1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nghề Nuôi trồng thủy sản (NTTS) phát triển
rộng, diện tích mặt nước đưa vào NTTS ngày càng tăng, đối tượng nuôi ngày
càng được đa dạng hóa và kỹ thuật nuôi không ngừng được cải tiến. Nó đã
thúc đẩy kỹ thuật sản xuất giống phát triển tạo ra nhiều con giống hơn, đảm
bảo nhu cầu cho ngành NTTS phát triển.
Ở nước ta không chỉ có ưu thế về bờ biển dài 3260 km2 trải dọc theo đất nước
tạo ra nhiều vũng, vịnh, đầm phá…mà còn có nhiều con sông lớn chủ yếu tập
trung ở Đồng Bằng Sông Hồng (ĐBSH) và Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL) tạo ra nhiều thủy vực nước ngọt phong phú rất thuận lợi cho NTTS
nước ngọt phát triển.
Nghề nuôi cá nước ngọt bắt đầu phát triển mạnh nhất là vùng ĐBSCL,
sau đó mở rộng dần sang vùng Miền Đông Nam Bộ.
Hiện nay bên cạnh các loài cá có giá trị kinh tế cao như: cá Tra, Basa, Lóc,
Sặc rằn, Rô phi, Điêu Hồng…đang được phát huy tiềm năng vì chúng có giá
trị kinh tế và xuất khẩu cao, thì cá Rô Đồng (Anabas testudineus Bloch, 1792)
được xem là đối tượng nuôi có nhiều triển vọng.
Cá Rô đồng là loài cá sống trong môi trường nước ngọt ở vùng nhiệt đới. Cá
hiện diện trong các loại thủy vực như: ao, đìa, đầm lầy, mương vườn và ruộng
lúa ở Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam…khả năng thích nghi của cá với
môi trường sống là rất tốt, đặc biệt là cá có thể hô hấp bằng khí trời.
Vì thế Rô đồng đã và đang được nuôi phổ biến ở nhiều nơi trong các hệ thống
nuôi. Tuy nhiên, do nguồn cá giống ngoài tự nhiên không đủ cung cấp cho
nhu cầu của người dân; vì vậy việc duy trì và phát triển nghề nuôi cá Rô đồng
thông qua hoạt động sinh sản nhân tạo, chủ động tạo nguồn cá giống góp phần
2
cải thiện tỷ lệ sống và năng suất nuôi, cũng như nâng cao thu nhập cho người
dân là hoạt động nghiên cứu rất cần thiết.
Được sự phân công của Bộ Môn Dinh Dưỡng – Khoa Nuôi Trồng Thủy Sản –
Đại Học Nha Trang, em thực hiện đề tài: “ Tìm hiểu quy trình kỹ thuật sản
xuất giống cá Rô Đồng Anabas testudineus Bloch, 1792, tại trang trại NTTS
nước ngọt Vạn Thành: Ấp 2 - Xã Bàu Đồn – Huyện Gò Dầu – Tỉnh Tây
Ninh”.
Với mục đích: hoàn thiện các biện pháp kỹ thuật áp dụng vào quá trình kích
thích sinh sản nhân tạo và ương cá Rô Đồng; đồng thời vận dụng kiến thức đã
học vào nghiên cứu để áp dụng vào thực tiễn sản xuất, giúp người dân trong
vùng nâng cao thu nhập.
Trong thời gian thực tập, mặc dù bản thân đã cố gắng rất nhiều với
mong muốn là bám sát thực tế nhằm hoàn thiện đề tài được tốt hơn. Tuy nhiên
do thời gian có hạn, những kiến thức và sự hiểu biết của bản thân còn hạn
chế; do đó đề tài không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự chỉ
bảo và đóng góp tận tình của quý thầy cô để đề tài này hoàn chỉnh hơn.
3
Phần 1
TỔNG LUẬN
1.Một số đặc điểm sinh học, sinh thái học quan trọng của cá Rô Đồng
(Anabas testudineus Bloch, 1972) liên quan đến kỹ thuật sản xuất giống
1.1 Hệ thống phân loại:
Giới:
Animalia
Ngành:
Chordata
Lớp:
Actinopterygii
Bộ:
Perciformes
Phân bộ:
Họ:
Anabantoidei
Anabantidae
Giống:
Loài:
Anabas
Anabas testudineus Bloch,1972
Hình 1.1: Loài cá Rô Đồng [8].
