Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tìm hiểu sự biến động lãi suất tín dụng thông qua cơ chế điều hành lãi suất ở vi...

Tài liệu Tìm hiểu sự biến động lãi suất tín dụng thông qua cơ chế điều hành lãi suất ở việt nam trong thời gian qua

.DOC
29
233
139

Mô tả:

Đề tài: Tìm hiểu sự biến động lãi suất tín dụng thông qua cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua. Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường tồn tại nhiều phạm trù kinh tế tài chính, trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong những phạm trù quan trọng. Như chúng ta đã biết, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ trong nền kinh tế. Diễn biến của nó được đưa tin hàng ngày trên các phương tiện thông tin đại chúng. Sự dao động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết định của cá nhân, doanh nghiệp cũng như hoạt động của các tổ chức tín dụng và toàn bộ nền kinh tế. Từ việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản về tín dụng và lãi suất, thấy rõ tầm quan trọng của lãi suất, từ đó vận dụng vào thực tiễn ở Việt Nam cho thấy lãi suất biến động và được điều hành dưới hình thức các chính sách lãi suất trong từng thời kỳ. Chính sách lãi suất là một công cụ quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiếm chế lạm phát, lãi suất được sử dụng linh hoạt sẽ có tác động tích cực đến nền kinh tế. Ngược lại lãi suất được giữ cố định có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, nhưng sang thời kỳ khác, có thể nó trở thành vật cản cho sự phát triển kinh tế. Với tầm quan trọng như vậy của sự biến động lãi suất, chúng tôi đã lựa chọn phân tích đề tài: “Tìm hiểu sự biến động lãi suất tín dụng thông qua cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua” 0 Phần 1. Cơ sở lí luận về lãi suất tín dụng 1.1 Những vấn đề chung về tín dụng 1.1.1 Sự ra đời và phát triển của tín dụng. Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện của tiền. Quan hệ tín dụng đầu tiên và thô sơ nhất phát sinh ngay từ khi chế độ cộng sản nguyên thủy tan rã là tín dụng nặng lãi. Khi đó xã hội bắt đầu phân chia giai cấp, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và có hiện tượng phân hóa giàu nghèo. Những người đứng đầu các thị tộc, bộ lạc chiếm được nhiều tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng. Trong khi đó, đại bộ phận các gia đình nông nô không có hoặc có rất ít tư liệu trên. Để duy trì cuộc sống bình thường trong xã hội, tất yếu phải diễn ra quá trình điều hòa sản phẩm từ nơi thừa đến nơi thiếu, từ kẻ giàu sang người nghèo. Quá trình này được thực hiện dưới hình thức vay mượn. Do sản phẩm dư thừa dùng để cho vay ít, mà số người cần vay thì nhiều, cho nên người cho vay thu lãi rất cao. Vì vậy, quan hệ tín dụng này được gọi là “tín dụng nặng lãi”. Tín dụng nặng lãi phát triển và trở thành hình thức cho vay phổ biến trong chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hình thành thì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa hàng hóa lớn cũng được mở rộng và phát triển. Lúc này, tín dụng nặng lãi không còn thích hợp với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa. Giai cấp tư bản đã tự tạo lập cho mình một hình thức tín dụng mới – tín dụng tư bản chủ nghĩa. Tín dụng tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển từng bước đáp ứng nhu cầu về vốn của các nhà tư bản, chủ thể kinh tế, nhà nước… với mức lãi suất thấp hơn. Hơn nữa nó biểu hiện sự phân chia quyền lợi kinh tế một các bình đẳng giữa các bên tham gia vào quá trình thực hiện quan hệ tín dụng này. Ngày nay, do sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế, đòi hỏi các quan hệ và các hình thức tín dụng trong kinh tế thị trường cũng phát triển đa dạng và phong phú phù hợp với yêu cầu nền kinh tế quốc dân và hội nhập kinh tế quốc tế. Lịch sử phát triển đã cho thấy tín dụng là một phạm trù kinh tế và là sản phẩm của nền kinh tế hàng hóa. Nhưng chính nó là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa phát triển. 1 1.1.2 Định nghĩa tín dụng + Định nghĩa - Theo nghĩa hẹp: Tín dụng là quan hệ vay mượn giữa người đi vay và người cho vay về một lượng giá trị nhất định dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật. - Theo nghĩa rộng: Tín dụng là khâu của hệ thống tài chính, là hệ thống những quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình chuyển quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định từ chủ thể này sang chủ thể khác dựa trên nguyên tắc hoàn trả. + Một số đinh nghĩa khác - Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (người cho vay) chu cấp tiền hay hàng hóa dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (người đi vay) - Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng một lượng giá trị dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. - Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định, theo thỏa thuận bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 1.1.3 Đặc điểm của tín dụng - Tín dụng mang tính chất hoàn trả. - Trong quan hệ tín dụng có sự tách rời giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Thực tế, nó chỉ thay đổi quyền sử dụng vốn tín dụng chứ không thay đổi quyền sở hữu vốn tín dụng. Quyền sở hữu nguồn tài chính vẫn thuộc về người cho vay và quyền sử dụng thuộc về người đi vay. - Lợi tức tín dụng là loại giá cả đặc biệt, thông thường, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, lợi tức tín dụng là biểu hiện giá trị sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định. 2 - Thời hạn tín dụng được xác định do thỏa thuận giữa người cho vay và người đi vay. Người sở hữu vốn được nhận một phần thu nhập dưới hình thức lợi tức. 1.1.4 Phân loại tín dụng a. Căn cứ vào đối tượng cấp tín dụng + Tín dụng hàng hoá: Đối tượng là hàng hoá, thể hiện qua quan hệ mua bán chịu hàng hoá (mua nợ) + Tín dụng tiền tệ b. Căn cứ vào chủ thể cấp tín dụng + Tín dụng thương mại ( Tín dụng hàng hoá): là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các doanh nghiệp, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu. + Tín dụng ngân hàng: Là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các chủ thể trong kinh tế (các doanh nghiệp, các cá nhân...) + Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng giữa Nhà nước với các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế. + Tín dụng thuê mua: là một hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác + Tín dụng các tổ chức tài chính quản tế: là mối quan hệ tín dụng giữa các Nhà nước, giữa các cơ quan của Nhà nước với nhau, hoặc giữa các chủ thể của một nước với các chủ thể của nước khác và với các tổ chức quốc tế khi cho vay và trả nợ tiền vay theo những nguyên tắc nhất định. c. Căn cứ vào thời gian của tín dụng + Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn không quá 12 tháng, thường được dùng để cho vay bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu thanh toán cho sinh hoạt cá nhân. + Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 12 tháng đến 60 tháng, dùng để cho vay vốn mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình quy mô nhỏ của các doanh nghiệp và cho vay xây dựng nhà ở hoặc mua sắm hàng tiêu dùng có giá trị lớn của cá nhân. + Tín dụng dài han: Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng, được sử dụng để cho vay dự án đầu tư xây dựng mới, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. d. Căn cứ vào phạm vi phát sinh của các quan hệ tín dụng 3 + Tín dụng trong nước: Tất cả các quan hệ tín dụng phát sinh trong phạm vi lãnh thổ quốc gia như tín dụng của nhà nước, ngân hàng, tổ chức kinh doanh, cá nhân… + Tín dụng quốc tế: Là quan hệ tín dụng phát sinh giữa các quốc gia với nhau hoặc giữa một quốc gia với một tổ chức tín dụng quốc tế. e. Căn cứ vào cơ chế đảm bảo của tín dụng + Tín dụng có đảm bảo: Là loại tín dụng được đảm bảo bằng các loại tài sản của khách hàng, bên bảo lãnh được hình thành từ vốn vay. + Tín dụng không có đảm bảo: Dựa trên quan hệ và độ tin tưởng, được đảm bảo dưới hình thức tín chấp, cho vay theo chỉ định của Chính phủ và hộ nông dân vay vốn được bảo lãnh của các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương. f. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay + Tín dụng sản xuất: Là loại tín dụng cung cấp cho các doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác để tiến hành sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. + Tín dụng tiêu dùng: Là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng. 1.1.5 Vai trò của tín dụng a. Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Nhờ nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh không những đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh bình thường mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đảm bảo sự phát triển liên tục của sản xuất và lưu thông hàng hóa. Trong quá trình hoạt động của các chủ thể kinh tế, tín dụng đã góp phần đẩy nhanh quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, tạo điều kiện để duy trì mối liên hệ giữa sản xuất, lưu thông hàng hóa và tiêu dùng xã hội. Chính vì vậy, tín dụng đã làm cho lưu thông hàng hoá được mở rộng. Như vậy, tín dụng đã góp phần thúc đẩy sản xuất và làm lưu thông hàng hóa phát triển nhanh chóng, đó là điều không thể phủ nhận. b. Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước. 4 Nhà nước thường xuyên sử dụng tín dụng làm phương tiện cân đối thu chi ngân sách nhà nước, góp phần đảm bảo các nguồn lực tài chính để thực thi các chính sách kinh tế - xã hội. Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện và lãi suất tín dụng, nhà nước có thể thay đổi được quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng. Nhờ đó mà có thể thúc đẩy hoặc hạn chế sự phát triển của một số ngành phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của Nhà nước. Nhà nước sử dụng tín dụng để điều tiết lưu thông tiền tệ, đảm bảo sự cân đối tiền hàng, ổn định giá cả hàng hóa. Như vậy, tín dụng vừa là nội dung, vừa là công cụ để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. c. Tín dụng góp phần quan trọng vào việc làm giảm chi phí sản xuất và lưu thông. Thông qua hoạt động tín dụng, vốn trong nền kinh tế được luân chuyển nhanh, tức là làm tăng nhanh tốc độ lưu thông tiền tệ. Từ đó giảm khối lượng phát hành vào lưu thông, đồng nghĩa với việc giảm chi phí lưu thông tiền tệ. Giảm chi phí sản xuất, lưu thông của chính doanh nghiệp nhận vốn vay. Nguyên tắc của tín dụng buộc trách nhiệm hoàn trả, thúc đẩy người vay vốn sử dụng vốn tiết kiệm và có hiệu quả hơn. Bản thân chủ thể các quan hệ tín dụng phải tính toán cụ thể để hoạt động tín dụng đem lại lợi ích cao nhất và an toàn nhất. Động lực canh tranh trong nền kinh tế thị trường thúc đẩy họ giảm đến mức thấp nhất chi phí kinh doanh, kể cả chi phí xử lý rủi ro. d. Tín dụng là công cụ thực hiện chính sách xã hội và nâng cao đời sống nhân dân. Thông qua việc cho vay ưu đãi đối với các hộ nghèo, tổ chức kinh tế - xã hội, làm cho họ được đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn cho sản xuất và tiêu dùng. Các hộ nông dân, cá nhân sử dụng tín dụng như một trong các phương tiện để cải thiện và nâng cao mức sống của mình. Thông qua việc vay vốn để đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao lợi nhuận và phân chia tỷ lệ giữa tích lũy và tiêu dùng hợp lý. 1.2 Lãi suất tín dụng 1.2.1 Khái niệm lãi suất tín dụng 5 Lợi tức tín dụng là thu nhập mà người cho vay nhận được từ người đi vay về việc sử dụng lượng tiền vay trong một thời gian nhất định. Như vậy thực chất của lợi tức tín dụng là giá cả hàng hóa cho vay. Lãi suất tín dụng là sự cụ thể hoá của lợi tức tín dụng, nó được biểu hiện bằng tỷ lệ giữa tổng số lợi tức thu được với tổng số vốn đã cho vay trong một thời gian nhất định. 1.2.2 Các loại lãi suất tín dụng a. Phân loại theo nghiệp vụ tín dụng + Lãi suất huy động: Có thời gian và không có thời hạn. Là lãi suất ngân hàng trả cho người gửi ( lãi suất có thời hạn > không có thời hạn) + Lãi suất cho vay: Là mức lãi suất người cho vay phải trả cho ngân hàng cho việc sử dụng vốn vay của ngân hàng b. Phân loại theo giá trị thực + Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất mà người cho vay được hưởng khi không tính đến sự biến động của giá trị tiền tệ + Lãi suất thực tế: Là mức lãi suất mà người cho vay được hưởng sau khi loại trừ sự biến động của giá trị tiền tệ (VN: lâm vào lãi suất thực âm) + Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa – Tỷ lệ lam phát c. Phân loại theo tiêu thức quản lý vĩ mô của nhà nước + Lãi suất trần: cao nhất quy định với việc cho vay của các ngân hàng + Lãi suất sàn: Thấp nhất quy định với mức lãi suất huy động + Lãi suất cơ bản: NHTW đưa ra để định hướng sự thay đổi của mức lãi suất 1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất tín dụng a. Quan hệ cung cầu về vốn trên thị trường: Đường cung tiền biểu thị NHTW muốn giữ cung tiền tệ ổn định. Khi NHTW muốn kiềm chế lạm phát sẽ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ lãi suất. LS tăng, mức đầu tư giảm, mức cầu tiền tệ giảm các nhà doanh nghiệp và các gia đình sẽ giảm lượng tiền gửi vào tài khoản của họ. 6 Ngược lại, khi NHTW lo sắp có nguy cơ suy thoái, sẽ tăng mức cung cầu tiền tệ bằng việc bơm tiền vào lưu thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ. LS có xu hướng giảm xuống. b. Tỷ lệ lạm phát Lạm phát tăng, không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy mô về cầu quỹ cho vay. Bởi với LS danh nghĩa cho trước khi lạm phát dự tính tăng lên chi phí thực của việc vay tiền giảm xuống kích thích người ta đi vay dẫn đến LS tăng c. Chính sách vĩ mô của nhà nước - Chính sách tài chính (gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khoá): Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp đồng thời chính phủ giảm thuế, tăng tổng sản phẩm, tăng lượng cầu tiền tệ, LS tăng. Ngoài ra thuế còn các tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập của đầu tư mới, tăng đầu tư, tăng cầu tiền tệ, LS tăng. - Chính sách tiền tệ: NHTW thực hiện chính sách thị trường mở, điều hòa cung - cầu chứng khoán có giá, thông qua các NHTM tác động vào việc cung ứng tiền tệ, cung ứng tín dụng. NHTW tăng (giảm) mức dự trữ bắt buộc ở các NHTM. - Chính sách thu nhập (chính sách về giá cả, tiền lương): Nếu giá giảm (cung tiền tệ không thay đổi), giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế tăng. Điều này cũng giống như ảnh hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức giá được giữ cố định, LS tăng và ngược lại. Khi tiền lương tăng, chi phí sản xuất tăng, lợi nhuận giảm, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, LS giảm. - Chính sách tỷ giá: Tỷ giá ngoại tệ tăng, tăng giá hàng nhập khẩu, tăng chi phí đầu vào của các mặt hàng nhập khẩu, giá hàng hoá trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu ngoại tệ tăng, cầu tiền tệ giảm, LS giảm. Mặt khác khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, LS giảm. 7 d. Rủi ro, kì hạn lãi suất Rủi ro, trong quá trình cho vay và đi vay, khả năng thu hồi nợ rủi ro cao =>Lãi suất cao, rủi ro thấp => Lãi suất thấp Khoản vay trong kì hạn càng dài => Lãi suất càng cao e. Một số nhân tố khác Mức độ phát triên của thị trường tài chính Mức độ cạnh tranh trong hoạt động cung cấp dịch vụ tín dụng Tình hình biến động, khủng hoảng tài chính 8 Phần 2. Thực trạng về sự biến động lãi suất tín dụng ở Việt Nam 2.1 Cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian qua 2.1.1 Lãi suất ở thời kỳ thực thi cơ chế quản lý nền kinh tế theo phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung (trước năm 1988) Đặc trưng cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa. 2.1.2 Lãi suất thời kỳ nền kinh tế bắt đầu chuyển sang nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước (từ năm 1988 đến 2006) Nội dung cơ bản của Nghị định 53/HĐBT chủ yếu: Xóa hẳn mô hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng, quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng trong nền kinh tế. Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như sau: a. Cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định (1989 - 5/1992): Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là: Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở 9 các doanh nghiệp của các thành phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) can thiệp ở mức độ cao và trực tiếp vào lãi suất thông qua ấn định các mức lãi suất tiền gửi (LSTG) và lãi suất cho vay (LSCV). Cơ chế lãi suất âm và mang nặng tính chất bao cấp được duy trì suốt thời kỳ này với: - LSCV đối với doanh nghiệp nhà nước < LSCV đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh; - Lãi suất danh nghĩa < tỷ lệ lạm phát; - LSCV ngắn hạn > LSCV dài hạn; - LSTG tiết kiệm > LSTG của các tổ chức kinh tế. Tình trạng này làm cho lãi suất không thực hiện được chức năng vốn có của nó; lãi suất không còn là đòn bẩy kích thích nhu cầu gửi tiền của công chúng, phát huy tính hiệu quả trong quá trình sử dụng vốn và đảm bảo lợi nhuận cho ngân hàng. b. Cơ chế điều hành khung lãi suất (6/1992 - 1995): Đặc trưng của cơ chế này là Ngân hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn lãi suất huy động và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. NHNN đã có nhiều bước điều chỉnh trong điều hành chính sách lãi suất: - Chuyển từ cơ chế lãi suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương để đảm bảo cho người dân gửi tiền và ngân hàng là người cho vay đều được lợi. - Xoá bỏ về cơ bản sự chênh lệch lãi suất cho vay giữa các thành phần kinh tế, thay vì ấn định lãi suất cụ thể bằng quản lý lãi suất theo một khung, bao gồm lãi suất tối thiểu về tiền gửi và lãi suất tối đa về tiền vay. 10 - NHNN cho phép Ngân hàng thương mại (NHTM) được thoả thuận lãi suất với khách hàng. - Lãi suất đã bắt đầu được sử dụng như một công cụ của CSTT cùng với lãi suất tái cấp vốn được hình thành vào đầu năm 1991 khi hai Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực. c. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 7/2000): Nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất, đó là Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á. NHNN tiếp tục ấn định mức lãi suất tái cấp vốn và có những đổi mới căn bản về điều hành lãi suất: - Thay vì qui định khung lãi suất tối thiểu về tiền gửi - lãi suất tối đa về tiền vay, NHNN chỉ qui định các mức lãi suất “trần” theo thời hạn cho vay và khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn bình quân là 0,35%/tháng (4,2%/năm) để khắc phục tình trạng hầu hết các ngân hàng thương mại đều có mức lợi nhuận cao trong khi các doanh nghiệp lại gặp khó khăn về tài chính (khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận ở giai đoạn trước). - Đến cuối tháng 1/1998, NHNN xoá bỏ qui định chênh lệch lãi suất, chỉ còn qui định trần lãi suất cho vay. Cùng với nới lỏng sự kiểm soát lãi suất, NHNN liên tục điều chỉnh trần lãi suất cho vay theo hướng giảm cơ cấu trần và mức khống chế, đặc biệt trong năm các năm 1998, 1999. d. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (8/2000 – 5/2002): Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất 11 trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới. Vào tháng 8 năm 2000, NHNN đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do NHNN. Tuy nhiên, các ngân hàng không được tính lãi suất cho vay vượt quá lãi suất cơ bản + 0,3%/tháng đối với vốn ngắn hạn và + 0,5%/tháng đối với vốn trung, dài hạn. Cơ chế giới hạn biên độ lãi suất so với lãi suất cơ bản về bản chất không khác gì so với trần lãi suất áp dụng trước đây. Tuy nhiên, trên thực tế mức trần (lãi suất cơ bản cộng biên độ) được định ở mức cao hơn trần lãi suất theo cơ chế cũ rất nhiều. e. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006): Trong thực tế, cơ chế lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng 5/2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5/2002 là áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình thực thi cơ chế tự do hóa lãi suất ở VN bước đầu đã có kết quả nhất định. Vào tháng 11/2001, trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, từ đó cho phép những người vay ngoại tệ trong nước có thể thương lượng lãi suất với các ngân hàng nội địa và ngân hàng nước ngoài. Vào tháng 6/2002, lãi suất được tự do hóa hoàn toàn với việc các ngân hàng được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở tự thẩm định và thương lượng với khách hàng. Từ năm 2003, lãi suất cho vay cầm cố được điều chỉnh dần để đóng vai trò là lãi suất trần của thị trường liên ngân hàng. Lãi suất tái chiết khấu được qui định làm sàn của thị trường liên ngân hàng. 12 2.1.3 Cơ chế điều hành lãi suất của Việt Nam hiện nay Trước vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng cao, ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở. Từ giữa tháng 1-2008, dự trữ bắt buộc đã tăng thêm 1% với tiền gửi nội tệ và ngoại tệ từ không kỳ hạn tới dưới 12 tháng. Tới giữa năm 2008, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất cơ bản tăng lên. Nhằm hỗ trợ các đơn vị kinh doanh vượt qua khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng tài chính khu vực, chính sách tiền tệ được mở rộng trong các năm, từ 1997 1999. So với giai đoạn này, chính sách tiền tệ trong năm 2008 sử dụng nhiều công cụ với cường độ điều chỉnh mạnh hơn. Mức lãi suất thực dương cho thấy các liệu pháp tiền tệ đã phát huy tác dụng ổn định kinh tế. Chi phí lãi vay cao kết hợp với tăng giá đầu vào tạo ra áp lực lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2008. Chấp nhận chi phí đầu vào tăng cao, hạn chế mở rộng tín dụng là những dấu hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng thương mại cũng đang gặp khó khăn với vấn đề thanh khoản. Điều này có thể là kết quả của những khoản tín dụng chất lượng thấp đã cung cấp trong thời gian trước, với tỷ lệ không nhỏ dành cho các dự án bất động sản và đầu tư tài chính. Từ cuối năm 2008 tới nay, nguy cơ lạm phát leo thang tạm thời lắng xuống. Thay vào đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế dường như chịu ảnh hưởng nhiều bởi giai đoạn kinh tế chao đảo trước đó. Vì vậy, để từng bước phục hồi nền kinh tế, tạo đà cho tăng trưởng GDP, Chính phủ chủ trương nới lỏng hơn CSTT và CSTK trên cơ sở bám sát theo dõi và phản ứng linh hoạt với diễn biến thị trường. Với mục tiêu đó, NHNN đã điều chỉnh giảm các mức lãi suất điều hành để giảm mặt bằng lãi suất cho vay, và tăng cường nguồn vốn huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng của nền kinh tế. Cơ chế lãi suất thỏa thuận cho vay tiêu dùng được thực hiện đã có hiệu quá tích cực trong việc kích cầu tiêu dùng trong dân cư cũng như việc tăng nguồn thu giúp các ngân hàng giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp. NHNN cũng phối hợp các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tê ê hỗ trợ nhu cầu nhâ pê khẩu các mă tê hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống, điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tê ê liên ngân hàng. 13 2.2. Tình hình biến động lãi suất ở Việt Nam 2.2.1 Tình hình biến động lãi suất giai đoạn trước (1988 - 2002) a. Khái quát chung Năm 1988 đánh dấu đợt cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính – ngân hàng của Việt Nam khi Nhà nước trực tiếp tham gia vào hoạt động điều hành lãi suất. Lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng Thương mại quốc dân đều do NHNN quy định. Cũng theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng thương mại duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau trong từng thời kỳ. Hình 1: Biến động lãi suất cho vay giai đoạn 1989 - 2001 Hình 2: Biến động của lãi suất huy động giai đoạn 1989 – 2001 14 b. Phân tích các giai đoạn - Giai đoạn 1988 – 1994 Hình 3: Bảng lãi suất giai đoạn 89 – 94 (%/tháng) 1989 1990 1991 - Tiền gửi không kỳ hạn (cá nhân) 5,0 2,4 2,1 - Tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (cá nhân & tổ chức kinh tế) 7,0 4,0 3,5 - Lãi suất cho vay + Nông nghiệp 3,7 2,4 3,3 + Công nghiệp & giao thông vận tải (GTVT) 3,8 2,7 3,0 + Thương mại & du lịch 3,9 2,9 3,7 + Vốn cố định … 0,8 0,8 + Vốn lưu động … … … - Chênh lệch lãi suất -3,3 -1,3 -0,5 - Lạm phát 2,7 7,7 4,8 - Lãi suất thực + Tiền gửi tiết kiệm 3 tháng (cá nhân) 4,3 -3,7 -1,3 + Cho vay công nghiệp và GTVT 1,1 -5,0 -1,8 1992 1993 1994 1,0 0,7 0,7 2,0 1,4 1,4 2,5 2,0 2,7 1,8 2,7 0,5 1,1 … … … 1,2 2,1 0,7 1,2 … … … 1,7 2,1 … 0,9 0,9 0,9 0,2 … … … Các mức lãi suất huy động và cho vay giảm dần từ năm 1989 đến năm 1994. Bên cạnh đó, cho đến năm 1992, các ngân hàng thương mại duy trì các mức lãi suất cho vay khác nhau đối với cho vay nông nghiệp, công nghiệp và thương mại. Các ngành đang có xu hướng phát triển sẽ có mức lãi suất hấp dẫn hơn để kích thích đầu tư phát triển trong từng giai đoạn. Bắt đầu từ năm 1992, lãi suất cho vay đã được nâng lên cao hơn lãi suất tiền gửi - một yêu cầu thiết yếu cho sự hoạt động thông thường của các ngân hàng. Vào năm 1993, việc phân biệt lãi suất cho vay theo khu vực kinh tế được loại bỏ và chỉ còn được phân biệt theo cho vay đầu tư cố định và cho vay vốn lưu động. Tuy vậy, lãi suất cho vay đầu tư vốn cố định lại thấp hơn lãi suất cho vay vốn lưu động, tạo ra một cơ cấu lãi suất ngược không phù hợp. Tức là, lãi suất dài hạn thấp hơn lãi suất ngắn hạn. Chính sách này làm cho các ngân hàng không hề có động cơ khuyến khích cho vay dài hạn. 15 Lãi suất thực âm trong 2 năm 1990 – 1991 ứng với cơ chế thực thi chính sách lãi suất cố định của nhà nước, tạo bước chuyển sang lãi suất thực dương ở các giai đoạn sau. - Giai đoạn 1994 – 1997 Hình 4: Bảng lãi suất giai đoạn 94 - 97 - Lãi suất huy động + Không kỳ hạn + Kỳ hạn 3 tháng - Lãi suất cho vay + Ngắn hạn + Trung và dài hạn + Ngoại tệ - Chênh lệch lãi suất - Lãi suất thực + Tiền gửi không kỳ hạn + Tiền gửi tkỳ hạn 3 tháng + Cho vay ngắn hạn + Cho vay trung và dài hạn + Cho vay ngoại tệ 1994 1995 1996 97-3 97-6 97-9 97-12 1,2 18,2 8,7 18,2 6,2 9,1 6,5 10,4 6,2 9,9 4,6 7,8 4,6 8,1 28,3 22,4 9,0 10,2 28,3 22,4 9,5 10,2 15,9 17,3 9,5 6,8 15,4 16,9 9,5 5,0 15,2 16,9 9,5 5,3 12,7 14,0 8,5 4,9 12,7 14,0 8,5 4,6 -11,1 3,7 12,7 7,5 -3,1 -4,9 3,5 12,4 7,3 -4,9 2,4 5,2 11,8 13,2 8,1 3,0 6,7 11,6 13,1 14,2 4,4 8,0 13,3 15,0 22,2 1,0 4,1 8,9 10,2 6,0 0,8 4,1 8,6 9,9 19,8 Trong giai đoạn này, sự biến động của lãi suất là do nhà nước áp dụng các công cụ tiền tệ như trần tín dụng, tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,… Trong đó, Lãi suất tiền gửi thực của cá nhân và lãi suất cho vay thực đối với cả cho vay vốn lưu động và vốn cố định được giữ khá nhất quán là thực dương trong suốt thời kỳ cải cách, và lãi suất thực của tiền gửi của các tổ chức kinh tế đã lớn hơn 0 từ năm 1996. Thuế doanh thu đối với ngân hàng được loại bỏ vào năm 1995, nhưng được thay thế bằng giới hạn tối đa về thu nhập lãi suất ròng (tức là giới hạn chênh lệch lãi suất) ở mức 0,35%/tháng. Lãi suất cho vay ngắn hạn có mức trần 1%/tháng vào năm 1998. Lãi suất huy động không kì hạn và có kì hạn bắt đầu có sự hợp lí từ năm 1996, thay vì sự chênh lệch khá lớn ở những năm 1994, 1995. Lãi suất huy động trong giai đoạn này biến động lên xuống khá nổi bật. 16 Lãi suất cho vay giảm dần từ năm 1994 đến 1997 và trong đó, lãi suất cho vay trong dài hạn cao hơn trong ngắn hạn bắt đầu từ năm 1996 nhằm thúc đẩy các hoạt động đầu tư quy mô lớn và lâu dài. - Giai đoạn 1998 – 2002 Chính sách lãi suất trong hai năm 1998-99 chịu tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á. Với đồng tiền chưa có khả năng chuyển đổi, tài khoản vốn đóng, và giá trị tiền cùng với tài sản nợ tài chính (M3) còn nhỏ so với GNP, hệ thống ngân hàng của Việt Nam không phải chịu các tác động trực tiếp từ cuộc khủng hoảng châu Á. Chính vì vậy, đầu năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã không xiết chặt kiểm soát lãi suất mà thậm chí còn nới lỏng. Lãi suất giảm vào năm 1999: 6 16 14 5 Tiền gửi nội tệ không kỳ hạn Cho vay nội tệ ngắn hạn 12 4 10 3 8 2 6 Tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn Cho vay ngoại tệ 4 1 2 Hình 5 - 6: Biến động LS tiền gửi – LS cho vay năm 1999 Từ bảng ta dễ dàng nhận thấy lãi suất tiền gửi nội tệ giảm mạnh từ giữa năm 1999. Chênh lệch lãi suất danh nghĩa giữa đô-la Mỹ và tiền đồng gần như không còn. Như vậy, mặc dù gần như không có lạm phát trong năm 1999, nhưng gửi tiền bằng đô-la vẫn hấp dẫn khi tỷ giá hối đoái (VND/USD) tăng 3,4%. Trong giai đoạn 2 năm 1998 - 1999, sự biến động của lãi suất cho vay lại có phần ổn định hơn. 17 01-9 01-3 00-9 00-3 99-9 99-3 98-9 0 98-3 01-9 01-3 00-9 00-3 99-9 99-3 98-9 98-3 0 Vào tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đưa ra một cơ chế lãi suất mới trong đó lãi suất cho vay nội tệ của ngân hàng được điều chỉnh theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Hình 7. Từ trần lãi suất đến lãi suất cơ bản rồi tự do hóa lãi suất, 1998-2002 Trong năm 2000 và 2001, cả hai mức lãi suất này đều giảm. Nhưng trong thời gian đó, lãi suất tiền gửi lại tăng lên. Cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn tới gia tăng lãi suất huy động vốn, nhưng lãi suất cho vay vẫn không tăng và nằm trong biên độ lãi suất cơ bản. Chênh lệch lãi suất, do vậy, đã giảm đi rõ rệt. 18 2.2.2 Biến động lại suất ở Việt Nam trong thời điểm hiện nay Năm 2006, lãi suất huy động các kỳ hạn của các tổ chức tín dụng (TCTD) khá ổn định, một số TCTD giảm dần hoặc cắt bỏ chi phí khuyến mại trong quá trình huy động vốn; lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng tương đối ổn định, một vài khách hàng lớn có uy tín, một số dự án đầu tư lớn có hiệu quả khi vay vốn được TCTD giảm nhẹ lãi suất cho vay bằng VND và ngoại tệ. So với cuối năm 2005, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay trên thị trường tăng nhẹ, chủ yếu trong 7 tháng đầu năm, lãi suất huy động VND tăng khoảng 0,40,8%/năm; lãi suất cho vay VND tương đối ổn định; lãi suất huy động và cho vay USD tăng khoảng 0,2-0,6%/năm. Năm 2007, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của các TCTD tương đối ổn định, riêng lãi suất VND có xu hướng giảm nhẹ; lãi suất tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại TCTD tăng lên mức tương ứng với lãi suất huy động từ dân cư. Hình 8: Diễn biến lãi suất trung bình giai đoạn 2003 – 2009 Tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn của các Ngân hàng thương mại chiếm khoảng 40% nguồn vốn ngắn hạn. Do đó, mặt bằng lãi suất tăng cao là một nguyên nhân chính buộc các NHTM phải điều chỉnh kế hoạch lợi nhuận cho năm 2008 này. Năm 2008, Sau khi đã thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan