc thù, cái đơn nhất rồi mới mất hẳn. Trong xã hội, quá trình chuyển hóa cái mới từ đơn nhất thành đặc thù, phổ biến là cả một quá trình phức tạp, lâu dài; phải thông qua nhiều bước quá độ, trung gian, nhiều khi phải chấp nhận cả những thất bại, những bước thụt lùi tạm thời. Một số khái niệm, nội dung chủ yếu đã được tổng kết nêu trên về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù và cái đơn nhất là những nền tảng quan trọng trong phương pháp tiếp cận của đề tài. Nó chính là công cụ, là phương tiện để giúp cho việc thực hiện đề tài này. Từ những khái niệm và mối quan hệ giữa cái phổ biến và cái đặc thù đã nêu ở trên, có thể hiểu cái phổ biến của nhà nước là tất cả những phương diện quy định sự tồn tại và phát triển của nhà nước, thể hiện trên hai bình diện giai cấp và xã hội. Còn cái đặc thù là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và những phương pháp thực hiện quyền lực nhà nước trên ba phương diện chính thể, cấu trúc nhà nước, chế độ chính trị. 12 1.1.2. Bản chất nhà nước với tư cách là cái phổ biến Nhà nước là một phạm trù lịch sử. Nhà nước không đồng nghĩa với xã hội, không phải xã hội loài người hình thành là đã có nhà nước. Lịch sử xã hội đã có một thời kỳ chưa có nhà nước- thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy; chỉ đến khi xã hội phân chia thành giai cấp nhà nước mới ra đời. Chế độ tư hữu ra đời, xã hội phân chia thành những giai cấp đối khángchủ nô và nô lệ. Mâu thuẫn giữa các giai cấp, cuộc đấu tranh giữa giai cấp đó không ngừng diễn ra và ngày càng quyết liệt không thể điều hòa được. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội, tạo ra một tình trạng loạn lạc hỗn độn. Xã hội lúc này đòi hỏi phải có một tổ chức mới đủ sức dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp ấy, hoặc cùng lắm là để làm cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, dưới một hình thức gọi là hợp pháp và để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời và đó chính là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư bản đều xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng giai cấp vốn có của mỗi xã hội đó. Như vậy, nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa thì ở đó nhà nước xuất hiện. Nhà nước ra đời tựa hồ đứng ngoài xã hội, làm cho xã hội tồn tại trong vòng trật tự nhất định nhưng trên thực tế, chỉ giai cấp có thế lực nhất- giai cấp thống trị về kinh tế mới có đủ điều kiện lập ra và sử dụng bộ máy nhà nước. Nhờ có nhà nước, giai cấp này cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị, và do đó có thêm những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp khác. Vì thế, về bản chất Nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác, là bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là cơ quan quyền lực của một giai cấp đối với toàn xã hội, là công cụ chuyên chính của một giai cấp. Mặt khác nhà nước thực 13 hiện quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, thỏa mãn một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư nằm dưới sự quản lý của nhà nước. Căn cứ vào đó có thể thấy bản chất nhà nước được thể hiện ở hai mặt, đó chính là tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước. Thứ nhất là tính giai cấp của Nhà nước: thể hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào? Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên ba mặt: kinh tế, chính trị và tư tưởng. Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách: Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác. Hai là tổ chức quyền lực công- tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm các quyền của công dân được thực thi. Thứ hai là tính xã hội của Nhà nước: Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội, đó là chức năng xã hội của nhà nước. Như vậy chức năng xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước. Tính giai cấp và tính xã hội của nhà nước là hai mặt đối lập của cùng một chủ thể. Chúng thống nhất trong sự đấu tranh lẫn nhau. Bản chất giai cấp của Nhà nước giữ vai trò định hướng, chi phối chức năng xã hội. Đến lượt nó, 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan