Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tín ngưỡng của người ba na (huyện kông chro, tỉnh gia lai)...

Tài liệu Tín ngưỡng của người ba na (huyện kông chro, tỉnh gia lai)

.PDF
226
276
139

Mô tả:

Tín ngưỡng của người ba na (huyện kông chro, tỉnh gia lai)
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----o0o----Trung Thị Thu Thủy TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA (HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI) LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội – 2014 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI -----o0o----- Trung Thị Thu Thủy TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA (HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI) Chuyên ngành: Văn hóa dân gian Mã số: 62317005 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC GS. TS Nguyễn Xuân Kính PGS. TS Bùi Văn Đạo Hà Nội - 2014 2 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ: TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA (HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI) Là do tôi viết, mọi trích dẫn đều có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng 02 năm 2014 TÁC GIẢ LUẬN ÁN Trung Thị Thu Thủy 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục MỞ ĐẦU 5 Chƣơng 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 9 9 1.2. Cơ sở lý thuyết và phƣơng pháp nghiên cứu 22 1.3. Khái quát về ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai 38 Tiểu kết chƣơng 1 57 Chƣơng 2: HỆ THỐNG TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI 59 2.1. Thế giới quan của ngƣời Ba Na 59 2.2. Hệ thống các thần linh 61 2.3. Các biểu hiện của tín ngƣỡng đa thần của ngƣời Ba Na 77 Tiểu kết chƣơng 2 116 Chƣơng 3: GIÁ TRỊ, SỰ BIẾN ĐỔI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI BA NA HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI ĐƢƠNG ĐẠI 117 3.1. Tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội đƣơng đại - sự va chạm và những biến đổi 117 3.2. Gía trị của tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Ba Na, huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai 137 3.3. Những vấn đề đặt ra cho bảo tồn và phát huy các hình thức tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh đƣơng đại 151 Tiểu kết chƣơng 3 161 KẾT LUẬN 163 KHUYẾN NGHỊ 166 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 168 TÀI LIỆU THAM KHẢO 169 PHỤ LỤC 176 4 177 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ngƣời Ba Na là một trong những dân tộc tại chỗ sinh sống lâu đời trên cao nguyên trung phần miền Tây của Tổ quốc. Đây là dân tộc thiểu số có dân số lớn thứ ba ở Tây Nguyên sau hai dân tộc thiểu số Gia Rai và Ê Đê, còn nếu tính trong số các dân tộc nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở Tây Nguyên thì ngƣời Ba Na là dân tộc có dân số lớn nhất. Hiện nay ngƣời Ba Na có khoảng trên 200.000 dân (năm 2009), sống tập trung ở 2 tỉnh Gia Lai, Kon Tum và một bộ phận ở các huyện miền núi các tỉnh Bình Định và Phú Yên. Do những lý do và đặc điểm riêng, dân tộc Ba Na không chỉ nổi tiếng về truyền thống yêu nƣớc chống giặc ngoại xâm, theo Đảng theo cách mạng mà còn đƣợc biết đến nhƣ là một trong số ít các dân tộc Tây Nguyên cho đến nay còn bảo lƣu đậm nét nhiều yếu tố văn hóa Môn – Khơ me truyền thống. Nửa cuối thế kỷ XIX, xã hội của cƣ dân bản địa Tây Nguyên nói chung, ngƣời Ba Na nói riêng đang ở giai đoạn cuối của thời kỳ công xã nguyên thủy. Trong giai đoạn phát triển đó, văn hóa tinh thần của ngƣời Ba Na chịu ảnh hƣởng, bị chi phối và tác động rất lớn của tín ngƣỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh. Tín ngƣỡng là sản phẩm của xã hội cổ truyền, gắn với hình thái kinh tế - xã hội tiền công nghiệp, gắn với cơ cấu xã hội mà làng giữ vai trò then chốt và cơ bản. Tín ngƣỡng hàm chứa trong đó các giá trị, là sợi dây cố kết các thành viên và cộng đồng, điều hòa các mối quan hệ giữa con ngƣời với tự nhiên. Hơn một thế kỷ qua, đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai, trong đó có đời sống tín ngƣỡng, đã có nhiều biến đổi lớn trƣớc tác động của các điều kiện mới. Hệ quả của sự biến đổi đó đã ảnh hƣởng lớn đến văn hóa, an ninh chính trị của địa phƣơng. Nếu không giải quyết tốt bài toán tín ngƣỡng thì Kông Chro cũng sẽ nhƣ các nơi khác của Tây Nguyên đối mặt với những phức tạp thể hiện ở sự đan xen, pha trộn, thậm chí có cả xung đột với văn hóa, tín ngƣỡng truyền thống và đời sống xã hội, chính trị... Vì vậy, có song đề đƣợc đặt ra là: một mặt, phải đảm bảo cho đƣợc quyền tự do tín ngƣỡng của nhân dân; mặt khác, phải tiếp tục định hƣớng và quản lý nhà nƣớc để hoạt động tín ngƣỡng, tôn giáo tuân thủ pháp luật, vừa phát huy những 5 giá trị tích cực vừa góp phần bảo tồn những bản sắc văn hóa của dân tộc nơi đây. Đây là hai vấn đề đang đặt ra vừa có tính cấp bách, vừa có tính chiến lƣợc lâu dài. Về mặt xã hội và an ninh chính trị, các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên hiện nay trong đó có ngƣời Ba Na đang “yên” nhƣng chƣa “ổn”. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này trong đó phải kể đến nguyên nhân khủng hoảng niềm tin và sự phát triển không bình thƣờng của Công giáo, Tin lành, Hà mòn. Nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na nhằm góp phần ổn định xã hội, củng cố an ninh chính trị, là nhu cầu cấp thiết cần giải quyết để phát triển bền vững các dân tộc thiểu số tại chỗ nói riêng và Tây Nguyên nói chung hiện nay. Tín ngƣỡng, tự bản thân nó luôn hàm chứa những giá trị văn hóa, giá trị đạo đức, giá trị lối sống… làm nên diện mạo của một cộng đồng. Trong bối cảnh của xã hội đƣơng đại, vấn đề đặt ra là cần có những phƣơng cách lƣu giữ, phát huy những yếu tố tích cực của tín ngƣỡng, góp phần thúc đẩy sự phát triển xã hội; loại bỏ dần những hủ tục, mê tín tiêu cực, không phù hợp thậm chí là kìm hãm tiến bộ xã hội hiện nay để góp phần bảo tồn văn hóa, ổn định an ninh chính trị đồng thời tạo nên sự phát triển bền vững của một tộc ngƣời, là những vấn đề thực sự cần đƣợc quan tâm. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài: “Tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na (huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai)” cho đề tài luận án của mình. 2. Mục tiêu nghiên cứu 2.1. Mục tiêu chung Mục tiêu nghiên cứu chung của luận án là giới thiệu một cách hệ thống và toàn diện về bức tranh tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Ba Na nhằm góp phần làm sáng rõ đặc trƣng văn hóa của ngƣời Ba Na ở Kông Chro tỉnh Gia Lai; đồng thời chỉ rõ những biến đổi trong tín ngƣỡng, lý giải nguyên nhân tác động đến những biến đổi đó và một số vấn đề đặt ra trong bối cảnh từ sau 1975 đến nay. 2.2. Mục tiêu cụ thể 2.2.1. Làm sáng tỏ một cách hệ thống và toàn diện bức tranh tín ngƣỡng truyền thống nhƣ là một khía cạnh quan trọng của văn hóa tộc ngƣời Ba Na đƣợc coi là đặc trƣng tiêu biểu cho văn hóa truyền thống các dân tộc nói ngôn ngữ Môn – Khme ở Tây Nguyên. 2.2.2. Xác định và phân tích, đánh giá một số giá trị của tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Ba Na. 6 2.2.3. Phân tích, lý giải qúa trình biến đổi và các nguyên nhân gây biến đổi tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na từ sau 1975 đến nay và những vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội dân tộc Ba Na trong bối cảnh phát triển bền vững. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là dân tộc Ba Na và các khía cạnh đời sống tín ngƣỡng truyền thống của ngƣời Ba Na tại huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai 3.2. Phạm vi nghiên cứu Tín ngƣỡng là một vấn đề rất rộng và khó, đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu và tâm huyết mới có thể khái quát lên diện mạo của nó trong đời sống tinh thần của một tộc ngƣời. Vì vậy, khi chọn đề tài này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu sâu ở các khía cạnh: quan niệm về sự phân tầng vũ trụ hay ý niệm về thế giới của ngƣời Ba Na; thần và ma; linh hồn; điềm báo (giấc mơ; điềm báo từ những con vật, cây cối...); những điều kiêng kị; hiện tƣợng ma thuật và bói toán; vai trò của thầy cúng (pơ jâu, gru) trong đời sống tinh thần của ngƣời Ba Na; những lễ thức để thấy đƣợc vai trò của tín ngƣỡng trong đời sống của ngƣời Ba Na, giá trị của tín ngƣỡng nhƣ một mạch ngầm cố kết các thành viên của cộng đồng. 3.3. Địa bàn nghiên cứu Địa bàn khảo sát chính của chúng tôi là những làng của ngƣời Ba Na tại huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai nhƣ làng Tơ Nung, làng Măng (xã Ya Ma); làng Nhang lớn, làng Nhang nhỏ, làng Htiêng (xã Đăk Kơ Ning); làng Tpông1, làng Rơng, làng Kun1, (xã Yang Nam); làng Nghe Lớn, làng Bjang (thị trấn Kông Chro); làng Meo lớn, làng Meo nhỏ (xã Đak Pling); làng Kuel, làng Kuk, làng Sơ Ró (xã Sơ Ró). Bên cạnh đó chúng tôi cũng có những so sánh với một số làng của ngƣời Ba Na tại các huyện Kbang (làng Hà Nừng, làng Stơr); thị trấn Đăk Đoa (làng Dur, làng Klăk, làng Ngol, làng Pi ơm) thuộc tỉnh Gia Lai; làng Kon Kơ tu, KonTum Kơ pâng, Konjodri, thuộc thành phố Kon Tum (tỉnh Kon Tum) để thấy những tƣơng đồng và dị biệt trong tín ngƣỡng và biến đổi tín ngƣỡng của các nhóm Ba Na ở các địa phƣơng khác nhau. 4. Đóng góp mới của đề tài 4.1. Đóng góp về mặt khoa học 7 4.1.1. Làm phong phú thêm những vấn đề lý thuyết và khái niệm liên quan đến tín ngƣỡng truyền thống ở các cƣ dân tiền công nghiệp nói chung và các cƣ dân nói ngôn ngữ Môn - Khme nói riêng ở Việt Nam. 4.1.2. Cung cấp các tƣ liệu mới góp phần làm sáng tỏ diện mạo tín ngƣỡng truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên nói chung, Môn – Khơ me nói riêng góp phần tìm hiểu văn hóa của các dân tộc trong quốc gia Việt Nam đa tộc ngƣời. 4.1.3. Làm sáng tỏ một số đặc trƣng và giá trị văn hóa xã hội của tín ngƣỡng Ba Na. 4.1.4. Góp phần lý giải một số vần đề về quan hệ giữa tín ngƣỡng với văn hóa và sinh kế, tín ngƣỡng với nông nghiệp du canh, tín ngƣỡng với xã hội và mối quan hệ giữa tín ngƣỡng với các khía cạnh khác của đời sống dân tộc Ba Na. 4.2. Đóng góp về mặt thực tiễn 4.2.1. Làm rõ những biến đổi trong tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na dƣới tác động của các điều kiện mới 4.2.2. Nhận diện những tác động tích cực và tiêu cực của biến đổi tín ngƣỡng đến phát triển kinh tế - xã hội theo hƣớng bền vững. 4.2.3. Gợi mở một số đề xuất làm cơ sở khoa học góp phần xây dựng chính sách bảo tồn, phát huy các giá trị tín ngƣỡng nói riêng, văn hóa nói chung trong bối cảnh phát triển bền vững ở tộc ngƣời Ba Na cũng nhƣ các dân tộc thiểu số khác tại Tây Nguyên. 5. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án đƣợc chia làm 3 chƣơng: Chƣơng 1: Tình hình nghiên cứu, lý thuyết, phƣơng pháp và tổng quan về ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai Chƣơng 2: Hệ thống tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai Chƣơng 3: Gía trị, sự biến đổi và những vấn đề đặt ra với tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na ở huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai trong bối cảnh xã hội đƣơng đại. 8 Chƣơng 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ TỔNG QUAN VỀ NGƢỜI BA NA Ở HUYỆN KÔNG CHRO, TỈNH GIA LAI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na Văn hóa của dân tộc Ba Na là một trong những di sản văn hóa phong phú trong kho tàng văn hóa của 54 dân tộc Việt Nam, là một mảng màu làm nên sự đa dạng, sinh động trên bức tranh toàn cảnh của bản sắc văn hóa Việt Nam. Với nhiều lớp văn hóa tích tụ, bồi đắp trong quá trình lịch sử dài lâu, tín ngƣỡng Ba Na cho đến nay vẫn luôn là đối tƣợng hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn hóa trong và ngoài nƣớc. 1.1.1.1. Các nghiên cứu của tác giả nƣớc ngoài Tây Nguyên là vùng đất thu hút sự quan tâm của các học giả ngƣời Pháp khi lần đầu tiên họ đặt chân đến đây. Những công trình nghiên cứu về Tây Nguyên nói chung và về tín ngƣỡng của ngƣời Tây Nguyên nói riêng đã đƣợc họ nghiên cứu ngay từ nửa sau thế kỷ XIX. Văn hóa Ba Na thực sự là niềm hứng thú nghiên cứu dân tộc học đƣợc nghiên cứu từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX với chủ yếu là những ngƣời Pháp thuộc Hội Truyền giáo, các sĩ quan quân đội, quan chức hành chính của chính quyền thuộc địa, những nhà thám hiểm, những chủ đồn điền, và một số học giả chuyên làm công tác nghiên cứu. Dẫu cho mục đích nghiên cứu có khác nhau nhƣng những công trình mà họ để lại là cả một kho tƣ liệu quý giá để chúng ta có thể có cái nhìn đầy đủ hơn về vùng đất, văn hoá, con ngƣời nơi đây. J. Pierre Combes là linh mục đầu tiên lên truyền giáo tại Tây Nguyên. Khoảng năm 1833, ông khởi viết công trình nghiên cứu dân tộc học tổng quát đầu tiên về ngƣời Ba Na. Công trình tiếp theo là Dân Làng Hồ ( Les sauvages Bahnars) [32] của linh mục P.Durisboure (ngƣời có 35 năm sống ở vùng dân tộc Ba Na) đƣợc công bố năm 1873. Có thể coi đây là học giả ngƣời Pháp đầu tiên quan tâm đến tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na. Công trình này đƣợc ông khởi viết tại một vùng rừng núi Bắc Tây Nguyên vào năm 1865 để rồi sau đó hoàn thành tại Chủng viện Hội Thừa sai Pari ngày 28/1/1873. Đây là cuốn sách viết về buổi đầu trong hành trình truyền giáo lên cao nguyên của các giáo sĩ phƣơng Tây thế kỉ XIX. Công trình đề cập khá nhiều đến địa lí, nhân văn; những miêu tả, nhận xét về cây cỏ, muông thú, về số dân, các nhóm sắc tộc; hoạt động mƣu sinh, việc rèn đao kiếm, khai thác mỏ,… của các dân tộc bắc Tây Nguyên. Tín ngƣỡng dân 9 gian, những phong tục tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số cũng đƣợc đề cập nhƣ tục kiêng cữ, cấm đoán, một phần những qui định bất thành văn là sức mạnh “pháp lí” của cộng đồng,... là những tƣ liệu quan trọng cho các nhà nghiên cứu đi sau muốn tìm hiểu về các dân tộc sống xung quanh cũng nhƣ ngƣời Ba Na; các miêu tả, nhận xét, bản đồ trong công trình này thực sự có giá trị cho sự tham khảo ngày nay. Tiếp đến là linh mục Jean-Baptiste Guerlach với các công trình đáng chú ý nhƣ Vùng ngƣời Bahnar hoang dã (Chez les sauvages Bahnars) viết năm 1884, Phong tục mê tín của ngƣời Bahnar hoang dã (Mœurs et superstitions des sauvages Bahnars) viết năm 1887, Kết hôn và lễ cƣới của ngƣời Bahnar (Mariages et cérémonies des noces chez les Bahnars) viết năm 1901, Tang lễ của ngƣời Bahnar (Funérailles chez les Bahnars) viết năm 1903…[43]. Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, xuất hiện thêm một số ấn phẩm trong đó có đề cập đến tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na. Năm 1909, nhà truyền giáo M.J.Kemlin công bố chuyên khảo: “Những lễ thức nông nghiệp của ngƣời Reungao” (Les rites agraires des Reungao) [58] đăng trên tập san của Viện Viễn Đông Bác Cổ, trong đó, ngoài việc giới thiệu khái quát tình hình văn hoá - xã hội của tộc ngƣời bản địa, ông còn đặc biệt chú ý đến phong tục tập quán liên quan đến tín ngƣỡng nông nghiệp của nhóm ngƣời Ba Na Rơ ngao vùng Kon Tum nhƣ lễ vật dâng cúng, những lời khấn, những kiêng kị, bói toán, trình tự tiến hành các nghi lễ trong lễ thức nƣơng rẫy... Năm 1910, một công trình khác có tên: “Những giấc mộng và việc giải thích những giấc mộng của ngƣời Reungao” (Les Songes et leur interpretation chez les Reungao) [59] của ông đƣợc công bố. Trong công trình này, ông lí giải nguyên nhân mà ngƣời Ba Na tin vào giấc mơ nhƣ sau: “Iôn kô” hay “iôn tau” là “từ bên nầy” cũng nhƣ “từ bên kia” mà chính hồn thấy, và hành động trực tiếp hoặc gián tiếp qua thân xác. Nhƣ vậy có những lý do để tin vào hiện thực của giấc chiêm bao của chúng ta, cũng nhƣ có những lý do để tin vào tính khách quan của điều ta thấy, nghe và hành động trong trạng thái thức vậy... Tuy nhiên, chúng ta cũng lƣu ý là nền tảng của lòng tin này còn sâu xa hơn, và đƣợc đặt trên quan niệm „lấy cái tôi làm chuẩn‟, mà ngƣời thƣợng gán cho vũ trụ. Khi thấy vô số sự bất bình đẳng và những chuyện kỳ quặc của thiên nhiên làm cho họ không giải thích nổi, tự 10 nhiên họ đâm ra tƣởng tƣợng nguyên nhân của chúng nằm trong biện chứng nội tại nơi từng sự vật, một sự xung đột biến đổi từng ngày và từng hoàn cảnh, nhƣ tính khí của ngƣời vậy. Nói tắt, họ đã thấy trong mọi vật thể một chủ thể đƣợc sinh động nhƣ họ và có cùng đam mê nhƣ họ [59, tr. 17]. Và những giấc mơ luôn khiến các nhóm ngƣời Ba Na thật sự quan tâm khi nó liên quan đến lúa, buôn bán, câu cá và săn bắn, một ngôi làng hay một ngôi nhà, đánh trận, bệnh tật và tử vong, đám cƣới. Đến công trình “Tục kết thân của ngƣời Rơngao” (Alliances chez les Reungao) [60] viết năm 1917, ông lại nhấn mạnh thêm cơ sở cho tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na: Nói cách khác, tất cả mọi vật đều có nguyên lý sống động và tác động đối với thế giới con ngƣời. Cái nguyên lý đó là “hồn” đƣợc ngƣời Bahnar gọi là “pơhngol” hay “pơngol”. Sức lực của nguyên lý sống động đó đƣợc gọi là “ai”. “Ai” của con ngƣời có tác động ảnh hƣởng trên con vật và đồ vật, và ngƣợc lại. “Ai ” của con vật hoặc đồ vật hợp với “ai” của ngƣời nào đó, mọi sự đều tốt đẹp; mà ngƣợc lại sẽ đổ vỡ, bất thành, là không ích lợi. Với quan niệm đó, việc đặt tên buôn làng rất quan trọng để cho có sự hòa hợp giữa các “ai” với nhau, nghĩa là giữa các hồn với nhau. Mặt khác, cũng theo quan niệm của ngƣời dân tộc, một ngƣời giàu có, một ngƣời tài giỏi, một ngƣời đứng đầu, một thủ lãnh, ông vua chẳng những có một “mơhol” chính, mà còn nhiều “mơhol” phụ, tự nhƣ đoàn quân gìn giữ nhà cửa tài sản. Hồn của họ sau khi ra khỏi thân xác có thể thành một loại thần, dân làng có thể kêu khấn, trong khi đó, hồn của thứ dân xuống “mang lung” (Âm ti). Do đó, ngƣời dân tộc thƣờng đặt tên làng theo tên ngƣời lập làng cũng là việc thích hợp và hữu ích để “ai” của ông giúp dân làng do ông đã vất vả xây dựng. [60, tập X, số 3]. Ở công trình này, ông cũng đã dụng công miêu tả khá kĩ các lễ thức trong nghi lễ kết nghĩa liên minh của tộc ngƣời này. Đây có thể xem là những công trình có giá trị tƣ liệu tham khảo, đặt nền móng cho việc nghiên cứu chuyên sâu về tín ngƣỡng và tộc ngƣời trên vùng đất Tây Nguyên. Cùng với M.J.Kemlin, H.Maitre cũng cho công bố các công trình của mình nhƣ: Khu vực của ngƣời Mọi ở Nam Đông Dƣơng - Cao nguyên Đắc Lắc năm 1909. Đến năm 11 1912, H.Maitre lại cho ra đời cuốn sách khá dày dặn, công phu mang tên Rú Mọi, ở đây ông cũng đã cho công bố những tƣ liệu mới nói về một số tộc ngƣời nói ngôn ngữ Môn – Khơ me ở Bắc Tây Nguyên cũng nhƣ phản ánh đời sống của cƣ dân nơi đây. Tuy có đề cập ít nhiều đến tín ngƣỡng, tôn giáo của các dân tộc trên vùng đất cao nguyên này nhƣng H. Maitre lại không có những phân tích về niềm tin tôn giáo của ngƣời Tây Nguyên. Cuốn sách của Henri Maitre cho chúng ta một hiểu biết sâu sắc về một thời đại đặt ra nhiều câu hỏi và những câu trả lời đã dần trở thành hiện thực. Với ý nghĩa rằng mỗi cuốn sách không chỉ nói về quá khứ mà còn nói với tƣơng lai, “Les jungles Moi Rừng ngƣời Thƣợng” thực sự là một công trình ghi dấu cho núi rừng, con ngƣời và nền văn minh vùng Trƣờng Sơn Tây Nguyên. Năm 2008, công trình này đƣợc Viện Viễn Đông Bác Cổ, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam và NXB Tri Thức công bố bản dịch ra tiếng Việt của Lƣu Đình Tuấn với tựa đề Rừng ngƣời Thƣợng - vùng rừng núi cao nguyên miền Trung Việt Nam [65]. Trong những ngƣời thuộc thế hệ nghiên cứu sau chiến tranh thế giới thứ hai phải kể đến Jacques Dournes mà Dam Bo chính là bút danh của ông, một trong những nhà Tây Nguyên học say mê nhất và nổi tiếng nhất. Ông sống ở Tây Nguyên gần suốt ba mƣơi năm, am hiểu sâu sắc hàng chục dân tộc thiểu số ở đây, nói thành thạo ngôn ngữ của họ, và đã viết hàng chục công trình có thể coi thuộc số những công trình nghiên cứu cơ bản nhất về Tây Nguyên cho đến ngày nay. Trong số đó có những công trình đƣợc coi gần nhƣ là “kinh điển” trong khoa nghiên cứu về Tây Nguyên, nhƣ các cuốn Pơ tao, một lý thuyết về quyền lực ở ngƣời Giarai Đông Dƣơng [27], Rừng, Đàn bà, Điên loạn - hành trình qua miền mơ tƣởng Giarai (1950) [25], Miền đất huyền ảo – các dân tộc miền núi Nam Đông Dƣơng (1950) [26]... Tác phẩm của Dam Bo không chỉ cung cấp những tƣ liệu quý giá mà hơn thế rất nhiều, một số vấn đề cơ bản tác giả đặt ra về sự phát triển của xã hội và về số phận con ngƣời ở đây vẫn còn nóng hổi tính cập nhật. Về một phƣơng diện nào đó, công trình nghiên cứu công phu và đầy nhiệt tâm này đã vƣợt qua đƣợc sự thử thách của thời gian, và không hề lạc hậu. Chẳng hạn nhƣ công trình Miền đất huyền ảo, ông đã phản ánh cuộc sống hiện thực lẫn huyền thoại hoang dã của những ngƣời miền núi, trong đó có ngƣời Ba Na, bằng một quan niệm mang tính vũ trụ quan đầy siêu hình. Miền đất huyền ảo tái hiện diện mạo của ngƣời Tây Nguyên với những nét phác về “Ngƣời Xơ đăng ra 12 trận”, “Đời sống của ngƣời Ba Na”; “Kết ƣớc liên minh của ngƣời Rơ ngao”; “Ngƣời Stiêng đi săn”… đầy tính khoa học và bay bổng văn chƣơng của ông. Đặc biệt về vấn đề tôn giáo, tín ngƣỡng, Jacques Dournes có một cái nhìn bao dung đối với tín ngƣỡng của những ngƣời mà ngƣời Kitô giáo cho là “ngoại đạo” (les paiens). Một câu nói của ông đối với cƣ dân Tây Nguyên “Chúa yêu những ngƣời ngoại đạo” (Dieu aime les paiens), sau này trở thành nhan đề của một cuốn sách ông viết về thần học và dân tộc học. Đến những năm 40, 50 của thế kỷ XX, tín ngƣỡng của ngƣời Tây Nguyên nói chung và ngƣời Ba Na nói riêng đƣợc các học giả Pháp chú tâm nghiên cứu sâu hơn, nhất là Paul Guilleminet với nhiều công trình có giá trị. P. Guilleminet đã viết bài đầu tiên về ngƣời Ba Na năm 1938, sau cuốn Mọi Kontum của hai tác giả ngƣời Việt Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi một năm. Năm 1942, ông cho ra đời cuốn sách: Nghiên cứu về những tín ngƣỡng của các bộ lạc vùng cao An nam, ngƣời Bâhnar Kon Tum và những ngƣời láng giềng của họ, những thuật bí. Đến năm 1948, công trình: Bộ lạc Bâhnar ở Kon Tum (Le tribu Bahnar du Kontum) [46] đƣợc công bố và có thể xem đây nhƣ công trình đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu tộc ngƣời, có một giá trị khoa học nhất định khi tìm hiểu tất cả những vấn đề về văn hoá, kinh tế, xã hội của tộc ngƣời Ba Na trong đó có đề cập đến nội dung quan trọng là tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na, những quan niệm về thần linh, linh hồn, những kiêng kị, điềm báo, giấc mơ, sự phân tầng thế giới... Năm 1952, công trình Tập quán của bộ tộc Bahnar, Sedang và Djara của tỉnh Kontum đƣợc áp dụng tại tòa án của tỉnh từ năm 1908 đến năm 1939 (Coutumier de la tribu bahnar, de Sedang et des Djarai de la province de Kontum selon la coutume appliquée dans les tribunaux de cette province de 1908 à 1939) [47] đƣợc công bố. Cùng với đó là hàng loạt các công trình: “Ghi chép về tục thờ cúng chó và các súc vật trong xã hội ngƣời Mọi Kon Tum”, “Lễ tế trâu của ngƣời Bahnar tỉnh Kon Tum”, “ Hiện tƣợng bán ra trong xã hội ngƣời Bahnar”, “Nghề săn bắn của ngƣời Bahnar”, “Cái chết và sự chôn cất trong xã hội ngƣời Bahnar”... Tiếp đến, Sion John viết công trình “Ngƣời Bahnar Jolong của tỉnh Kon Tum” (Les Bahnars Jolongs de la province de Kontum) [57], in tại Sài Gòn vào năm 1949. Mỗi công trình có những chính kiến khác nhau, và chủ yếu còn dừng lại ở việc mô tả dân tộc học nhƣng có thể thấy các học giả Pháp đã để lại cho chúng ta nhiều tƣ 13 liệu quí giá; hơn nữa nhiều vấn đề về tín ngƣỡng và sự phát triển xã hội và con ngƣời nơi đây có thể nói vẫn còn nóng hổi tính tƣ liệu, tính cập nhật trong mỗi công trình. Mặc dù mới chỉ là những nghiên cứu đầu tiên, nhƣng các công trình của các tác giả ngƣời Pháp có giá trị về mảng văn hóa phi vật thể, trong đó có tôn giáo, tín ngƣỡng, phong tục tập quán của cộng đồng ngƣời Ba Na nói riêng, các dân tộc khác trên vùng Tây Nguyên nói chung. Những công trình nghiên cứu này đa phần đƣợc nghiên cứu theo phƣơng pháp dân tộc chí, là những tƣ liệu quý giá trong việc nghiên cứu so sánh phong tục tập quán, tôn giáo, tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na với các tộc ngƣời khác ở mảnh đất cao nguyên này từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Về những hạn chế của các công trình do các tác giả phƣơng Tây nghiên cứu về phong tục tập quán, tín ngƣỡng Ba Na chúng tôi đồng ý với Vƣơng Hoàng Trù rằng: “Các tác giả nƣớc ngoài và chủ yếu là các học giả phƣơng Tây, khi nghiên cứu về các tộc ngƣời ở phƣơng Đông thì dƣới con mắt của họ đây là những cƣ dân còn lạc hậu cần đƣợc khai hóa” [88, tr. 18]. Nguyên nhân của những hạn chế đó chủ yếu là do quan niệm coi phƣơng Tây là trung tâm, coi văn hóa các nƣớc thuộc địa là thấp kém, chƣa văn minh, cần khai hóa. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc một số nhà nghiên cứu coi những phong tục tập quán, sinh hoạt tín ngƣỡng của các dân tộc ở Tây Nguyên, trong đó có ngƣời Ba Na là “mê tín dị đoan”, là “rất khó hiểu”. Không thể không nói tới mục đích chính trị của một số công trình do các học giả Pháp viết về Tây Nguyên. Truyền giáo, nghiên cứu phong tục tập quán để tìm ra phƣơng cách bình định và cai trị phù hợp, sau đó là quân sự và bình định của quân đội vốn là lộ trình quen thuộc với các nƣớc chậm phát triển trong thế kỷ XIX. Bên cạnh các công trình của các học giả ngƣời Pháp còn có một số công trình nghiên cứu về Tây Nguyên của các học giả Mỹ. Những tác giả ngƣời Mỹ bắt đầu quan tâm đến các dân tộc ở vùng Trƣờng Sơn- Tây Nguyên từ cuối thập niên 1950. Gerald. C. Hickey đến Tây Nguyên lần đầu tiên vào năm 1956. G.C. Hickey và những nhà nghiên cứu làm việc cho Viện Ngôn ngữ học Mùa hè (Summer Institute of Linguistics) là những học giả ngƣời Mỹ có nhiều công trình nghiên cứu nhất về dân tộc vùng Trƣờng Sơn- Tây Nguyên, trong đó có ngƣời Ba Na. Năm 1964 công trình The major ethnic groups of the south vietnamese highland (Các nhóm thiểu số ở Nam Việt Nam) [44] của G. C. Hickey đƣợc công bố gồm hai phần. Phần một: “Nền tảng chung của 14 đồng bào vùng cao và mô hình của cuộc sống của họ” với “Nguồn gốc và đặc điểm của văn hóa”, “Hoạt động kinh tế”, “Tổ chức chính trị - xã hội”, “Tôn giáo”, “Sự giao tiếp với bên ngoài”. Phần hai: “Lịch sử vùng đất và những tính năng đặc trƣng của các nhóm tộc ngƣời chính” với “Những phác thảo ngắn gọn về lịch sử”, “Những liên minh” và sáu nhóm chính mà công trình đề cập gồm: Ê Đê, Gia Rai, Ba Na, Mnông, Stiêng, Xê Đăng. Trong nghiên cứu về tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na, công trình có đề cập đến những kiêng kị của ngƣời Ba Na trong cuộc sống, quan niệm của họ về linh hồn, về thế giới thần linh và siêu nhiên, về vai trò của các thầy cúng… Năm 1966, công trình Các nhóm thiểu số ở Việt Nam Cộng hòa (Minority groups in the Republic of Vietnam) [71] của Joann L. Schrock và các tác giả khác, do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ xuất bản dày trên 1.000 trang là một tập nghiên cứu tổng hợp Ethnographic Study Serries về các tộc ngƣời ở Tây Nguyên mà tƣ liệu dựa trên những công trình của các học giả ngƣời Pháp. Công trình gồm 2 phần. Phần 1 tìm hiểu về “Các bộ tộc” gồm 18 dân tộc: Ba Na, Bru, Cua, Halang, Mạ, Hre, Koho, Katu, Jarai, Ê đê, Hroi, Jeh, Mnong, Mƣờng, Raglai, Rơ ngao, Sê đăng, Stieng. Phần 2 tập trung nghiên cứu “Các nhóm thiểu số khác” với các nhóm Bình Xuyên, Cao Đài, Chăm, Hoa, Hòa Hảo, Khmer, Ấn Độ và Pakistan. Công trình đã có cách lí giải khá tổng quát về văn hóa của ngƣời Ba Na trên các bình diện nhƣ: lịch sử hình thành tộc ngƣời, cách thức định cƣ, đặc điểm hình thể, cách thức chăm sóc sức khỏe, tổ chức xã hội, phong tục tập quán, tôn giáo và tín ngƣỡng.... Qua tiếp cận những nguồn tƣ liệu này, chúng tôi nhận thấy rằng nhìn chung các nghiên cứu của các tác giả ngƣời Mĩ kế thừa khá nhiều từ các học giả Pháp, và cho đến nay những tài liệu này vẫn có giá trị tham khảo nhất định, nhất là những tƣ liệu về bản đồ để các nhà nghiên cứu sau này có cơ sở đối chiếu. 1.1.1.2. Các nghiên cứu của tác giả Việt Nam Những bài viết, những công trình nghiên cứu đầu tiên có liên quan đến đề tài này là những dòng biên niên sử của các triều đại phong kiến Việt Nam và ghi chép của các quan lại phong kiến Việt Nam trong các sách sử biên niên từ thế kỷ XVI – XVIII. Dƣới thời nhà Nguyễn, do yêu cầu thiết lập quan hệ ngày càng chặt chẽ giữa triều đình với cao nguyên phía Tây mà thông tin về vùng đất Gia Lai, trong đó có thông tin về tín ngƣỡng cổ truyền đƣợc các nhà viết sử đặc biệt quan tâm và ghi chép ngày càng chi tiết trong 15 Đại Nam thực lục, Đại Nam chính biên liệt truyện, Phủ Man tạp lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ… Tuy nhiên những công trình này ghi chép về Gia Lai, về tín ngƣỡng của cƣ dân bản địa Ba Na còn rất mờ nhạt. Công trình nghiên cứu của ngƣời Việt về ngƣời Ba Na phải kể đến “Kon Tum tỉnh chí” [15], [16] của Võ Chuẩn (vị Quản đạo của đạo Kon Tum ở thập niên 30 của thế kỷ XX) in trên tạp chí Nam Phong từ số 191 (1933) đến số 195 (năm 1934). Tác giả không chỉ cung cấp cho các nhà nghiên cứu những tƣ liệu quan trọng về điều kiện tự nhiên, dân cƣ và kinh tế của khu vực bắc Tây Nguyên vào nửa đầu thế kỉ XX mà còn cung cấp một số tƣ liệu đáng tin cậy về ngƣời Ba Na. Tuy nhiên công trình cũng không ghi chép nhiều về các lễ thức cũng nhƣ tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na. Mọi Kon Tum [13] của hai tác giả Nguyễn Kinh Chi, Nguyễn Đổng Chi ra đời năm 1937, là một công trình nghiên cứu dân tộc học về cƣ dân ngƣời Ba Na ở Kon Tum. Với hơn 150 trang, Mọi Kontum gồm hai phần chính: Tỉnh Kontum: (Địa dƣ; Nhân dân; Thành phố; Chánh trị; Kinh tế) và Phong tục Mọi Bahnar: (Thân thể, tâm tình; Triết lý tín ngƣỡng; Thiên văn địa lý; Hƣơng thôn giao tế; Gia tộc; Sinh tử, giá thú; Sĩ, nông, công, thƣơng; Du hí, mỹ thuật; Tục ngữ Bahnar; Câu đố Bahnar; Chuyện đời xƣa Bahnar). Công trình có phần bàn về “triết lí tín ngƣỡng” của ngƣời Ba Na với cách lí giải về thƣợng đẳng thần, hạ đẳng thần; điềm báo; chiêm bao; vai trò của thầy cúng… trong xã hội Ba Na truyền thống. Ngay trong cuốn sách này, dễ nhận thấy một quan điểm rất tiến bộ trong cách nhìn về “ngƣời khác” - phủ định quan điểm kỳ thị khá phổ biến thời bấy giờ coi ngƣời Ba Na nói riêng, các dân tộc thiểu số nói chung là mọi rợ. Hai tác giả cuốn sách có một thái độ đầy tôn trọng với đối tƣợng nghiên cứu: “Tục lệ của họ chẳng những không mọi rợ chút nào mà trái lại có nhiều điều thuần túy hơn ta kia!”. Bên cạnh đó, hai tác giả cũng đã có sự đi sâu lý giải quan niệm sống chết, thế giới tâm linh vừa mang nét nguyên thủy vừa khởi phát từ những triết lý sâu xa của ngƣời Ba Na. Ví dụ: Ngƣời Ba Na coi sống là sự kết hợp của xác (akâu) và hồn (pơhngol), họ tin vào số mệnh nhƣ ngƣời Việt - sinh ký tử quy - chết là “đội lốt đi sinh hoạt ở một thế giới khác” [13, tr. 168]. Hay nhận định rằng hệ thống thần linh (yang) của ngƣời Ba Na cũng phong phú, là hiện thân của những biểu tƣợng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, sao, sấm sét, voi, cây, núi, lúa, nƣớc, cọp, ghè...), cho thấy một đời sống văn hóa, con ngƣời gắn với thiên nhiên - sống trong thiên nhiên một cách hòa bình. 16 Những ghi chép cẩn trọng, có kiểm chứng, sự cần mẫn, tỉ mỉ và rất khoa học của hai tác giả đã làm nên một công trình nghiên cứu hết sức giá trị, đƣợc coi là kho tri thức về lịch sử Kon Tum và văn hóa của ngƣời Ba Na. Từ năm 1955 đến 1975, có một số tác giả ngƣời Việt nghiên cứu về ngƣời Ba Na nhƣ Lƣu Danh Du với bài “Tết của đồng bào Thƣợng nam cao nguyên” [29] đăng trên báo Chấn hƣng kinh tế số 51 – 52 năm 1957. Nghiêm Thẩm ở trong tác phẩm “Tìm hiểu đồng bào Thƣợng” (1961) [78], đã đề cập đến đời sống của đồng bào Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng nói chung và đã dành một phần điểm qua phong tục của ngƣời Ba Na, cụ thể là việc dựng nhà, ăn, mặc, ở…. Lê Thị Ngọc Ái trong Một số nét về xã hội ngƣời Bana [2] đăng trên tạp chí NCLS số 21-22 năm 1969 đã khái quát diện mạo xã hội ngƣời Ba Na, trong đó có tín ngƣỡng của họ. Bên cạnh đó còn phải kể đến cuốn: Đồng bào các sắc tộc thiểu số ở Việt Nam [19] của Nguyễn Trắc Dĩ xuất bản năm 1970, trong đó ông có nói đến lịch sử của tộc ngƣời Ba Na nhƣ sau: Trong lịch sử lãnh địa của sắc tộc này (chỉ ngƣời Ba Na) trên toàn tỉnh Plâyku, Phú Bổn, một phần của tỉnh Phú Yên, Bình Định. Vào cuối thế kỷ XVIII sang thế kỷ XIX có những cuộc chinh chiến giữa các sắc tộc Bana, Jarai, Sêđăng. Ngƣời Bana phía Bắc bị ngƣời Sêđăng phá phách, phía Nam bị ngƣời Jarai-Hơdrong đánh phá thƣờng xuyên, nhất là những làng gần biên giới. Bởi vậy đến cuối thế kỷ XIX khu vực của ngƣời Bana cứ bị thu hẹp lại [ 19, tr. 38]. Cao nguyên miền Thƣợng [3] của Toan Ánh và Cửu Long Giang viết năm 1974 chủ yếu đi vào khảo tả một cách sơ lƣợc địa vực cƣ trú, gốc tích, hình dáng, tính tình, ăn uống, y phục, trang sức, nếp sống cá nhân, đời sống xã hội, đời sống tinh thần của các tộc ngƣời Gia Rai, Ba Na và Xơ Đăng chứ chƣa phải là những công trình chuyên khảo, nghiên cứu chuyên sâu về tín ngƣỡng. Nhìn chung, những công trình nghiên cứu về ngƣời Ba Na và văn hóa Ba Na thời gian này không nhiều nhƣng trong một chừng mực nhất định, đã có những đóng góp quý báu vào kho tàng tƣ liệu khoa học. Hạn chế của những công trình này là ít có tính mới, chƣa có những chuyên luận chuyên sâu về từng lĩnh vực. Một số công trình, bài báo còn 17 mang tính miêu tả, khái quát, chƣa có sự so sánh, đúc kết, chƣa bóc tách, giải mã các hiện tƣợng văn hóa theo lịch đại và đồng đại trong không gian văn hóa Việt Nam và văn hóa Đông Nam Á. Cũng nhƣ các công trình của các học giả ngƣời Mĩ, các công trình của ngƣời Việt Nam trong thời kỳ này phần nhiều dựa trên cơ sở tài liệu do các học giả ngƣời Pháp để lại. Từ sau năm 1975 đến nay, với chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc là đẩy mạnh nghiên cứu cộng đồng các dân tộc và văn hóa Tây Nguyên, việc nghiên cứu văn hóa các dân tộc Tây Nguyên nói chung, văn hóa Ba Na nói riêng đƣợc các nhà khoa học Việt Nam chú ý đến nhiều hơn. Theo trình tự thời gian có thể kể tên các công trình của các nhà nghiên cứu nhƣ Trần Mạnh Cát viết “Những nghi lễ có liên quan tới cây lúa của đồng bào các dân tộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum” [10] đăng trên tạp chí Dân tộc học số 3 năm 1979. Công trình Các dân tộc tỉnh Gia Lai - Công Tum [95] của Đặng Nghiêm Vạn công bố năm 1981. Công trình mô tả lần lƣợt về sáu tộc ngƣời bản địa: Gia Rai, Xơ Đăng, GiẻTriêng, Ba Na, Brâu và Rơ Măm. Mỗi tộc ngƣời đƣợc giới thiệu riêng thành một chuyên khảo, về nhiều khía cạnh khác nhau: từ tộc danh và các nhóm địa phƣơng đến sự phân bố địa bàn cƣ trú; từ các hoạt động mƣu sinh, đời sống vật chất, đến quan hệ xã hội, dòng họ và gia đình; từ tập tục trong chu kỳ đời ngƣời đến sinh hoạt tín ngƣỡng – tôn giáo. Tƣ liệu về cuộc sống và văn hoá của mỗi tộc ngƣời đƣợc các tác giả sƣu tầm chủ yếu qua những chuyến đi nghiên cứu điền dã tại nhiều làng. Mặc dầu có đề cập đến tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na nhƣng nhóm tác giả cũng chỉ mới khái quát mà chƣa đi vào tìm hiểu cụ thể, cặn kẽ hệ thống tín ngƣỡng truyền thống nhƣ một thành tố của văn hoá tộc ngƣời. Năm 1984, cuốn sách “Các dân tộc ít ngƣời ở Việt Nam” (các tỉnh phía Nam) [39] của Bế Viết Đẳng đƣợc xuất bản, giới thiệu tổng quan về các dân tộc phía Nam Tổ quốc, trong đó có dân tộc Ba Na với vài nét chấm phá về tôn giáo, tín ngƣỡng. Năm 1986, Trần Từ viết công trình Hoa văn các dân tộc Giarai, Bana [93] đã đề cập khái quát một vài nét về nếp sống tôn giáo của ngƣời Ba Na khi đề cập đến quan niệm về thần linh, sự phân tầng thế giới trong đó khẳng định: Độc đáo nhất là thế giới dành cho ngƣời chết”, “đấy là thế giới không khác mấy so với thế giới của ngƣời sống, tuy đối lập với nó chủ yếu về phƣơng hƣớng: nơi chôn ngƣời chết của làng thƣờng là một cánh rừng thƣa về phía 18 Tây của khu ngƣời sống cƣ trú; dƣới đất ngƣời chết đƣợc đặt nằm dài trên một trục Đông - Tây, chân hƣớng về phía mặt trời lặn [ 93, tr. 35]. Năm 1991, Ngô Vĩnh Bình có công trình “Mẹ lúa - đấng tối cao trên cao nguyên miền thƣợng” [7] đăng trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 21 – 22 cho biết đồng bào miền Tây Nguyên coi hạt lúa là một vị thần linh thiêng, mẹ lúa gắn liền với những nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Nguyễn Khắc Tụng với công trình Nhà rông các dân tộc Bắc Tây Nguyên [91] năm 1991. Thông qua những nghi lễ, kiêng cữ liên quan đến xây dựng nhà rông, tác giả phần nào nói lên đƣợc tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na. Lê Trung Vũ, Lƣu Hiếu Khanh, Nguyễn Hồng Dƣơng, Lƣu Kiếm Thanh năm 1996 viết công trình Nghi lễ đời ngƣời [99] đã tập trung khảo tả nghi lễ đời ngƣời các dân tộc ở Việt Nam nói chung, trong đó có điểm qua lễ cƣới, tang ma của ngƣời Ba Na dƣới góc độ giới thiệu sơ lƣợc. Năm 2000, tác giả Phạm Minh Thảo cho công bố công trình Lễ tục vòng đời [77] có nhắc đến một số phong tục nghi lễ vòng đời ngƣời tản mạn của các dân tộc ở Việt Nam, trong đó có của ngƣời Ba Na nhƣng chƣa có sự nghiên cứu chuyên sâu. Đáng chú ý là loạt bài về nƣơng rẫy và ruộng nƣớc của ngƣời Ba Na của tác giả Bùi Minh Đạo đã góp phần nghiên cứu một cách tƣơng đối hệ thống về nông nghiệp nƣơng rẫy cũng nhƣ tín ngƣỡng liên quan đến kinh tế nƣơng rẫy truyền thống của tộc ngƣời này, từ đó tác giả đã đƣa ra những cơ sở cho việc hoạch định và phát triển bền vững kinh tế xã hội Tây Nguyên. Cùng với đó là công trình sách Trồng trọt truyền thống của các dân tộc tại chỗ Tây Nguyên [36] xuất bản năm 2000 của tác giả trên với việc giới thiệu ban đầu hoạt động trồng trọt lễ của các dân tộc thiểu số tại chỗ Tây Nguyên, trong đó đề cập một số lễ thức nông nghiệp đã góp phần làm sáng tỏ thêm tín ngƣỡng đa thần và tín ngƣỡng nông nghiệp Tây Nguyên nói chung, Ba Na nói riêng. Năm 2006, công trình Dân tộc Ba Na ở Việt Nam [38] của tác giả Bùi Minh Đạo ra đời, đây đƣợc xem là công trình khái quát khá đầy đủ diện mạo văn hóa của ngƣời Ba Na từ đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tổ chức xã hội cũng nhƣ tìm hiểu về tín ngƣỡng của tộc ngƣời này. Công trình đã có sự lí giải quan niệm về thế giới, tín ngƣỡng đa thần của ngƣời Ba Na với những điềm báo từ giấc mơ, những kiêng kị, các lễ thức 19 nông nghiệp và vòng đời ngƣời... Có thể xem đây là công trình có giá trị khi muốn tìm hiểu, nghiên cứu về ngƣời Ba Na ở Việt Nam. Cùng với các công trình nghiên cứu về ngƣời Ba Na của các nhà khoa học đầu ngành, tác giả luận án này cũng tiếp cận mảng tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na qua những nét phác về nghi lễ nhƣ: “Nghi lễ nông nghiệp truyền thống của ngƣời Ba Na (qua nghiên cứu trƣờng hợp làng Kon Jơdri, xã Đăk Rơ Wa, thị xã Kon Tum)”; “Quan niệm về thần linh của ngƣời Ba Na”; “Vài nét về tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na”; “Tâm thức rừng của ngƣời Tây Nguyên”; “Giấc mơ và việc giải mã những giấc mơ của ngƣời Ba Na”; “Pơ jâu trong xã hội ngƣời Ba Na”… 1.1.2. Tình hình nghiên cứu tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro, tỉnh Gia Lai Nhìn tổng quát, có thể nói cho đến nay tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na huyện Kông Chro tỉnh Gia Lai chƣa đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Có chăng là “sự đặt nền móng”, khởi phát của các công trình nhƣ: Cuốn sách Fônclo Bâhnar [76] xuất bản năm 1988 do Tô Ngọc Thanh chủ biên đã chọn một địa điểm nghiên cứu cụ thể - vùng An Khê cũ (tỉnh Gia Lai) và tộc ngƣời Ba Na. Thông qua việc tìm hiểu sâu về folklore tại hai địa phƣơng (xã Nam và xã Yama, nay thuộc huyện Kông Chro), công trình đã chia thành 5 chƣơng. Tuy nhiên nghiên cứu sâu về tín ngƣỡng của ngƣời Ba Na lại chƣa đƣợc nhóm tác giả thật sự quan tâm mà chỉ đƣa ra những nét khái quát, phác họa về vũ trụ quan, nhân sinh quan, thế giới quan nhƣ là đặc điểm tƣ duy nhận thức để làm nên lễ hội truyền thống của tộc ngƣời nơi đây. Cuốn sách “Nhà mồ và tƣợng nhà mồ Giarai, Bơhnar” công bố năm 1993 và “Lễ hội bỏ mả các dân tộc Bắc Tây Nguyên – (dân tộc Gia Rai – Ba Na)” [23] công bố năm 1995 của tác giả Ngô Văn Doanh đã giới thiệu tổng quát về ngƣời Ba Na, địa vực cƣ trú và khảo tả rất chi tiết về lễ bỏ mả của nhóm ngƣời Ba Na Tơ Lô, Ba Na Kon Kơ Deh, Ba Na Roh là ba nhóm Ba Na chính thuộc huyện Kông Chro (tỉnh Gia Lai). Công trình “Bơ thi: Cái chết đƣợc hồi sinh” [24] công bố năm 2007 là tập hợp tất cả các nghiên cứu của Ngô Văn Doanh trong nhiều năm qua về lễ bỏ mả, nhà mồ và tƣợng nhà mồ của hai dân tộc Gia rai và Ba Na. Tác giả đánh giá lễ hội bỏ mả của ngƣời Giarai và Ba Na cũng nhƣ của một số tộc ngƣời khác ở Tây Nguyên là “một trong những sắc thái văn hóa độc đáo nhất của cả vùng cao nguyên hùng vĩ của đất nƣớc”. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất