TÌM HIỂU VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƢỜI NHẬT VÀ NGƢỜI VIỆT
Trang 1
TÌM HIỂU VĂN HÓA ỨNG XỬ TRONG GIA ĐÌNH TRUYỀN THỐNG
CỦA NGƢỜI NHẬT VÀ NGƢỜI VIỆT
Thái Hồng Đức (*)
Trong giai đoạn toàn cầu hóa hiện nay, cơ hội gặp gỡ và giao lưu giữa các nền văn
hóa của các quốc gia ngày càng gia tăng ở các phương diện hợp tác kinh doanh, hỗ trợ
đầu tư… Việt Nam ta đã hội nhập quốc tế và trong quá trình phát triển, bên cạnh sức
mạnh nội lực, ta luôn mong muốn sự hợp tác, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế; trong đó có
Nhật Bản.
Để tiếp tục đưa mối quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Nhật Bản đi vào chiều sâu,
thiết thực và hiệu quả thì việc hiểu rõ những điểm tương đồng và khác biệt trong văn hóa
là điều hết sức cần thiết nhằm để hiểu nhau hơn và giảm thiểu những điều không mong
muốn trong sự xung đột văn hóa.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về lĩnh vực văn hóa và gia đình Nhật Bản như:
tác giả Phạm Khắc Chương với tác phẩm “Văn hóa ứng xử trong gia đình” gợi nhớ và
hướng dẫn chúng ta làm thế nào để giữ được mối quan hệ tốt giữa các thành viên trong
gia đình với nhau, gìn giữ được những giá trị văn hoá quý giá của cha ông và tiếp tục duy
trì những giá trị đó; tác giả Trần Mạnh Cát với hai tác phẩm “Gia đình Nhật Bản” và “Xu
hướng phát triển của gia đình Nhật Bản sau chiến tranh thế giới thứ II”. Tác phẩm thứ
nhất trình bày những vấn đề khái quát về xã hội, gia đình và hôn nhân Nhật Bản và tác
phẩm thứ hai thì trình bày về những vấn đề cơ bản về thực trạng gia đình Nhật Bản sau
chiến tranh thế giới thứ II và xu hướng phát triển của gia đình Nhật Bản.
Nhìn chung, trong lĩnh vực ứng xử trong gia đình truyền thống của người Nhật Bản
vẫn chưa được đào sâu tìm hiểu và nghiên cứu. Nay người viết muốn dựa trên những
nghiên cứu đi trước để làm rõ hơn nữa đời sống tinh thần của người Nhật thông qua văn
hóa ứng xử trong gia đình.
Với mục tiêu nghiên cứu: tìm hiểu những đặc điểm của văn hóa ứng xử trong gia đình
truyền thống của người Nhật và người Việt và so sánh và đối chiếu nét tương đồng và
khác biệt về văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của người Nhật và người Việt,
Trang 2
tôi mong rằng bài viết này sẽ trở thành một tài liệu quan trọng giúp những ai quan tâm
đến văn hóa Nhật Bản, đặc biệt là về văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống có thể
tìm hiểu sâu hơn, từ đó làm cho những bài viết sau này sẽ hay và phong phú hơn.
1. Ứng xử trong văn hóa
Ứng xử là có thái độ, hành động, lời nói thích hợp trong việc xử sự, là cách xử sự
trong việc cư xử hoặc là chưa biết cách xử sự. Ứng xử văn hóa là những tình huống ứng
xử theo định hướng (có) văn hóa [10].
Và văn hóa ứng xử trong gia đình có thể được hiểu là văn hóa ứng xử sao cho đúng
phép tắc đối với cha mẹ, anh chị em ruột, ông bà nội, ngoại, chú, bác, cô, cậu. Song song
đó là cách ứng xử rộng ngoài gia đình như là đối với khách đến nhà, giữa bạn bè với
nhau, với thầy cô giáo, với cộng động hàng xóm… [6].
Con người luôn sống và có mối quan hệ chặt chẽ với tự nhiên. Trong quá trình con
người ứng xử với môi trường tự nhiên thường xảy ra hai khả năng: những gì có lợi thì
con người sẽ tận dụng, còn những gì có hại thì họ sẽ ra sức ứng phó. Việc ăn uống là
thuộc lĩnh vực tận dụng môi trường tự nhiên. Còn sự ăn mặc, ở và đi lại thì lại thuộc vào
lĩnh vực ứng phó: mặc và ở là ứng phó với thời tiết, khí hậu; đi lại là ứng phó với khoảng
cách.
Để ứng phó với thời tiết, khí hậu, con người đã chủ động tận dụng các chất liệu do
môi trường tự nhiên xung quanh cung cấp để làm ra vải mặc, để dựng nhà; tận dụng vị
trí tự nhiên để đặt và xây dựng ngôi nhà sao cho có lợi nhất. Để ứng phó với khoảng
cách, con người cũng tận dụng tối đa địa hình địa vật tự nhiên để chọn cho mình những
phương tiện giao thông thuận tiện nhất.
Sự phát triển của một cộng đồng cư dân không chỉ gói gọn trong quan hệ với môi
trường tự nhiên mà còn phải mở rộng giao lưu quan hệ với các dân tộc xung quanh – đó
là môi trường xã hội. Trong lĩnh vực ứng xử với môi trường xã hội, người Việt Nam ta đã
tiếp nhận nhiều giá trị văn hóa của nhân loại. Tiếp thu văn hóa Ấn Độ theo cách của
mình, ta có được một nền văn hóa Chăm độc đáo và một nền Phật giáo Việt Nam. Tiếp
thu văn hóa Trung Quốc, ta có Nho giáo và Đạo giáo. Văn hóa phương Tây đem lại Kitô
giáo cùng những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần mới mẻ.
Trang 3
Đặc trưng nổi bật trong quá trình giao lưu văn hóa nhiều thế kỷ này là tính tổng hợp
– dung hợp – tích hợp. Tinh thần bao dung, hiếu hòa, rồi tính tổng hợp và linh hoạt cũng
chi phối một cách nhất quán cách ứng phó với môi trường xã hội trong lĩnh vực quân sự,
ngoại giao [1;226].
2. Văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Nhật Bản và ngƣời Việt
Nam
2.1. Văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Nhật Bản
Ở Nhật Bản tồn tại hai mẫu gia đình: Gia đình hạt nhân (nuclear family) hay còn gọi
là mẫu gia đình đơn giản (mẫu gia đình này ngày càng phổ biến ở Nhật Bản), và gia đình
mở rộng (extended family) [4]. Trong đó, mẫu gia đình mở rộng là mẫu gia đình truyền
thống của Nhật Bản, đây là dạng gia đình mà chủ hộ (Kacho) không những sống chung
với vợ con mà còn sống chung với cha mẹ, ông bà, đôi khi còn có cả những người thân
khác. Gia đình mở rộng thường có từ ba thế hệ trở lên.
2.2. Các tác nhân hình thành văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của
ngƣời Nhật Bản
a. Ảnh hƣởng của Nho giáo
Theo như nhiều sử sách ghi lại thì Nho giáo vào Nhật Bản khoảng cuối thế kỷ IV đến
thế kỷ VI thông qua ngã Triều Tiên. Thông qua quan hệ với Triều Tiên, Nhật Bản đã
mượn chữ Hán của Trung Quốc rồi cải chế thành văn tự riêng để sử dụng. Cùng với việc
học chữ Hán, hệ thống tư tưởng của Nho giáo cũng đương nhiên được truyền bá vào Nhật
Bản.
Những nét đặc trưng trong cách ứng xử ở xã hội Nhật Bản đều bị ảnh hưởng từ những
tư tưởng của Nho giáo và mang nặng tư tưởng Phong kiến của Phật giáo. Điều này có thể
thấy rõ nét trong cách ứng xử ở quan hệ giữa vợ chồng và con cái trong gia đình chẳng
hạn như: tư tưởng chồng chúa – vợ tôi, trọng nam khinh nữ, người phụ nữ phải chịu cảnh
sống phụ thuộc, biết vâng lời cha và chồng như thể thực hiện sự phục tùng và trung thành
tuyệt đối theo kiểu các võ sĩ Samurai. Và khi mối quan hệ vợ chồng bị rạn nứt thì họ rất
tôn trọng đời sống riêng tư của nhau, chia tay rất nhẹ nhàng lịch sự, không ồn ào vẫn
sống rất có trách nhiệm với con cái, họ không bao giờ thể hiện cảm xúc của mình ra bên
Trang 4
ngoài cho người khác biết, đó là một nét tiêu biểu trong cách ứng xử và cách giao tiếp
của người Nhật không chỉ trong gia đình mà còn ở ngoài xã hội.
b. Ảnh hƣởng của Thần đạo
Thần đạo xuất hiện từ trước Công nguyên, nhưng hệ thống tín ngưỡng tôn giáo phát
triển khá chậm, các nghi lễ được thực hiện trong hang đá hoặc những địa điểm linh
thiêng, và hầu như không có tên gọi. Những truyền thuyết bắt đầu được ghi chép lại trong
cuốn Cổ sự ký (古事記 Furukotofumi) và sau đó là Nhật Bản thư kỷ (日本書紀 Nihon
Shoki).
Thế kỷ thứ 6, Phật giáo và Nho giáo xâm nhập vào Nhật Bản, tên gọi Thần đạo được
đặt ra để phân biệt. Đầu thế kỷ thứ 9, đại sư Kōbō (弘法) hợp nhất những tư tưởng Phật
giáo và tín ngưỡng xưa để tạo ra Chân ngôn tông (真言宗). Tuy cùng tồn tại với Phật
giáo, Thần đạo gần như bị loại bỏ.
Thế kỷ 18, thời kỳ Edo (江戸時代; 1603 - 1868), Thần đạo được tách ra khỏi Phật
giáo nhờ một số người như Motoori Norinaga (本居宣長) hay Hirata Atsutane (平田篤
胤), những người này đề cao tư tưởng tự hào dân tộc và rất ghét những phong tục du
nhập từ nước ngoài vào. Tuy nhiên do tầm ảnh hưởng của Phật giáo rất lớn, những nỗ lực
để đưa Thần đạo thành quốc giáo không thành công và phải chờ đến cả thế kỷ sau.
Đến thời Nhật Hoàng Minh Trị (Meigi 1868-1912), đất nước Nhật được hiện đại hóa
theo hình mẫu phương Tây, Thần đạo được Nhật Hoàng tuyên bố là quốc đạo. Năm 1890,
Thần đạo được canh tân với nội dung chủ yếu là “trung” với Thiên Hoàng, hy sinh cả
cuộc đời vì Thiên Hoàng; đồng thời đề cao chữ “hiếu”, thờ cúng linh hồn người đã
khuất, đặc biệt là người chết vì đạo nghĩa. Sau khi Nhật bại trận vào cuối năm 1945, Thần
đạo không còn được coi là quốc đạo nữa nhưng vẫn được chính quyền đương thời coi
trọng và ăn sâu vào đời sống người dân [2].
Thần Đạo có thể xem là một tôn giáo mà của riêng Nhật Bản. Nó có sự hoà trộn nhiều
yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng Nữ Thần Mặt Trời. Chính việc Thần đạo đề cao hai
chữ “Trung” và “Hiếu”. Lấy đó làm cốt lỗi giúp cho ứng xử của con người với con
người thêm sâu sắc hơn. Đối với Thiên Hoàng thì phải “Trung”, còn đối với Ông bà –
Cha mẹ thì con cái trong gia đình phải hiếu thảo và lễ phép trong cách ứng xử.
Trang 5
c. Ảnh hƣởng của tầng lớp võ sĩ đạo – Samurai
Tinh thần võ sĩ đạo Nhật Bản luôn coi trọng và đề cao chữ “Trung”. “Trung” ở đây
mang nghĩa trung thành tuyệt đối với chủ chứ không phải là trung quân nói chung. Tính
trung thành đó bất kỳ lúc nào cũng được đề lên hàng đầu và người Nhật gọi nó là: “Trung
thành tâm - 忠誠心”, và quan hệ bề tôi với chủ được gọi là: “Quan hệ chủ tòng - 主従関
係”. Người Nhật xem trọng danh dự, khi cần bảo vệ danh dự họ có thể tự vận Seppaku
hay Hari Kiri, mổ bụng cho mọi người thấy ruột gan ngay thẳng của họ. Nhiều nhà xã hội
học đã chỉ ra cấu trúc xã hội Nhật Bản ưu tiên quan hệ hàng dọc và đơn tuyến, dựa trên
lòng trung thành với người chủ trực tiếp của mình: Vũ sĩ – Lãnh chúa đại danh – Tướng
quân – Thiên hoàng.
Tinh thần trung với chủ đó của các võ sĩ Samurai phần nào ảnh hưởng đến cấu trúc
gia đình Nhật Bản truyền thống và được khoanh định bởi các khái nhiệm về hệ thống có
nguồn từ tầng lớp Samurai. Nếu xét về thứ bậc giữ chủ - tớ thì khi ứng xử phải tuân theo
một khuôn pháp tôn kính và khiêm nhường. Tức tôn kính bề trên (chủ) và khiêm nhường
với bề dưới (tớ), và gia đình truyền thống người Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng không ít
từ tinh thần đó. Một gia đình với nếp sống đặc biệt coi trọng tôn ty và thứ bậc. Trên dưới
ứng xử với nhau như theo một khuôn phép. Đó cũng là một văn hóa ứng xử đặc trưng của
xã hội Nhật Bản nói chung và của các thành viên trong một gia đình chịu sự ảnh hưởng
của tầng lớp Samurai nói riêng.
2.3. Đặc điểm văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Nhật Bản
Về quy phạm đạo đức và đời sống tâm linh, người Nhật Bản đề cao tính cần cù, nhẫn
nại, trọng sức mạnh cộng đồng. Do cuộc sống luôn bất trắc (động đất và sống thần luôn
rình rập và xảy đến bất cứ lúc nào) nên có tính cứng rắn, tôn trọng kỷ luật, tiết kiệm, biết
lo xa và tính toán tỉ mỉ; Coi trọng bổn phận, nghĩa vụ, trọng kinh nghiệm, tuổi tác; Đề cao
vai trò của thủ lĩnh, trọng chữ tín. Đề cao Thần Đạo - một tôn giáo của riêng Nhật Bản có
sự hoà trộn nhiều yếu tố Nho, Phật trên nền tín ngưỡng Nữ Thần Mặt Trời; Ảnh hưởng
sâu sắc bởi tinh thần võ sĩ Samurai trọng danh dự, trung thành với chủ tử [9].
Với những đặc trưng trong tính cách và tinh thần như trên của người Nhật phần nào
xây dựng nên văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của họ mang sắc thái: kính
trọng người trên (ông bà, cha mẹ…), đoàn kết (các thành viên trong một gia đình luôn
Trang 6
đoàn kết trong việc giải quyết các vấn đề), có trách nhiệm (ông bà, cha mẹ có trách
nhiệm nuôi dạy con cháu, con cháu có trách nhiệm phụng dưỡng và chăm sóc ông bà,
cha mẹ), trọng chữ tín (ông bà, cha mẹ đã hứa với con cháu thì cho dù việc có khó khăn
cũng làm đúng theo lời đã hứa, và ngược lại con cháu cũng luôn giữ lời đã hứa).
2. Văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam
2.1. Sơ lƣợc về gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam
Người Việt ta vẫn thường quen gọi gia đình là “nhà”. Khi nói đến tính riêng biệt của
mỗi gia đình ở những lĩnh vực khác nhau tục ngữ thường có câu: “mỗi cây mỗi hoa, mỗi
nhà mỗi cảnh”. “Nhà” theo nghĩa hẹp là gia đình gồm nhiều thế hệ sinh sống hay ít hơn
còn theo nghĩa rộng “nhà” là gia tộc gồm nhiều thế hệ từ xưa đến nay là tổ tiên của mình.
Gia đình Việt Nam truyền thống được các nhà nghiên cứu cho là loại gia đình chứa
nhiều yếu tố dường như bất biến, ít đổi thay, ra đời từ nôi văn hóa bản địa, được bảo lưu
và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Như vậy, gia đình Việt Nam truyền thống là sản
phẩm của nền văn minh lúa nước và tồn tại ở địa bàn nông thôn. Cố nhiên, điều này
không có nghĩa là ở các đô thị không tồn tại kiểu gia đình truyền thống. Về vấn đề này
tác giả Đỗ Thái Đồng có viết: "Gia đình truyền thống chắc hẳn là gia đình ở nông thôn,
là gia đình ở những xã hội nông nghiệp á Đông đã tồn tại lâu đời và gần như bất biến
trên nhiều khía cạnh. Như vậy, đó cũng là kiểu gia đình nông nghiệp, là một định chế gắn
liền với nền nông nghiệp cổ truyền".
Trong dân gian, gia đình truyền thống được coi là đại gia đình mà các thành viên liên
kết với nhau bằng chuỗi quan hệ huyết thống. Trong gia đình này có thể cùng chung sống
từ 3 thế hệ trở lên: ông bà – cha mẹ – con cái mà người ta quen gọi là "tam, tứ, ngũ đại
đồng đường". Kiểu gia đình này khá phổ biến và tập trung nhiều nhất ở nông thôn Bắc
Bộ. Nền kinh tế tiểu nông là cơ sở phát sinh và tồn tại của nó. Về mặt tâm lý, người Việt
Nam luôn có xu hướng quần tụ con cái xung quanh mình. Bởi thế, các đại gia đình cùng
sống dưới một mái nhà hoặc vài nhà kế nhau cũng là hình thức tổ chức gia đình phổ biến
ở đô thị. Vào những năm 60 trở về trước ở Hà Nội kiểu đại gia này vẫn còn thường thấy.
Gia đình truyền thống có các ưu điểm như có sự gắn bó cao về tình cảm theo huyết thống,
bảo lưu được các truyền thống văn hóa, tập tục, nghi lễ, phát huy tốt các gia phong, gia lễ,
Trang 7
gia đạo. Các thành viên trong gia đình có điều kiện giúp đỡ nhau về vật chất và tinh thần,
chăm sóc người già và giáo dưỡng thế hệ trẻ. Đó là những giá trị rất căn bản của văn hóa
gia đình mà chúng ta cần kế thừa và phát huy. Tuy nhiên, nhược điểm của loại gia đình
này là ở chỗ trong khi giữ gìn các truyền thống tốt đẹp thì cũng bảo trì luôn cả những tập
tục, tập quán lạc hậu, lỗi thời. Bên cạnh đó, sự khác biệt về tuổi tác, lối sống, thói quen
cũng đưa đến một hệ quả khó tránh khỏi là mâu thuẫn giữa các thế hệ: giữa ông bà – các
cháu, giữa mẹ chồng – nàng dâu… Bên cạnh việc duy trì được tinh thần cộng đồng, gia
đình truyền thống phần nào cũng hạn chế sự phát triển tự do của mỗi cá nhân. Trong điều
kiện của xã hội hiện đại "1 ngày bằng 20 năm" loại gia đình này có vẻ thiếu cơ động và
chậm thích ứng. Điều này giải thích tại sao số lượng gia đình truyền thống kiểu đại gia
đình giảm đáng kể và không còn là khuôn mẫu của gia đình ngày nay [5].
2.2. Cách ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam
a. Ảnh hƣởng của nền văn minh lúa nƣớc
Việt Nam được xem như một trong những cái nôi đầu tiên của lịch sử văn minh loài
người. Và nền văn minh sông Hồng lấy nông nghiệp trồng lúa nước, phương thức sản
xuất Châu Á và tổ chức xóm làng làm cơ sở. Gia đình đã gắn bó chặt chẽ với làng nước
trong tư duy và trong hành dộng của người Việt cổ.
Người Việt Nam từ xưa đã có ý thức quý trọng, bảo vệ ruộng đất và các gia đình
thường nhắc nhở nhau là "tấc đất, tấc vàng". Ý thức về việc bảo vệ ruộng đất cũng là cơ
sở tạo ra các giá trị tôn trọng của công, tôn trọng các thành quả lao động, quá trình sản
xuất nông nghiệp. Nó cũng là tiền đề của lòng yêu gia đình, làng xóm, quê hương và cao
hơn là tình yêu đất nước.
b. Ảnh hƣởng của tính dân chủ làng xã
Trong truyền thống cộng đồng làng xã Việt Nam, ít thấy có quan hệ trực tiếp
giữa cá nhân với cộng đồng lớn mà chỉ có quan hệ giữa cá nhân và gia đình, gia tộc.
Gia tộc có quan hệ với làng, làng có trách nhiệm với nước. Vì vậy, đối với cộng
đồng lớn thì vai trò của cá nhân bị hòa tan. Để duy trì được quan hệ giữa các cộng
đồng thì cá nhân phải hòa nhập vào tập thể và ngược lại cơ chế quản lí làng xã phải
Trang 8
tổ chức sao cho đảm bảo được quyền lợi bình đẳng giữa các thành viên. Biểu hiện
rõ nét nhất là quyền tham gia bầu chọn người đại diện tham gia vào bộ máy quản lí
của làng xã. Dân làng được hỏi ý kiến trước những quyết định hệ trọng. Do tính
cộng đồng cao nên nhiều học giả cho rằng cộng đồng làng xã Việt Nam đã làm nảy
sinh truyền thống dân chủ làng xã.
Tính dân chủ làng xã phần nào ảnh hưởng đến ứng xử trong gia đình truyền
thống Việt Nam mang tính bình đẳng dù rằng sự tôn trọng tôn ti vẫn được gìn giữ.
ng bà, cha mẹ luôn lắng nghe con cháu và con cháu cũng có thể nói lên ý kiến
của bản thân mình để đóng góp vào việc xây dựng một gia đình bình đẳng.
c. Ảnh hƣởng của Nho gi o
Năm 111 TCN, nhà Tây Hán biến Bắc Bộ Việt Nam thành quận Giao Chỉ chính thức
từ đây, người Việt Nam đã bắt đầu tiếp xúc với Nho giáo. Quan lại Trung Quốc dùng
Nho giáo làm hệ tư tưởng xã hội chính nhằm phục vụ mục đích cai trị và đồng hóa. Cùng
du nhập vào Việt Nam thời bấy giờ còn có Phật giáo và Đạo giáo, dân gian Việt Nam lại
tin hơn vào Phật và Đạo, sử dụng hai hệ tư tưởng này để chống lại Nho giáo. Dù vậy,
Nho giáo đã ít nhiều được giới trí thức và quan lại người Việt tiếp nhận, nghĩa là người
Việt Nam ít nhiều đã chịu ảnh hưởng với hệ tư tưởng Nho giáo.
Ưu điểm của Nho giáo không chỉ hướng mọi người vào việc học hành, tu dưỡng đạo
đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín” làm cho xã hội ngày càng phát triển
văn minh hơn, mà còn góp phần xây dựng mối quan hệ gia đình bền chặt hơn, có tôn ty
hơn nhờ tuân theo Ngũ Luân “Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè”.
Chính vì thế, văn hóa ứng xử truyền thống của người Việt Nam là coi trọng thứ bậc
nhưng lại có tính thân thiết như một gia đình. Xét cho cùng mối quan hệ “Vua – tôi”
cũng nhấn mạnh mối quan hệ của gia đình: “Vua” còn được gọi là “Thiên tử” và “Tôi”
là “Thần tử”, tức mối quan hệ cũng là “Cha – con”.
Nho giáo đã ảnh hưởng và hình thành văn hóa ứng xử trong gia đình Việt Nam truyền
thống với nét nổi bậc ở sự gắn kết một cách bền chặt bởi tình nghĩa và trách nhiệm giữa
các thành viên trong một gia đình. Ông bà thì theo lễ giáo phong kiến thì người cao tuổi
nhất bao giờ cũng được tôn vinh. Thường thì cụ ông có tiếng nói quan trọng hơn để chỉ
Trang 9
đạo gia đình, phát triển kinh tế và nuôi dạy con cháu; Cha mẹ thì yêu thương con cái
(người mẹ thì thể hiện tình cảm và sự yêu thương, nhưng người cha thì lại thể hiện sự
nghiêm khắc và răn đe đối với con cái); Vợ - chồng thì phải chung thuỷ và hoà thuận;
Con cháu thì phải hiếu thảo với ông bà và cha mẹ; Anh chị em thì: “Như thể tay chân,
rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần" và "quyền huynh thế phụ".
2.3. Đặc điểm văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống của ngƣời Việt Nam
Trong quy phạm đạo đức người Việt trọng tình hơn trọng lý, coi trọng gia đình và
quan hệ cộng đồng, trọng kinh nghiệm và tuổi tác [9]. Văn hóa ứng xử trong gia đình
truyền thống Việt Nam lấy “đạo hiếu” làm trọng. Vì thế cho nên trong gia đình truyền thống
Việt Nam, con cái đối với cha mẹ luôn kính trọng, vâng lời, tu dưỡng đạo đức, làm nên sự
nghiệp để báo hiếu, đền đáp công ơn dưỡng dục, sinh thành. Việc phụng dưỡng cha mẹ là đạo
lý mà con cái phải thực hiện thường xuyên trong suốt cuộc đời. Về phía cha mẹ có quyền
quyết định mọi việc đối với con cái, đồng thời phải có trách nhiệm, nghĩa vụ nuôi dưỡng, bảo
bọc, dạy bảo các con nên người với niềm mong ước và sự hãnh diện khi “Con hơn cha là nhà
có phúc”. Mối quan hệ cha mẹ - con cái luôn thấm nhuần trong tâm thức mỗi người Việt Nam
qua tục ngữ - ca dao người xưa để lại:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
3. Điểm tƣơng đồng và khác biệt về văn hóa ứng xử trong gia đình truyền
thống của ngƣời Nhật Bản và ngƣời Việt Nam
3.1. Điểm tƣơng đồng
Trước hết văn hóa truyền thống của cả hai dân tộc đều hình thành trên nền văn minh
lúa nước nên có những đặc trưng tương đồng với nhau, đó là: tôn thờ các vị thần tự
nhiên, trọng gia đình, nhận thức về bản chất vũ trụ (hình thành trên nền văn minh nông
nghiệp lâu đời của hai nước. Trước khi khoa học thiên văn hình thành, các dân tộc trên
thế giới đều lấy bản thân mình làm trung tâm, thăm dò tìm kiếm bí mật của vũ trụ trong
quan hệ hiện tượng thế giới tự nhiên và con người)… Với nền văn minh lúa nước đã hình
Trang 10
thành tính cần cù (thức khuya dậy sớm canh tác); tính đoàn kết (cả gia đình đoàn kết
cùng trồng và thu hoạch vụ mùa, tạo lương thực cho chính gia đình mình và xã hội)…
Trong đó, tính “đoàn kết” là đặc trưng của “nhà nông”, nó thể hiện rõ trong mới quan hệ
ứng xử của các thành viên trong gia đình truyền thống của người Nhật Bản và người Việt
Nam. Việt Nam ta có câu: “Anh em như thể tay chân. Rách lành đùm bọc khó khăn đỡ
đần”, “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”.
Cùng thuộc khu vực châu Á, cả hai quốc gia Nhật Bản và Việt Nam đều ảnh hưởng
bởi nền văn hóa phương Đông mạnh mẽ với nét nổi bật trong cách ứng xử là sự mềm
dẻo, trọng tình thân và đây được coi là chuẩn mực trong quan hệ gia đình và xã hội của
các nước phương Đông.
Ở nước ta, dưới các triều đại phong kiến, văn hóa ứng xử chịu ảnh hưởng của Nho
giáo. Nho giáo là học thuyết luân lý nhập thế rất sâu, tạo nên những áp lực tinh thần, tâm
lý, niềm tin của con người trong hàng nghìn năm. Đối với vua là “trung quân ái quốc”;
đối với cha mẹ là hiếu đễ; thầy giáo là đối tượng được tôn vinh ở vị trí thứ hai sau vua và
trước cha (quân, sư, phụ). Nho giáo coi lễ là hạt nhân của tư tưởng thống trị, là danh phận
của đẳng cấp phong kiến.
Bên cạnh đó, cũng do ảnh hưởng của Nho giáo nên quy phạm đạo đức chuẩn mực
được cho là sự tôn trọng khuôn phép, tôn ti trật tự, lễ độ, đề cao thi cử. Nhìn chung, Nho
giáo ảnh hưởng mạnh và chi phối cách tổ chức nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức gia
đình, giáo dục thi cử ở Nhật Bản và Việt Nam cho nên cũng ảnh hưởng và chi phối cả
chính trị, học thuật, tác động đến luân lý, đạo đức xã hội. Chẳng hạn, chế độ gia tộc ở
Nhật Bản và Việt Nam mang đậm nét của Nho giáo Trung Hoa. Ứng xử trong gia đình
trọng lễ, kính trên nhường dưới, lòng hiếu trung, có trách nhiệm…
3.2. Điểm khác biệt
Quá trình du nhập và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam và Nhật Bản có những nét
gần giống nhau. Điều ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng quan trọng nhất là do nhu cầu
trong nước và ảnh hưởng của Trung Quốc. Nho giáo được du nhập vào Việt Nam và Nhật
Bản đều vào khoảng những thế kỷ sau công nguyên. Ở Việt Nam khoảng thế kỷ thứ ba
với vai trò của Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp. Ở Nhật Bản thì vào khoảng thế kỷ thứ năm với vai
Trang 11
trò của hai nhóm sử Đông Văn, Tây Văn, nhất là của học giả Vương Nhân và các “Ngũ
kinh bác sĩ” sau ông. Tuy nhiên Việt Nam và Nhật Bản có những điều kiện lịch sử, xã hội
khác nhau nên Nho giáo ở hai nước cũng có nhiều điểm rất khác.
Ở Việt Nam, mọi người học hành, tu dưỡng đạo đức theo Ngũ Thường “Nhân, Lễ,
Nghĩa, Trí, Tín” và tuân theo Ngũ Luân “Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn
– bè” và phần nào làm cho ứng xử trong gia đình truyền thống của người Việt trọng mối
quan hệ gia đình. Do tình hình du nhập Nho giáo vào Nhật Bản có phần khác với Việt
Nam: Nho giáo Nhật Bản có thể nói theo rất sát, gần như cập nhật thường xuyên tình
hình Nho giáo Trung Quốc. Người Nhật không áp dụng chế độ khoa cử, họ sử dụng chế
độ thế tập: quý tộc cung đình, lãnh chúa địa phương, võ sĩ truyền đời…Chủ trương “Cấm
thay đổi thành phần” thời Mạc phủ Tokugawa/ Đức Xuyên là sự thể hiện chặt chẽ nhất
của tinh thần ấy. Ở các phiên khác nhau người ta có thể lựa chọn trí thức để phục vụ cho
mình từ nhiều nguồn học vấn khác nhau: có phiên sử dụng trí thức Chu Tử học, có phiên
lại dùng phái Cổ học hay Dương Minh học [8]. Chính vì vậy mà văn hóa gia đình người
Nhật có phần khác với người Việt Nam tuân theo Ngũ Thường và Ngũ Luân.
Chế độ Phong kiến chấm dứt vào năm 1945 tại Việt Nam nên sự ảnh hưởng của nó không
lớn so với Nhật Bản. Đến tận ngày nay tại Nhật Bản còn tồn tại Thiên Hoàng và Thiên Hoàng
luôn được coi trọng và tiếng nói của Thiên Hoàng có sức trọng trong nhiều vấn đề của quốc
gia. Có thể xem Nhật Bản theo chế độ quân chủ, còn Việt Nam theo chế độ dân chủ. Điều này
cũng ảnh hưởng không ít đến cách ứng xử trong gia đình truyền thống của hai nước. Gia đình
truyền thống Việt Nam trọng tính dân chủ và bình đẳng (luôn lấy ý kiến của các thành viên
trong gia đình rồi cùng quyết định vấn đề), còn gia đình truyền thống của người Nhật lại trọng
bề trên (tiếng nói con trai trưởng, chồng luôn có sức trọng trong mỗi gia đình, chiếm yếu tố
quyết định mọi vấn đề).
Thêm vào đó, người Nhật Bản luôn trên tinh thần Samurai với tính cách cứng rắn, trầm và
trọng danh dự (các chiến sĩ Samurai có thể mổ bụng (Seppuku) để minh chứng sự trong sạch
và một lòng). Vì vậy, người Nhật luôn xem trọng và căng nhắc trong từng câu nói và ít thổ lộ
tình cảm ra ngoài. Mối giao kết với hàng xóm và bạn bè cũng phần nào lỏng lẽo. Ngay cả con
cái trong gia đình lúc nào cũng phải tôn kính và giữ khoảng cách với các bậc ông bà, cha mẹ.
Về Người Việt Nam do nền văn minh lúa nước và tính dân chủ làng xã nên tính cách lại trọng
Trang 12
tình và dễ hòa đồng cởi mở. Điều đó cũng dễ thấy qua cách ứng xử của các thành viên trong
gia đình truyền thống của người Việt luôn liên thông kết giao thân mật với hàng xóm, bạn bè.
Người Việt có câu “bà con xa không bằng láng giềng gần”. Trong cách ứng xử của con cái với
ông bà, cha mẹ và ngược lại luôn bộc lộ rõ sự thân mật và tình cảm qua cả lời nói và cử chỉ.
KẾT LUẬN
Trên con đường phát triển giao lưu kinh tế thương mại, việc hiểu biết văn hóa của các
nước trong khu vực và xa hơn là một điều vô cùng quan trọng. Nó không chỉ giúp ta
tránh khỏi các va chạm văn hóa không mong muốn mà còn giúp ta rút ngắn khoảng cách
trở nên thân thiết hơn với các đối tác nước ngoài.
Qua bài nghiên cứu này, phần nào giúp tác giả có cơ hội tìm hiểu sâu thêm về văn hóa
của chính con người Việt Nam ta qua đối tượng là gia đình truyền thống và mở rộng vốn
hiểu biết về văn hóa Nhật Bản nói chung, về văn hóa ứng xử trong gia đình truyền thống
người Nhật nói riêng. Tác giả mong muốn đây sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho những
ai có nhu cầu tìm hiểu về văn hóa Nhật Bản cũng như về văn hóa Việt Nam.
Những nét đẹp đặc trưng về văn hóa ứng xử của người Nhật và người Việt trong
phạm vi gia đình truyền thống đã được khẳng định. Nhưng theo thời gian, giữa một xã
hội phát triển tất bậc, thời gian để các thành viên trong gia đình gặp gỡ và dùng một bữa
cơm chung ngày càng ít dần thì những nét đẹp đó có được người Nhật và người Việt gìn
giữ những tinh hoa của giá trị gia đình truyền thống và bổ sung thêm những giá trị tích
cực của thời đại mới hay đã thay đổi theo những chiều hướng khác. Đó cũng là hướng mà
tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm hiểu về những điểm tương đồng và khác biệt về ứng
xử trong gia đình hiện đại của người Nhật và người Việt.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB Giáo dục.
2. Phạm Khắc Chương và Nguyễn Thị Hằng (2011), Văn hóa ứng xử trong gia đình,
NXB Thanh Niên.
3. Sato Shinji - 佐藤慎司 (2007), Nhìn nhận lại quan điểm giáo dục về cách giao
tiếp của người Nhật Bản, Nxb Kuroshio.
Trang 13
4. Kokichi Shoji (1990), Japanese Society, University of Tokio Press.
5. Nguyễn Thị Thường (1999), Gia đình Việt Nam hiện nay: Truyền thống hay hiện
đại?, Tạp chí Lý luận chính trị số 253
6. http://www.thuvienvinhlong.org.vn/Present/View2.asp?ID=289&ID_=238
8&Page=1
7. http://btgcp.gov.vn/Plus.aspx/vi/News/38/0/243/0/2553/So_luoc_tim_hieu
_ve_Than_dao_o_Nhat_Ban
8. http://tgpsaigon.net/baiviet-tintuc/20110325/9525
9. http://www.cuocsongviet.com.vn/index.asp?act=detail&mabv=1558&/
Anh-huong-cua-van-hoa-phuong-Dong-trong-nep-song-nguoi-Viet.csv
10. http://www.svhttdl.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/giao-duc-doi-song
-giadinh
(*) trợ giảng ngành Nhật Bản học, Khoa Đông Phương học, Trường Đại học Lạc
Hồng.
XÁC NHẬN CỦA LÃNH ĐẠO KHOA
NGƢỜI THỰC HIỆN
PGS.TS. TRẦN THỊ THU LƢƠNG
THÁI HỒNG ĐỨC
- Xem thêm -