1.2 Đặc điểm hình thái:
Cá Rô Đồng có thân hình bầu dục, kéo dài, dẹp bên dần về phía sau.
Đầu lớn, rộng, chiều dài đầu bằng chiều cao thân. Miệng cận trên, chẻ sâu,
mõm ngắn, đầu mõm tròn. Mắt lớn, răng hàm xếp thành hàng ngắn, nhọn.
Mỗi bên đầu có hai lỗ mũi, nắp mang cứng, cạnh sau xương nắp mang có răng
cưa giúp cá di chuyển trên cạn dễ dàng. Vẩy lược phủ toàn thân, gai vẩy cứng
4
và chắc. Đường bên hoàn toàn, bắt đầu từ mép trên của lỗ mang. Vây lưng và
vây hậu môn dài có gai cứng, vây đuôi tròn không chẻ hai, gốc vây đuôi có
đốm đen tròn, gốc vây bụng có vẩy nách hình mũi mác, khởi điểm vây lưng
nằm sau phần cuối xương nắp mang. Cá Rô Đồng có cơ quan hô hấp phụ rất
phát triển nằm trên cung mang thứ tư gọi là mê lộ; chính cơ quan này giúp
cho cá Rô Đồng có thể sống một thời gian dài trên cạn (da cá phải ẩm); cá có
thể lấy Oxy từ trong không khí khi trong nước thiếu Oxy và cá có thể sống
trong môi trường nước tĩnh, nơi hàm lượng Oxy thấp. Theo Thiraphan (1962),
cá con có các sọc sậm màu nằm vắt ngang thân và đuôi, tương tự cũng có các
sọc chạy dài từ mắt đến nắp mang. Cá nhỏ luôn có một đốm rộng sậm màu
nằm ở phần đuôi và một đốm nhỏ hơn nằm ở bên phần thân và xương nắp
mang. Ở cá lớn, các vây có màu nâu (Yakupitiyage, et al, 1998) [3].
1.3 Đặc điểm phân bố:
Cá Rô Đồng sống ở nước ngọt, thường sinh sống được ở các loại hình
mặt nước: ruộng lúa, ao, mương, rãnh, hào, đầm, sông rạch…Trên thế giới, cá
Rô phân bố trong khoảng vĩ độ 280 Bắc – 100 Nam, chủ yếu ở miền nam
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái lan, Ấn Độ và Châu Đại
Dương (Pravdin, 1963). Ở Việt Nam, cá Rô Đồng phân bố ở khắp nơi và khắp
địa hình (Bộ Thủy Sản, 1996) [3].
1.4 Đặc điểm về dinh dưỡng
Cá Rô Đồng là loài cá ăn tạp thiên về động vật, ống tiêu hóa ngắn. Khi
phân tích thức ăn trong dạ dày cá người ta thấy: 19% giáp xác; 3,5% côn
trùng; 6% nhuyễn thể; 9,5% cá; 47% thực vật vụn và 16% vật chất ít tiêu hóa
[Nargis and Hossain (1987), Trần Thị Trang (2001)]. pH dạ dày của cá Rô
Đồng khoảng 5,9÷6,58 [Pandrey et al (1992), Huỳnh Thanh Tuấn (2004)].
Khi cá mới nở chủ yếu dinh dưỡng bằng khối noãn hoàng, khi hết noãn hoàng
(sau 60 giờ) cá sử dụng thức ăn bên ngoài, chủ yếu là động vật phù du cỡ nhỏ
5
(moina), một ít phù du thực vật và thức ăn nhân tạo. Khi chuyển tính ăn cá Rô
đồng ăn tạp, cá có thể ăn các loại tôm, tép, cá con, côn trùng, và các loại hạt
như lúa, gạo, hạt cỏ… kể cả phân động vật và mùn bã hữu cơ (Mai Đình Yên,
1983) [3].
Hình 1.2: Cá Rô Đồng ăn động vật phù du – mùn bã hữu cơ [8].
1.5 Đặc điểm về sinh trưởng
Tuy có tính ăn rộng nhưng cá Rô Đồng là loài có tốc độ tăng trưởng
chậm. Cá tự nhiên một năm tuổi đạt 50÷60 (g) đối với cá đực, 50÷80 (g) đối
với cá cái; trong ao nuôi có bổ sung thức ăn sau 3 tháng nuôi cá đạt trọng
lượng từ 30÷35 (g/con), sau 6 tháng nuôi cá đạt từ 60÷100 (g/con) (Phạm Văn
Khánh, 1999) [3].
1.6 Đặc điểm sinh sản
Theo Nguyễn Khoa Diệu Thu (1975), xét về tổ chức học để đánh giá
chính xác các giai đoạn phát triển của noãn bào phải căn cứ vào các chỉ tiêu
sau: màu sắc noãn bào, hệ số thành thục, độ trong đục và kích thước của
trứng, tình trạng phân bố của mạch máu, đặc điểm thành phần các loại noãn
bào, số lượng và thể tích các loại noãn bào trong noãn sào [3].
6
Hình 1. 3: Buồng trứng cá Rô Đồng
Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả thì tuổi thành thục của cá Rô
Đồng được trình bày theo bảng sau:
Bảng 1.1: Tuổi thành thục cá Rô Đồng. [3]
Tuổi trưởng thành
Kích cỡ
(tháng)
(cm)
1
10
13÷13,8
Nguyễn Ngọc Phúc, 2000
2
10
12÷13
Trần Thị Trang, 2001
3
12
12
Mai Đình Yên, 1983
4
5÷6
8÷10
Potongkam, 1971
STT
Tác giả
Cá Rô Đồng là loài cá đẻ nhiều lần trong năm, khi thành thục cá bố mẹ
ngược dòng để tìm bãi đẻ, trứng cá Rô Đồng thuộc loại trứng trôi nổi, cá
không có tập tính giử và ấp trứng. Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả
về mùa vụ sinh sản của cá Rô Đồng:
Bảng 1.2: Mùa vụ sinh sản của cá Rô Đồng ngoài tự nhiên [3].
STT
1
2
3
4
Mùa vụ sinh sản
(tháng âm lịch )
5÷7
4÷6
4÷7
4÷5
Tác giả
Phạm văn Khánh, 1999
Bộ Thủy Sản, 1996
Nguyễn Ngọc Phúc, 2000
Trần Thị Trang, 2001
7
Số lượng trứng đẻ ra là một nhân tố quan trọng trong sự tồn tại của loài.
Nghiên cứu sức sinh sản của loài sẻ biết được khả năng sinh sản của loài cá,
để từ đó có thể lập kế hoạch thích hợp, xác định được số cá bố mẹ cần thiết,
ngoài ra cũng đánh giá được hiệu suất tự nhiên của mỗi loài cá (Pravdin,
1963) [3].
Sức sinh sản của cá thay đổi theo khối lượng, kích thước, tuổi của cá.
Cá có kích thước lớn thì sức sinh sản lớn, sức sinh sản của cá cũng thay đổi
theo vùng nước mà nó phân bố, theo tập tính sinh sản (cá không có tập tính
bảo vệ trứng và con thì có khả năng sinh sản cao hơn) [1].
Bảng 1.3: Sức sinh sản tuyệt đối của cá Rô Đồng [3].
STT Trọng lượng cá cái
Lượng trứng
Tác giả
(g/con)
(ngàn trứng/con)
1
50
10÷20
Mai Đình Yên, 1983
2
90÷100
90÷130
Bộ Thủy sản, 1996
3
40
12÷16
Phạm Văn Khánh, 1999
4
21÷60
2,8÷15
Nguyễn Văn Kiễm, 1999
Khối lượng tuyến sinh dục (TSD) cũng là một trong những điều kiện
cần thiết để giải thích mức độ chính muồi của sản phẩm sinh dục. Hệ số thành
thục (HSTT) được biểu diễn bằng tỷ lệ phần trăm của khối lượng TSD trên
khối lượng thân cá. HSTT này không phản ánh đầy đủ trạng thái thực của sản
phẩm sinh dục, song nó cũng là phần bổ sung quan trọng cho sự chín muồi
của sản phẩm sinh dục. HSTT cần được xác định điều đặn hàng tháng ở các
loài đẻ trứng nhiều đợt (Pravdin, 1963). Nhìn chung HSTT tăng dần theo độ
chín muồi của sản phẩm sinh dục, và sẻ giảm rỏ rệt sau khi đẻ (Nguyễn Khoa
Diệu Thu, 1975). HSTT biến đổi theo mùa rất rỏ nét, cá Rô Đồng thường đạt
giá trị cao vào khoảng thời gian cuối mùa khô đầu mùa mưa. Sau khi cá đẻ
8
HSTT giảm nhanh (Trương Quan Trí, 1987). Đối với cá Rô Đồng sự biến đổi
HSTT chủ yếu là do điều kiện khí hậu, thủy văn thay đổi kéo theo sự thay đổi
về điều kiện sinh thái, kích thích theo mùa vụ sinh sản cá [3].
2. Ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài lên sự phát triển tuyến sinh dục
của cá bố mẹ trong ao nuôi vỗ
2.1 Thức ăn: Thức ăn không những là nguồn vật chất cho sự sinh
trưởng, năng lượng trao đổi chất mà còn là nguyên liệu cho noãn hoàng và
tinh sào. Những cá đói (thiếu thức ăn) thì thành thục thấp hoặc không thành
thục mặc dù mọi yếu tố khác của môi trường điều nằm trong khoảng thích
hợp. Những cá đang trong thời kỳ tạo noãn bào nếu bị đói trong thời gian dài
thì buồng trứng có thể bị thoái hóa hoặc tiêu biến. Ở cao điểm của sụ thành
thục và sinh sản thì cường độ dinh dưỡng giảm rỏ rệt hoặc ngừng hẳn (Viện
Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 1, 1999) [3].
2.2 Nhiệt độ: Cá là loài động vật biến nhiệt, nhiệt độ môi trường quyết
định hoạt động chung và nhất là sự dinh dưỡng của cá. Ở nhiệt độ quá thấp
hoặc quá cao thì cá ngừng bắt mồi, dự trữ mỡ cạn kiệt thì TSD là nguồn chất
dự trữ để duy trì sự sống cho cá. Trong trường hợp này TSD ngừng phát triển
và tiêu biến, sự sinh sản bị ảnh hưởng xấu. Trong phạm vi nhiệt độ thích hợp,
nhiệt độ càng cao cáng rút ngắn thời gian nuôi vỗ cá bố mẹ. Đối với cá đã
thành thục hoàn toàn thì sự thay đổi nhiệt độ môi trường trong thời gian ngắn
có ý nghĩa như một yếu tố kích thích chuyển sang tình trạng sinh sản, hoạt
hóa bộ máy nội tiết sinh sản (Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 1,
1999) [3].
3. Kích dục tố HCG (Human Chorionic Gonadotropine) dùng trong sinh
sản nhân tạo cá Rô Đồng
HCG có tên tiếng việt là kích dục tố màng đệm hoặc kích dục tố nhau
thai, được Zondec và Aschheim phát hiện từ năm 1927 trong nước tiểu phụ
9
nử có thay (Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản 1, 1999). HCG là một
glycoprotein tan trong nước, có thể đây là loại kích dục tố chuẩn, dùng có
hiệu quả cho nhiều loài cá như: Cá Mè, Tra, Trê, Sặc Rằn…và đặc biệt là cá
Rô. Ở nước ngoài HCG còn được sử dụng cho nhiều loài cá: Chình,
Nheo…liều lượng HCG được sử dụng cho cá phụ thuộc vào mức độ tinh khiết
của chế phẩm, cũng như mức độ thành thục của cá. [3]
4.Nguyên lý cơ bản của việc sinh sản nhân tạo cá Rô Đồng
Yếu tố sinh thái (nhiệt độ, dòng chảy,…..)
Cơ quan nhận cảm
Trung ương thần kinh (Hypothalamus)
GnRH, GRIF
FB
Não thùy (Tuyến yên)
LH, FSH
Tuyến sinh dục ( đực, cái)
Trứng / Tinh trùng
Hình 1.4: Nguyên lý sinh sản cá nuôi trong điều kiện nhân tạo
Trong tự nhiên các yếu tố sinh thái tác dụng lên trung khu thần kinh
thông qua cơ quan cảm giác (thính giác, khúc giác, thị giác, cơ quan đường
biên). Tại đây trung trung khu thần kinh sơ bộ phân tích và tổng hợp các xung
động đó rồi truyền đến tuyến yên thông qua hệ thần kinh thể dịch GRIF
(Gonadotropine Releasing Inhibitory Factor- Hormone ức chế sự tiết kích
dục tố) và GnRH (Gonadotropine Releasing Hormone - Hormone kích thích
sự tiết kích dục tố), đây là hai loại hormone sinh dục được tiết rat từ một tế
bào của trung khu thần kinh. Tuyến yêu sau khi nhận xung động sẻ tiết hoặc
10
không tiết ra kích dục tố. Nếu kích dục tố (FSH, LH) được tiết ra, chúng sẽ
kích thích lên tuyến sinh dục (tuyến tinh/buồng trứng) làm sản sinh ra tinh
trùng/trứng. Căn cứ vào nguyên lý trên, trong sinh sản nhân tạo ta vừa tạo yếu
tố sinh thái phù hợp cho cá đẻ, vừa tăng cường hoạt động của cơ quan nội tiết
(cụ thể là tiêm hormone sinh dục), tiêm kích dục tố cho cá không có nghĩa là
thay thế lượng hormone sinh dục trong cơ thể cá mà giúp cho cơ thể tăng
cường tiết kích dục tố [6].
5. Tình hình sản xuất cá Rô Đồng ở Việt Nam
Hiện nay cá Rô Đồng là một trong những đối tượng thủy sản quan
trọng đã và đang được nuôi phổ biến ở các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
(ĐBSCL), gần đây đang phát triển nhiều ở vùng Miền Đông Nam Bộ [5].
Cá Rô Đồng được nuôi ở nhiều quy mô diện tích khác nhau và các loại chất
đất khác nhau cho nên nó phát triển ở các tỉnh giàu tiềm năng nước ngọt và
ruộng trũng như: Đồng Tháp, Long An, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang,
Kiên Giang, Sóc Trăng, và các tỉnh ven biển khác cũng phát triển với quy mô
nhỏ [9].
11
Phần 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1.Thời gian, địa điểm, và đối tượng nghiên cứu:
1.1 Thời gian nghiên cứu: Từ ngày 04/05/20009 đến 15/08/2009
1.2 Địa điểm nghiên cứu: Ấp 2 – Xã Bàu Đồn – Huyện Gò Dầu – Tỉnh Tây
Ninh.
1.3 Đối tượng nghiên cứu: Cá Rô Đồng (Anabas testudineus).
2. Phương pháp nghiên cứu:
2.1 Sơ đồ khối nghiên cứu:
TÌM HIỂU KỸ THUẬT SẢN XUẤT GIỐNG CÁ NƯỚC NGỌT
Đặc
điểm
cơ
sở
thực
tập
Hệ
thống
công
trình
tại
cơ
sở
thực
tập
Kỹ thuật sản xuất cá giống
Kỹ
thuật
ấp
trứng
Kỹ
thuật
sinh sản
nhân tạo
Kỹ
thuật
nuôi vỗ
cá bố
mẹ
Kỹ thuật ương cá giống
Chuẩn
bị ao
Thả
giống
Quản
lý
thức
ăn
Quản lý
môi
trường
Theo
dõi
sinh
trưởng
cá
Kết luận và đề xuất
Hình 2.1: Sơ đồ khối nội dung nghiên cứu
Phòng
trị
bệnh
Nhận
xét
chung
12
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp Thu thập thông tin
Thu thập thông tin sơ cấp: trực tiếp tham gia thực tế sản xuất tại tại cơ
sở, ghi chép số liệu: nhiệt độ, pH, DO…
Thu thập thông tin thứ cấp: Tham khảo các số liệu, thông tin đã được
xử lý liên quan đến kỹ thuật sản xuất giống cá nước ngọt.
2.2.2 Phương pháp đo một số yếu tố môi trường
Nhiệt độ nước bằng nhiệt kế, độ chính xác: ±10C
pH: Bằng test pH
DO (hàm lượng oxy hòa tan trong nước): Bằng DO test
2.2.3 Phương pháp xác định mật độ trứng đem ấp (hoặc cá bột trong bể)
Bể trứng
(hoặc bể
cá bột)
100
ml
Đếm và
ghi chép
Cốc thủy
tinh
Hình 2.2 Xác định mật độ, số lượng trứng (hoặc cá bột)
Công thức xác định mật độ:
M
M1 M 2 M 3
3
Trong đó:
M: Mật độ trứng (hoặc cá bột) ở ba điểm
13
M1: Mật độ trứng (hoặc cá bột) ở gần vòi sục khí
M2: Mật độ trứng (hoặc cá bột) ở gần thành bể
M3: Mật độ trứng (hoặc cá bột) ở giửa vòi sục khí và thành bể
Định lượng trứng hoặc cá bột trong bể theo công thức:
N M V
Trong đó:
N: Số lượng trứng (hoặc cá bột trong bể)
M: Mật độ trứng (hoặc cá bột trong bể)
V: Thể tích bể
2.2.4 Xác định hệ số thành thục (HSTT):
HSTT (%) =
Wg
W
100
Trong đó:
Wg: Khối lượng của tuyến sinh dục
W: Khối lượng của toàn thân cá bố mẹ
2.2.5 Xác định sức sinh sản tuyệt đối (SSSTĐ):
a
n
SSSTĐ Wb
Trong đó:
a: Số lượng trứng đếm được ở phần n
n: Là một phần khối lượng của buồng trứng
Wb: Khối lượng của buồng trứng
2.2.6 Xác định sức sinh sản tương đối (SSStđ):
SSStđ
SSSTĐ
Wt
Trong đó:
Wt: Khối lượng toàn thân cá cái
14
2.2.7 Xác định sức sinh sản thực tế (SSSTT):
SSSTT
K
G
Trong đó:
K là tổng số lượng trứng đẻ ra
G là tổng khối lượng cá cái cho đẻ
Ngoài ra còn xác định một số chỉ tiêu sau:
Tỷ lệ thụ tinh (TLTT):
TLTT( %)
T1
100
T2
T1: Số trứng thụ tinh
T2: Số trứng đem ấp
Tỷ lệ nở (TLN):
TLN ( %) T3
T4
100
T3: Số lượng cá nở
T4: Số trứng thụ tinh
Mật độ ấp(Mấp):
Mấp
T
V
T: Tổng số trứng ấp
V: Thể tích thiết bị ấp
2.2.8 Xác định sự tăng trưởng của cá:
Định kỳ 10 ngày ta tiến hành xác định sự tăng trưởng, tỷ lệ sống của cá
ương một lần bằng cách kéo cá bằng lưới có diện tích là 6m2, sau đó chọn
ngẫu nhiên để:
Đo chiều dài: mỗi lần đo tối thiểu là 30 con, cân khối lượng thì mỗi một
ao cân 50g/lần cân (cân ở 4 vị trí khác nhau trong ao) rồi đếm số cá, mỗi một
vị trí ta sẽ có khối lượng trung bình của mỗi con. Lấy giá trị trung bình của 4
15
lần cân rồi suy ra số gam của mỗi con. Kích cở của cá sau 10 ngày ương trở đi
được đo bằng thước nhựa cở nhỏ (tổng chiều dài là 10 cm), còn khối lượng
của cá được xác định bằng cân đồng hồ cở nhỏ (tổng khối lượng là 1kg).
Sự tăng trưởng tuyệt đối theo ngày:
AW
Pi P
ti t
(g/con/ngày)
Với: AW: Là sự tăng trưởng về khối lượng của cá
Pi: Khối lượng cá (gram/con) ở thời điểm đang kiểm tra
P: Khối lượng cá (gram/con) ở lần kiểm tra trước đó
ti: Thời điểm đang kiểm tra (ngày)
t: Là thời điểm kiểm tra lúc trước đó (ngày)
AL
Li L
ti t
(mm/con/ngày)
Với: AL: Là sự tăng trưởng về chiều dài của cá
Li: Chiều dài cá (mm/con) ở thời điểm đang kiểm tra
L: Chiều dài cá (mm/con) ở lần kiểm tra tước đó
Xác định tỷ lệ sống (TLS):
TLS ( %)
N2
100
N1
N2 : Số lượng cá ở giai đoạn sau
N1: Số lượng cá ở giai đoạn trước
Mỗi lần kiểm tra, ta sử dụng lưới có diện tích là 6 m2 kéo 4 lần ở 4 vị trí khác
nhau trong ao.
Số lượng cá có trong ao (con)
A
S
SA
Với: A là số lượng cá kéo được trong 1 lần kéo (con)
SA: Diện tích miệng lưới (m2) trong 1 lần kéo
S: Diện tích ao ương nuôi (m2)
16
Thời gian ương cá là 45 ngày, mỗi ngày theo dõi diễn biến các yếu tố môi
trường, định kỳ 10 ngày kéo cá kiểm tra sinh trưởng, tỷ lệ sống 1 lần.
2.3 Phương pháp xử lý số liệu:
Số liệu và các thông số kỹ thuật được xử lý bắng phương pháp thống kê
toán học, máy tính bỏ túi và phần mềm Microsoft excel.
Giá trị trung bình ( X ) :
X
1 n
Xi
n 1
Trong đó:
X : Giá trị trung bình
Xi: Giá trị lần kiểm tra thứ i
n: Số lần kiểm tra
Độ lệch chuẩn ( )
( X X )2
n 1
i 1
n
17
Phần 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Vài nét về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại địa điểm nghiên cứu
và tình hình sản xuất giống cá Rô Đồng tại trang trại
1.1 Điều kiện tự nhiên
1.1.1 Vị trí địa lý
Xã Bàu Đồn là một trong 8 xã của Huyện Gò Dầu, nằm ở phía nam tỉnh
Tây Ninh.
Phía đông giáp huyện Dương Minh Châu
Phía tây giáp huyện Bến Cầu
Phía nam giáp huyện Trảng Bàng
Phía bắc giáp huyện Hòa Thành, Châu Thành
Huyện Gò Dầu có sông Vàm Cỏ Đông chảy ngang qua. Ngoài ra còn
có Hồ Dầu Tiếng cách huyện khoảng 40km. Đây là hồ nhân tạo lớn nhất cả
nước cung cấp nguồn nước cho nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản.
Với vị trí địa lý như vậy, ít nhiều đã ảnh hưởng đến khả năng phát triển nuôi
trồng thủy sản và kỹ thuật sản xuất của vùng.
1.1.2 Khí hậu
Chế độ khí hậu của huyện Gò Dầu thuộc kiểu khí hậu địa phương nằm
trong chế độ khí hậu của khu vực Đông Nam Bộ có khí hậu tương đối ôn hòa,
chia làm hai mùa rỏ rệt, mùa mưa và mùa khô.
Mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau và tương phản rất
rỏ với mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11). Huyện nằm sâu trong lục địa, ít
chịu ảnh hưởng của bảo và những yếu tố bất lợi khác.
18
1.1.3 Nhiệt độ
Chế độ bức xạ rất dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định (nhiệt độ trung bình
là 28,40C, lượng ánh sáng quanh năm dồi dào, mỗi ngày trung bình có tới 6
giờ nắng).
1.1.4 Chế độ mưa
Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800-2200 mm, độ ẩm trung bình
trong năm vào khoảng 70-80%, tốc độ gió 1,7m/s và thổi điều hòa trong năm;
Gò Dầu chịu ảnh hưởng của hai loại gió chủ yếu là gió Tây – Tây Nam vào
mùa mưa và gió Bắc-Đông Bắc vào mùa khô.
1.1.5 Sông ngòi kênh rạch
Hệ thống kênh rạch ở huyện chủ yếu dựa vào hai sông lớn là: Sông Sài
Gòn và Sông Vàm Cỏ Đông.
Sông Sài Gòn: Bắt nguồn từ đồi Lộc Ninh (thuộc tỉnh Bình Phước) cao
trên 200m chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam, làm ranh giới giửa Tây
Ninh với hai tỉnh Bình Phước, Bình Dương.
Trên dòng sông Sài Gòn về phía thượng lưu, công trình thủy lợi lớn
nhất nước đã được xây dựng là công trình Hồ Dầu Tiếng, với dung tích hữu
hiệu 1,45 tỷ m3, diện tích mặt nước là 27000 ha (trên địa bàn Tây Ninh
20000ha).
Sông Vàm Cỏ: bắt nguồn từ độ cao 150 m ở Campuchia chảy theo
hướng Tây Bắc – Đông Nam, nó có chiều dài 220 km (151 km chảy trong địa
phận Tây Ninh).
1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
Nhân dân trong huyện chủ yếu sống bằng nghề nông; nhìn chung thì
nguồn lao động của huyện dồi dào.
Hiện nay ở huyện chưa có nhà máy hay xí nghiệp nào tạo công ăn việc
làm cho những người lao động; với nguồn dân cư như vậy đồi hỏi đất canh tác
19
phải lớn để tránh tình trạng không có công ăn việc làm; vì vậy việc phát triển
nuôi trông thủy sản nước ngọt trên địa bàn huyện là rất cần thiết.
Khi việc phát triển nuôi trồng thủy sản nước ngọt có hiệu quả thì việc sản
xuất giống thủy sản nước ngọt càng có ý nghĩa hơn.
Với ưu thế ở huyện có nguồn nước sạch tự nhiên nhiều, nguồn lao động
dồi dào thì việc sản xuất giống nuôi cá nước ngọt sẻ giúp người dân nâng cao
mức thu nhập và cải thiện đời sống.
Tuy nhiên cán bộ về ngành thủy sản ở huyện chưa có nhiều, thiếu kỹ sư
chuyên ngành và nguồn vốn còn hạn chế.
Do vậy cần phải có chính sách hợp lý để cải thiện tình hình kinh tế xã
hội ở huyện để có thể phát triển nghề sản xuất giống và nuôi thủy sản nước
ngọt trong thời gian gần hơn.
1.3. Tình hình sản xuất giống cá Rô Đồng ở trang trại – huyện Gò Dầu
1.3.1 Những thuận lợi trong khi sản xuất giống cá Rô Đồng tại Gò Dầu
Cũng như một số nghề khác, việc sản xuất giống cá Rô Đồng tại huyện
có được sự ưu đãi của thiên nhiên, sông ngòi nước ngọt ở huyện nhiều, nguồn
nước không bị ảnh hưởng của xí nghiệp hay nhà máy. Cá Rô Đồng là đối
tượng dễ nuôi, có chất lượng thịt thơm ngon, không có xương dăm và có giá
trị dinh dưỡng cao sẽ góp phần giải quyết nhu cầu thị trường về cá ngày càng
cao do hiện nay đang là cơn sốt của các loại cúm gia cầm và bệnh lông mồm
lở móng ở động vật như: Bò, Lợn…nên cá Rô Đồng cũng được xem là một
trong những đối tượng thủy sản quan trọng đã và đang được nuôi phổ biến ở
các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long, gần đây đang phát triển ở vùng miền
Đông Nam Bộ (Tây Ninh là một điển hình đã dùng đất ruộng không trồng lúa
nửa mà đào ao nuôi cá).
Tuy nhiên do nguồn cá giống ngoài tự nhiên không đủ cung cấp cho
các hệ thông nuôi; vì vậy việc duy trì và phát triển nghề nuôi cá Rô Đồng
20
thông qua hoạt động sinh sản tạo và đây chính là động lực để phát triển kỹ
thuật sản xuất giống cá Rô Đồng.
1.3.2 Những khó khăn của sản xuất giống cá Rô Đồng ở Gò Dầu
Cá Rô Đồng là một đối tượng vừa mới phổ biến nên liên hệ đến các
hoạt nghiên cứu về đặc điểm sinh thái, sinh học và phân tích hiệu quả kinh tế
của đối tượng này là chưa được nhiều làm ảnh hưởng đến năng suất ương
nuôi cá trong ao, cá chậm lớn… sẻ làm giảm khả năng tiêu thụ ngoài thị
trường dẫn đến nguồn vốn đầu tư vào sản xuất cũng hạn hẹp. Vì thế cũng có
nhiều hộ gia đình chưa xem cá Rô Đồng là mục đích chính trong sản xuất,
làm cho việc tiêu thụ giống giảm.
2. Giới thiệu cơ sở vật chất của khu sản xuất giống
Trang trại có tổng diện tích là 20 ha: trong đó có 19 ao sản xuất, 3 hồ
lắng, có các khu đất trống đảm bảo để chứa đất bùn sau khi cải tạo ao, có 3
nhà kho lớn dùng để chứa thức ăn, hóa chất… mỗi ao đều có chòi để công
nhân ở thuận lợi trong việc bảo vệ quan sát tình trạng trong ao nuôi.
Trại nằm trên địa bàn xã Bàu Đồn huyện Gò Dầu tỉnh Tây Ninh được
thành lập vào tháng 08/2008.
Trại nằm ở nơi có điều kiện tương đối tốt, nguồn nước cung cấp cho
trang trại xuất phát từ Hồ Dầu Tiếng thông qua con kênh lớn, hệ thống giao
thông vào trại có điều kiện khá tốt cách lộ chính 1200m, mạng lưới điện quốc
gia được kéo về trại đảm bảo trong hoạt động sản xuất, mặt bằng của trang
trại được bố trí như sau:
- Xem thêm -