MỤC LỤC
MỤC LỤC.................................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................4
2. Mục tiêu nghiên cứu........................................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu..........................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................4
6. Kết cấu chuyên đề............................................................................................4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ....................................5
Môn học gồm 7 chương:.....................................................................................5
Chương 1: khái quát về kinh tế vĩ mô.................................................................5
Chương 2: Hạch toán thu nhập quốc dân............................................................5
Chương 3 Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lạm phát – thất nghiệp....................6
Chương 4: Chính sách tài chính..........................................................................8
Chương 5: Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ............................................9
Chương 6: Thương mại quốc tế........................................................................10
Chương 7: Tăng trưởng kinh tế.........................................................................11
TÓM TẮT CHƯƠNG 1..........................................................................................12
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY........................................................................................................................13
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua.............................13
2.1.1. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát...............................................................13
2.2. Nhận xét tác động của lạm phát tới nền kinh tế.........................................15
2.2.1. Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất...........................................15
2.2.2 Tác động hoạt động của ngân hàng..........................................................15
2.2.3 Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân..............................15
2.3. Một số giải pháp nhằm kiếm chế lạm phát tại Việt Nam...........................16
TÓM TẮT CHƯƠNG 2..........................................................................................18
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ..........19
3.1. Giảng dạy môn học....................................................................................19
3.1.1. Giáo trình, tài liệu môn học, giảng dạy...................................................19
3.1.2. Cơ sở vật chất..........................................................................................19
3.1.3. Tính thực tiễn, thiết thực của môn học....................................................20
3.2. Đề xuất biện pháp.......................................................................................20
TÓM TẮT CHƯƠNG 3..........................................................................................21
KẾT LUẬN.............................................................................................................22
Tài liệu tham khảo...................................................................................................23
LỜI CẢM ƠN
Qua bài chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn tới các thầy cô trường Đại học
Công nghiệp TP. Hồ Chí Minh, các thầy cô khoa kinh tế. Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn
chân thành tới thầy Lê Duy Thành đã dạy cho em và các bạn kiến thức bổ ích, giúp em
hoàn thành tốt bài chuyên đề này.
Tuy nhiên, dù đã cố gắng tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu, nhưng do thời gian còn hạn
hẹp, đề tài đòi hỏi phân tích kiến thức tổng hợp cao, kinh nghiệm còn chưa nhiều, nhất là
trong việc tìm kiếm tài liệu, nên bài chuyên đề của em không khỏi tránh được những
thiếu sót, mong có sự đóng góp của thầy và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
LỜI MỞ ĐẦU
-
-
-
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt 3 năm học chúng ta đã được học rất nhiều môn từ căn bản đến chuyên
ngành, mỗi môn học đều mang lại cho chúng ta những kiến thức quan trọng tạo nền
tảng vững chắc, trang bị kiến thức cho chúng ta để làm việc thực tế. Trong đó em
thích nhất là môn học kinh tế vĩ mô. Bởi Môn kinh tế vĩ mô cung cấp các kiến thức
nền về kinh tế học trước khi chúng ta học các môn chuyên ngành kinh tế và qua môn
học sẽ giúp cho chúng ta biết được mô hình nền kinh tế quốc dân và hoạt động của
nền kinh tế. Ngày nay nền kinh tế trên thế giới nó chung và nước ta nói riêng luôn
gặp phải những vấn đề lạm phát, suy thoái, thất nghiệp....vì vậy các doanh nghiệp
nên có một cái nhìn đúng đắn về nền kinh tế để hoạch định chiến lược phát triển cho
doanh nghiệp của mình. Chính vì vậy, em chọn môn học kinh tế vĩ mô làm chuyên
đề môn học, một môn học thú vị.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống hóa những cơ sở lý luận về kinh tế vĩ mô.
Phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở nước ta
Đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu môn học kinh tế vĩ mô
Tình hình lạm phát ở nước ta
4. Phạm vi nghiên cứu
thời gian thực hiện: từ 5/11/2011 đến 5/12/2011
phạm vi nghiên cứu : tình trạng lạm phạt ở nước ta, các số liệu của cục thống kê từ
nam 2008 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích
Phương pháp thống kê
- Phương pháp diễn dich
6. Kết cấu chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, mục lục đề tài gồm 3 phần chính:
Chương 1: Tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô
Chương 2: Phân tích thực trạng tình hình lạm phát ở Việt Nam
Chương 3: Nhận xét và đánh giá môn học .
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN MÔN HỌC KINH TẾ VĨ MÔ
Môn học gồm 7 chương:
Chương 1: khái quát về kinh tế vĩ mô
Mô tả môn học : Kinh tế vĩ mô là môn học kinh tế học căn bản cung cấp cho sinh
viên kiến thức đại cương về mô hình nền kinh tế quốc dân và hoạt động của nền kinh
tế. Nội dung môn học gồm cách tính tổng sản lượng quốc gia; sản xuất và tăng
trưởng; tổng chi tiêu và sản lượng quốc gia; những dao động của tổng chi tiêu; tổng
cầu và tổng cung; tiền tệ, ngân hàng, giá cả và lãi suất; cung-cầu lao động và thất
nghiệp; lạm phát; chính sách tài chính và chính sách tiền tệ và tìm hiểu về tỉ giá hối
đoái và cán cân thanh toán.
Vị trí và mục đích của môn học
Môn kinh tế vĩ mô cung cấp các kiến thức nền về kinh tế học trước khi sinh viên học
các môn chuyên ngành kinh tế. Kinh tế vi mô và kinh tế vĩ mô là môn học kinh tế đại
cương nền tảng cho các môn kinh tế ứng dụng và các môn về kinh tế kinh doanh
được dạy cho sinh viên chuyên ngành kinh tế, phát triển nông thôn.
Mục đích:Cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản về nguyên lý kinh tế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước.
Chương 2: Hạch toán thu nhập quốc dân
Hệ thống kế toán thu nhập quôc dân là thước đo của tổng sản phẩm và thu nhập
hàng năm. Nó cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả kinh tế cũng như việc hiểu biết về
các thành phần kinh tế tác động với nhau như thế nào. Phương pháp đo toàn diện
nhất đối với sản phẩm của chúng ta là GDP và GNP. Sự khác biệt giữa GDP và GNP
đó là : GDP là giá trị tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trên lãnh
thổ một nước, còn GNP là giá trị tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do công dân 1
nước sản xuất ra.
Hố cách GDP và số nhân
Hố cách GDP: sự khác biệt hay chênh lệch giữa chi tiêu ở mức GDP cân bằng với
GDP ở mức toàn dụng
Hố cách suy thoái: chênh lệch của mức chi tiêu mong muốn theo sản lượng toàn
dụng thấp hơn mưc sản lượng toàn dụng.
Hố cách lạm phát: chênh lệch cua mức chi tiêu mong muốn theo mức sản lượng
toàn dụng vượt qua mức sản lượng toàn dụng.
Số nhân đơn giản: là số nhân theo đó một sự thay đổi ban đầu của chi tiêu sẽ tạo
ra một sự thay đổi chi tiêu được hình thành sau một loạt các vòng chi tiêu kéo theo.
Điều chỉnh hố cách:
Theo quan điểm của Keynes cần có sự can thiệp của chính phủ
Theo quan điểm cổ điển không cần sự can thiệp của chính phủ
GDP là chỉ tiêu tốt về phúc lợi kinh tế nhưng nó không phải là chỉ tiêu hoàn hảo
về phúc lợi. Vì một số yếu tố tốt đẹp như thời gian nghỉ ngơi sẽ bị loại bỏ ra khỏi
GDP. Tổng Thu nhập của các gia đình, công ty, chính phủ cung cấp sức mua để mua
sản phẩm. Khi sức mua được sử dụng, GDP cũng được sáng tạo thêm và quá trình
sản xuất mới được tiếp tục.
Chương 3 Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về lạm phát – thất nghiệp
Lạm phát là hiện tượng giảm mãi lực của đồng tiền. Điều này cũng đồng nghĩa với
“vật giá leo thang”, giá cả hàng hóa, dịch vụ tăng cao khiến với cùng một số lượng
tiền, người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn hoặc phải trả một giá cao hơn để
hưởng cùng một dịch vụ. Một khái niệm khác về lạm phát là khối lượng tiền được
lưu hành trong dân chúng tăng lên do nhà nước in và phát hành thêm tiền vì những
nhu cầu cấp thiết (chiến tranh, nội chiến, thâm thủng ngân sách v.v...). Trong khi đó,
số lượng hàng hoá không tăng khiến dân chúng cầm trong tay nhiều tiền quá sẽ tranh
mua khiến giá cả tăng vọt có khi đưa đến siêu lạm phát. Những ví dụ cùng cực nhất
của siêu lạm phát đã xảy ra tại Đức trong những năm đầu thập niên 1920 khi tỉ lệ lạm
phát lên tới 3.25 x 106 mỗi tháng, có nghĩa là giá cả tăng gấp đôi mỗi 49 tiếng đồng
hồ hoặc tại Hungary sau Thế chiến thứ hai với tỉ lệ lạm phát 4.19 x 1016 (giá cả tăng
gấp đôi mỗi 15 giờ đồng hồ).
Để đo lường tỉ lệ lạm phát, người ta thường dùng hai chỉ số:
Chỉ số giá cả sản xuất PPI (Producer Price Index): Đây là chỉ số giá thành sản
xuất của một số mặt hàng và dịch vụ tiêu biểu. Mang so sánh với thời kỳ trước để tính
ra tỉ lệ tăng giảm như thế nào. Chỉ số PPI tuy có thể là dấu báo hiệu hiện tượng lạm
phát nhưng chưa hẳn lạm phát sẽ bắt buộc phải xảy ra.
Chỉ số giá cả tiêu thụ CPI (Consumer Price Index): chỉ số giá cả của một số nhu
yếu phẩm và dịch vụ tiêu biểu. Chỉ số CPI cho biết tỉ lệ lạm phát thật sự đang xảy ra
khi so sánh với thời kỳ trước đó. Ảnh hưởng của lạm phát đối với nền kinh tế Lạm
phát khó có thể là một điều tốt lành cho nền kinh tế trừ trường hợp ở mức độ nhẹ và
trong tầm kiểm soát của chính phủ. Ví dụ, hàng năm chính phủ có thể phát hành thêm
một lượng tiền mới để tiêu xài cho những chương trình công cộng hoặc giải quyết
thiếu hụt ngân sách khiến đồng tiền được xoay vòng tạo ra thêm của cải, trực tiếp đẩy
cao tổng sản lượng quốc dân GDP (Gross Domestic Product) lên thêm một mức. Dĩ
nhiên nếu quá đà sẽ có nguy cơ gây ra lạm phát nặng hoặc siêu lạm phát và làm các
hoạt động kinh tế sẽ bị tê liệt. Nhiều người quan niệm việc chính phủ in thêm tiền
trong giới hạn cho phép của nền kinh tế là một hình thức thu “thuế lạm phát”. Chính
phủ sử dụng khoản phụ trội này để quân bình ngân sách với hi vọng sang năm kinh tế
tiếp tục phát triển sẽ được nộp ngân sách nhiều hơn. Một chút lạm phát cũng khiến
doanh nghiệp kiếm thêm lợi nhuận vì thông thường từ khâu nhập nguyên liệu (giá
trước lạm phát) đến lúc hoàn thành sản phẩm bán được cao giá hơn cũng tốt thêm cho
doanh
vụ.
Ngoài những trường hợp kể trên, bao giờ lạm phát cũng có ảnh hưởng xấu đối với
kinh tế. Tỉ lệ lạm phát bao nhiêu là vừa phải cũng tùy thuộc vào tình hình phát triển
kinh tế của từng nơi, đặc điểm của nền kinh tế của từng quốc gia khác nhau. Theo lẽ
thông thường thì tỉ lệ lạm phát nếu giữ được ở mức thấp hơn tỉ lệ phát triển kinh tế thì
là điều tốt. Do đó, các quốc gia đang ở giai đoạn kinh tế cất cánh (tỉ lệ phát triển xấp
xỉ 10%) có thể chấp nhận một tỉ lệ lạm phát cao hơn các quốc gia đã phát triển (tỉ lệ
phát triển dưới 5%)
Nguyên nhân đưa đến lạm phát
Có nhiều trường phái kinh tế khác nhau đưa ra các lý thuyết về nguyên nhân đưa đến
lạm phát, trong số đó trường phái Neo-Keynesian có vẻ được chấp nhận hơn cả với
“mô hình tam giác” nói lên ba dạng lạm phát chính và những nguyên nhân của nó:
• Lạm phát do nhu cầu tăng (Demand-pull inflation).Lạm phát do nhu cầu sản xuất
và dịch vụ (gọi chung là Tổng Thu Nhập Quốc Dân GDP) tăng trong khi tỉ lệ thất
nghiệp còn thấp. Còn gọi là Phillips Curve - đường cong Phillips. Nói cách khác là
khi nhu cầu kinh tế tăng mà thị trường lao động bị hạn chế sẽ gây lạm phát.
• Lạm phát do đột biến giá cả (Cost-push inflation).Giá cả một số nguyên vật liệu
trọng yếu, ví dụ giá dầu hoả, tăng cao bất thường có thể đưa đến lạm phát vì hiện
tượng dây chuyền, các mặt hàng khác sẽ tăng theo.
• Lạm phát sẵn có tự nhiên (Built-in inflation).Lạm phát sẵn có, liên quan đến hiện
tượng “vòng xoắn giá/lương” (price/wage spiral) nghĩa là hiện tượng công nhân luôn
luôn muốn được trả lương cao hơn (dĩ nhiên rồi), chủ bắt buộc phải trả thêm vì
không tìm đâu ra công nhân nữa, kinh tế phát triển nên ai cũng có công ăn việc làm
cả rồi. Người chủ muốn chuyển chi phí phụ trội này qua người tiêu thụ nên tăng giá
sản phẩm lên. Công nhân, đồng thời là người tiêu thụ, thấy giá lên lại đòi lương cao
hơn nữa. Cái vòng luẩn quẩn này cuối cùng gây ra lạm phát. Cả ba dạng này có thể
cộng hưởng và tạo ra mức lạm phát hiện hành của nền kinh tế của một quốc gia.
Tác hại của lạm phát đối với kinh tế
Đối với các quốc gia đang phát triển, tác hại dễ thấy nhất là lạm phát phủ định
(negate) tăng trưởng kinh tế nếu bằng hay cao hơn tăng trưởng kinh tế. Ví dụ theo
World Factbook, nếu một nền kinh tế tăng trưởng kinh tế ở mức 8.4% nhưng tỉ lệ
lạm phát lên tới 8.3%. Như vậy, trung bình người dân có thu nhập cao hơn 8.4%
nhưng đời sống sinh hoạt mắc hơn 8.3% cùng thời kỳ thì coi như cũng không tích lũy
được gì. Tiêu chuẩn đời sống không được cải thiện bao nhiêu. Nếu không có biện
pháp ngăn chận, lạm phát sẽ làm tê liệt dần bộ máy kinh tế vì doanh nhân sẽ không
thiết tha hoạt động sản xuất nữa vì không có lợi nhuận. Tâm lý chung sẽ chỉ mua bán
“chụp giựt” và chuyển tài sản thành kim loại quý hay ngoại tệ mạnh để tránh lạm
phát. Điều này rõ ràng không có lợi cho sự xoay vòng của đồng tiền để phát triển nền
kinh tế.
Đối với các quốc gia công nghiệp (industrialized countries) mà xã hội đã chuyển qua
dạng xã hội tiêu thụ rồi thì lạm phát tác hại theo một qui trình 3 bước:
- Lạm phát
- Giảm phát
- Suy thoái kinh tế
Thất nghiệp
Là tình trạng người trong lực lượng lao động không tìm được việc làm. Có 2 loại thất
nghiệp:
Thất nghiệp tự nhiên
Thất nghiệp chu kỳ.
Sự mất mát kinh tế vĩ mô do nạn thất nghiệp gây ra là sản lượng hàng hóa và dịch vụ
bị giảm sút. Luật Okun giả thiết rằng cứ 1% thất nghiệp sẽ làm giả sút 2% sản lượng.
Cái giá mà con người phải trả cho thất nghiệp không chỉ bao gồm các mất mát tài
chính ngoài ra còn bao gồm cả những sự trả giá về tâm lý, thể chất và xã hội.
Muốn giảm thất nghiệp chu kỳ cần áp dụng chính sách chống suy thoái, muốn giảm
thất nghiệp tự nhiên cần phải tạo thuận lợi cho người lao động trong quá trình tìm
viêc.
Luôn luôn có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp nhưng không có sự
đánh đổi trong dài hạn.
Chương 4: Chính sách tài chính
Chính sách tài chính là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi chi tiêu
hoặc thuế để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Chính sách tài chính bao gồm 2 công cụ
là chi tiêu và thuế.
Thất bại vĩ mô xảy ra khi các mức chi tiêu mong muốn không bằng với giá trị sản
xuất ở điều kiện làm việc đầy đủ gây ra thất nghiệp và lạm phát. Việc chi tiêu của người
tiêu dùng bị ảnh hưởng bởi các nhân tố ngoài thu nhập và thu nhập hiện có. Việc tiết
kiệm của người tiêu dùng biểu hiện bằng sự rò rỉ của luồng luân chuyển. Đó là nhừng
luồng tiền không quay lại thị trường sản phẩm, thuế và nhập khẩu cũng làm rò rỉ tiền ra
khỏi nền kinh tế. Những khoản rò rỉ đó được bù lại bằng các khoản đầu tư, chi tiêu của
chính phủ và xuất khẩu. Mất cân bằng trong chi tiêu sẽ gây ra lạm phát và thất nghiệp,
không có sự điều chỉnh tự động nào để trở lại mức việc làm đầy đủ.
Chính sách thuế của chính phủ không trực tiếp tác động lên tổng cầu, nó gián tiếp
làm thay đổi tổng cầu thông qua việc làm thay đổi hành vi của khu vực tư nhân. Khi
chính phủ thay đổi thuế thì tác động đầu tiên của nó là làm thay đổi thu nhập sử dụng của
mọi người.
Theo lý thuyết Keynes, nền kinh tế không thể tự cân bằng và ổn định được chính
vì vậy cần có sự can thiệp của chính phủ. Những chính sách tài chính của chính phủ đề
cập tới cách dùng thuế và chi tiêu chính phủ như thế nào để đạt được kết quả vĩ mô như
mong muốn. Mục tiêu của chính sách tài chính là lấp đầy khoảng cách GDP, khi sử dụng
chính sách tài chính thì ngân sách của chính phủ có thể thăng dư, thâ hụt hay cân bằng
một cách ngẫu nhiên.Trong thực tế, đôi khi chính sách tài chính sẽ gây ra sự khó khăn
trong nền kinh tế chính vì vậy một số nhà kinh tế cho rằng nên sử dụng cơ chế tự ổn định
như thuế và trợ cấp để hạn chế phần nào sự biến động của nền kinh tế.
Chương 5: Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ
Tiền: một cách khái quát, là những gì được thừa nhận chung để làm trung
gian cho việc mua bán hàng hóa.
Sử dụng tiền: trung gian trao đổi, dự trữ giá trị, đơn vị tính toán
Loại tiền: tiền hàng, tiền pháp lệnh
Trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ đảm nhận chức năng cơ bản trong việc tạo
thuận lợi cho việc trao đổi và chuyên môn hóa, do vậy cho phép tăng sản lượng. Ngân
hàng trung ương có năng lực tạo ra tiền tệ bằng cách cho vay. Trong việc cấp các khoản
vay, ngân hàng tạo nên các khoản tiền gửi giao dịch mới mà chúng sẽ trở thành một phần
của cung tiền tệ. Tiềm năng tạo tiền của mỗi ngân hàng đều bị giới hạn bởi các qui định
của chính phủ. Ngân hàng TW kiểm soát tiền tệ của mỗi quốc gia bằng 3 công cụ cơ bản
đó là tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Theo quan điểm của phái Keynes, nhu cầu về tiền là quan trọng. Nhu cầu này phản
ánh mong muốn giữ tiền cho các mục đích giao dịch, đầu tư và dự phòng. Tác động qua
lại giữa cung và cầu tiền tệ quyết định lãi suất cân bằng.
Chính sách tiền tệ là khái niệm dùng để chỉ việc chính phủ thay đổi cung tiền hoặc
lãi suất để ổn định hoạt động của nền kinh tế. Cơ quan hoạch định chính sách tiền tệ là
chính phủ hoặc ngân hàng TW, nhưng cơ quan thực thi chính sách tiền tệ luôn luôn là
ngân hàng TW.
Sự gia tăng cung ứng tiền làm giảm lãi suất cân bằng, ngược lại giảm cung ứng
tiền sẽ làm tăng lãi suất cân bằng. Để chính sách tiền tệ phát huy hết tác dụng, lãi suất
phải thể hiện được hết những thay đổi trong cung tiền và chi tiêu đầu tư phải phản ứng
được với những thay đổi trong lãi suất. Không có điều kiện nào được đảm bảo. Trong
tính trạng bẫy thanh khoản, người ta muốn giữ tiền không hạn chế ở mức lãi suất thấp
nào đó. Lãi suất sẽ không giảm xuống mức thấp này khi cung tiền tăng cao. Hơn nữa kỳ
vọng của nhà đầu tư sẽ làm thay đổi quyết định đầu tư.
Để chống thất nghiệp, chính phủ cũng có thể sử dụng chính sách tiền tệ. Trong
trường hợp này chính phủ phải thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, thông qua việc mua
trái phiếu chính phủ, giảm lãi suất chiết khấu hoặc cắt giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tuy
nhiên, họ phải trả giá cho thành công này bằng mức lạm phát cao hơn.
Mặc dù các đòn bẩy tài chính có vẻ ấn tượng nhưng trên thực tế trong nền kinh tế
thì không được tốt lắm. Thất nghiệp và lạm phát gia tăng khó có thể thực hiện các chính
sách tài chính nêu ra trên lý thuyết. Ở một chừng mực nào đó, sự thất bại của chính sách
kinh tế còn phản ánh các nguồn lực khan hiếm và những mục tiêu mang tính cạnh tranh.
Ngoài ra còn tồn tại những vấn đề về đo lường, lập kế hoạch và vần đề thực thi.
Chương 6: Thương mại quốc tế
Thương mại quốc tế cho phép mỗi quốc gia chuyên môn hóa trong phạm vi của
hiệu quả tương đối, làm tăng sản lượng thế giới. Với mỗi quốc gia, lợi ích thu được từ
thương mại phản ánh qua khả năng tiêu thụ vượt quá khả năng sản xuất .
Tỷ giá thương mại sẽ nằm đâu đó giữa chi phí cơ hội của các đối tác buôn bán. Tỷ
giá thương mại xác định lợi ích thu được từ thương mại như thế nào. Rõ ràng, một quốc
gia chỉ tham gia thương mại khi tỷ giá thương mại tốt hơn đối với các cơ hội trong nước
Sự chống lại do tự do hóa thương mại phát sinh từ công nhân và các doanh nghiệp sản
xuất cạnh tranh với nhập khẩu,do việc nhập khẩu sẽ là cho công việc ít đi và thu nhập sản
xuất trong nước cũng ít đi.
Hàng rào thương mại có nhiều hình thức: hạn ngạch hạn chế số lượng hàng
hóa xuất khẩu hay nhập khẩu, thuế quan kiềm chế nhập khẩu bằng cách làm cho mọi
thứ đắt đỏ lên, các hàng rào phi thuế quan khác cũng làm cho thương mại đắt hơn
hoặc tốn thời gian hơn. Các chính sách bảo hộ của chính phủ sẽ tạo ra những tổn thất vô
ích cho nền kinh tế, đặc biệt là hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực cho nền kinh
tế. Chính sách bảo hộ làm cho các doanh nghiệp trong nước không chịu đổi mới, cải tiến
nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó chính sách bảo hộ cũng mang
lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế như: tăng giá hàng hóa làm hạn chế tiêu dùng các mặt
hàng xa xỉ phẩm, bảo hộ các ngành non trẻ trong nước, bảo vệ lao động nội địa. Ngoài
ra,một quốc gia cần được bảo hộ nhằm đề phòng các mối quan hệ xấu về chính trị giữa
các nước.
Có 3 loại tỷ giá: tỷ giá thả nổi, tỷ giá cố định, tỷ giá thả nổi có quản lý. Trong cơ
chế tỷ giá cố định, nếu ngân hàng TW muốn tăng tỷ giá thì phải mua ngoại tệ vào và
ngược lại. Tỷ giá hối đoái thay đổi sẽ tác động đến xuất nhập khẩu hàng hóa, giá hàng
hóa trong nước và nợ nước ngoài.
Chương 7: Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng thực. Trong đó tăng trưởng ngắn hạn
có thể là do sự gia tăng trong việc sử dụng năng lực sản xuất. Tuy nhiên, trong dài hạn
cần phải có sự gia tăng trong bản thân năng lực. Các thước đo cơ bản của tăng trưởng
kinh tế là GDP, GNP hoặc các chỉ tiêu bình quân đầu người. Cùng với thời gian, tăng
năng suất gắn liền với tăng mức sống.
Tăng trưởng nhanh giúp cho mức sống tăng nhanh nhưng nó cũng tạo ra những tác
động khác có hại cho nền kinh tế chính vì vậy, chúng ta cần cân nhắc để tiến tới sự tăng
trưởng bền vững. Khó khăn của các nước đang phát triển là vốn đầu tư thấp, dân số tăng
nhanh nhưng chất lượng lao động lại kém. Thương mại quốc tế chủ yếu dựa vao nông
nghiệp là chính. Các chính sách của chính phủ có thể khuyến khích tăng trưởng kinh tế
theo nhiều cách: khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy
giáo dục, kiểm soát mức tăng dân số và thúc đẩy nghiên cứu khoa học.
Các nước kém phát triển đều thiếu lao động có tay nghề cao và trình độ quản lý
vốn, công nghệ. Mặc dù tiết kiệm trong nước có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư một vài lĩnh
vực nhưng vẫn cần phải có nguồn đầu tư từ nước ngoài. Để đi tìm một ngành chủ lực để
phát triển, các nước phải lựa chọn giữa khuyến khích xuất khẩu và thị trường trong nước.
Xuất khẩu thu được ngoại tệ nhưng phải đương đầu với nhiều bất ổn. Mặt khác, sản xuất
cho thị trường trong nước có thể dẫn tới chi phí cao và nhu cầu hạn hẹp. tăng trưởng kinh
tế chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để phát triển kinh tê. Một quốc gia phát triển chậm
nhưng một phần nào đó vẫn có thể cải thiện được tình trạng phát triển thấp bằng các
chính sách xã hội.
Đánh giá sự phát triển kinh tế được thực hiện theo 3 khía cạnh: tăng trưởng kinh
tế, chuyển dịch cơ cấu,các yếu tố xã hội khác. Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất
cho việc thực hiện mục tiêu phát triển. chuyển dịch cơ cấu kinh tế là dấu hiệu phản ánh
sự biến đổi về chất và các chỉ tiêu xã hội chính là mục tiêu cuối cùng cần đạt tới.
Các chỉ số xã hội được thể hiện trên các khía cạnh: mức độ đảm bảo nhu cầu của
con người, mức độ nghèo đói và trình độ dân trí.
TÓM TẮT CHƯƠNG 1
Chương 1 đã hệ thống hóa một cái nhìn tổng quan về môn học kinh tế vĩ mô, cụ thể
như:
-
Hạch toán thu nhập quốc dân
Lạm phát- thất nghiệp
Chính sách tài chính
Tiền tệ ngân hàng và chính sách tiền tệ
Thương mại quốc tế
Tăng trưởng kinh tế
Đó là cơ sở giúp cho việc phân tích ở chương 2
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng lạm phát của Việt Nam trong thời gian qua
2.1.1. Nguyên nhân dẫn đến lạm phát
Một trong những yếu tố cơ bản để đánh giá sự ổn định của nền kinh tế là vấn đề lạm phát
được tính trên sự biến động của chỉ số giá tiêu dùng. Theo đánh giá của cục thống kê
DIỄN BIẾN CHỈ SỐ GIÁ 10 THÁNG ĐẦU NĂM 2011
3.50%
3.32%
3.00%
2.50%
1.50%
2.20%
2.17%
2.09%
2.00%
1.74%
1.17%
1.09%
1.00%
0.93%
0.82%
0.50%
0.00%
1
0.36%
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Nhìn vào biểu đồ ta thấy: Lạm phát của nước ta trong quý I đầu năm nay tăng rất
cao,nhưng từ quý 2 tới nay chỉ số giá đều giảm chỉ tăng nhẹ vào tháng 7. Điều này chứng
tỏ những chính sách tiền tệ với những điều chỉnh khá linh hoạt của Ngân Hàng nhà nước
mà chính phủ áp dụng đã có hiệu quả. Theo dự báo thì CPI của tháng 11 sẽ tăng tương
đương với tháng 10. Lạm phát tăng làm cho đời sống của người dân gặp khó khăn hơn,
các doanh nghiệp thì lâm vào tình trạng phá sản hoặc đang cố gắng để không phải rơi vào
tình trạng phá sản
Trong điều kiện kinh tế thế giới và VN hiện nay, lạm phát tăng nhanh ở VN có thể giải
thích bởi các lý do như:
Thứ nhất, do leo thang giá cả các mặt hàng tiêu dùng. Sự tăng mạnh nhu cầu ở các
nước đang phát triển nói chung và VN nói riêng trong khi cung ứng suy giảm do tác động
của sự sụt giảm nền kinh tế thế giới.
Thứ hai, do su thế leo thang của nền kinh tế thế giới và sự mất giá của đồng USD. Đối
với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước có cán cân thanh toán và dự trữ phụ
thuộc nhiều vào đồng đôla, sự mất giá của USD tác động trực tiếp đến giá cả nội địa.
Thực tế cho thấy , khi giá đôla giảm đã khiễn cho giá dầu tăng kỷ lục đưa xu thế tăng giá
chung ở hầu hết các quốc gia không có chính sách kìm chế giá.
Thứ ba, do hạn chế nguồn tín dụng sản xuất. Những tháng qua, ngân hàng nhà nước
liên tục thay đổi lãi suất, yêu cầu ngân hàng nhà nước phải mua lại trái phiếu nhà nước…
trên thực tế đây là biện pháp nhằm làm giảm dòng tiền tệ lưu thông và kiềm chế việc tăng
giá. Tuy nhiên, việc làm này có hại nhiều hơn là có lợi. Lý do là, khi giảm lãi suất, dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước sẽ gia tăng rất khó kiểm soát với tỷ giá hối đoái
thả nổi như hiện nay, các ngân hàng có thể sử dụng để cho vay vốn đầu tư như vậy lượng
tiền vẫn tăng nhanh, lạm phát tăng là điều tất nhiên.
Thứ tư, do trong tình trạng thiếu hụt nguồn cung, phải nhập khẩu từ nước ngoài,
trong đó đáng lưu ý có các mặt hàng mà một nước đi lên từ nông nghiệp phải nhập khẩu
lớn như thủy sản, sữa và sản phẩm sữa, rau quả, ngô, dầu mỡ động thực vật, thức ăn gia
súc và nguyên phụ liệu, cao su, gỗ và nguyên phụ liệu, đường, thịt; mà một nước có bờ
biển dài nhưng phải nhập muối; một nước có tỷ lệ xuất khẩu/GDP cao, nhưng do tính gia
công, lắp ráp cao mà nhập khẩu nguyên phụ liệu lớn, như nguyên phụ liệu dệt may, giày
dép, chất dẻo nguyên liệu, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; một số loại hàng
tiêu dùng có kim ngạch lớn, như điện thoại các loại và linh kiện, ô tô nguyên chiếc, xe
máy nguyên chiếc, hóa mỹ phẩm... lên đến mấy tỷ USD
Xét tổng quát là sản xuất trong nước chưa đủ cho đầu tư và tiêu dùng cuối cùng, hay đầu
tư và tiêu dùng vượt qua sản xuất lên đến trên dưới 10% hàng năm, phải nhập siêu, phải
vay nợ từ nước ngoài để bù đắp.
Khi tổng cầu vượt quá tổng cung thì Việt Nam không chỉ ở vị thế nhập siêu, mà còn rất
dễ rơi vào lạm phát cao, nếu có sự bất ổn ở bên ngoài (khủng hoảng, lạm phát...) và có
trục trặc ở bên trong (thiên tai, dịch bệnh, bất ổn vĩ mô...).
Tiêu dùng cuối cùng/GDP của Việt Nam cao và tăng lên, có một phần do quy mô GDP
bình quân đầu người thấp, có một phần do tiêu dùng có xu hướng tăng lên; nhưng có một
phần do đã xuất hiện tình trạng “ăn chơi sớm” và chuộng hàng ngoại của một bộ phận
dân cư.
Do đầu tư và tiêu dùng cuối cùng vượt xa so với GDP, nên nhập siêu tăng lên qua các
thời kỳ (thời kỳ 1996-2000 mới gần 9,4 tỷ USD, đã tăng lên trên 19,1 tỷ USD thời kỳ
2001-2005 và tăng lên gần 62,8 tỷ USD thời kỳ 2006-2010).
Sự ra tăng lạm phát ở VN hiện nay không xuất phát từ việc mất cân đối trong cấu trúc của
nền kinh tế, mà là kết quả của sự suy thoái kinh tế toàn cầu và sự tăng giá xăng dầu và
các mặt hàng lương thực.
2.2. Nhận xét tác động của lạm phát tới nền kinh tế
2.2.1. Tác động của lạm phát tới lĩnh vực sản xuất
Trước áp lực lạm phát, các doanh nghiệp gặp khó khăn toàn diện trên mọi mặt
như: áp lực về giá cả nguyên liệu, tiếp cận nguồn vốn khi nhà nước sắt chặt tiền tệ, sức
mua của người dân giảm. đẩy nhiều doanh nghiệp rơi vào tình cảnh tồn tại một cách cầm
cự, hoặc thực chất “khoảng 30% doanh nghiệp Việt Nam đóng cửa được rồi”.
2.2.2 Tác động hoạt động của ngân hàng
Lạm phát làm cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy
động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng của mình chạy qua ngân hàng khác,
thì phải nâng lãi suất huy động. Nhưng nâng bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối
với mỗi ngân hàng. Cuộc chạy đua lãi suất huy động của các ngân hàng làm cho lãi suất
tăng cao lên tới 17-18% năm, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần lãi suất tín dụng,
kinh doanh lỗ lớn nhưng vẫn phải thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống
NHTM. Lạm phát tăng cao, ngân hàng nhà nước buộc phải áp dụng chính sách thắt chặt
tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh
nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít
khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ
rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao,
điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện.
Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn
có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu
vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn
để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này
đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá
xảy ra là điều khó tránh khỏi.
2.2.3 Ảnh hưởng của lạm phát tới đời sống của người dân
Nguyên nhân dẫn tới lạm phát tăng cao là do chỉ số giá tiêu dùng tăng liên tục.
Làm cho đời sống của người dân gặp rất nhiều khó khăn đặc biệt là những người có thu
nhập thấp, những người làm công ăn lương có mức lương cố định, giá cả tăng cao làm
cho chi tiêu trong gia đình tăng lên. Với mức thu nhập hàng tháng của nhiều người bây
giờ không đủ trang trải cho cuộc sống, tuy nhà nước đã quyết định tăng lương nhưng mức
lương tăng không đủ đáp ứng cho mức tăng giá. Những bà nội chợ sẽ giảm bớt khẩu phần
trong mỗi bữa ăn xuống, hạn chế tối đa việc mua sắm cho gia đình, sinh viên gặp khó
khăn trong việc tiêu dùng hàng ngày và tiền đóng học phí…. Họ không đủ khả năng chi
trả cho những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống, làm cho người nghèo đã nghèo lại
càng nghèo hơn.
Lạm phát cũng có tác động khác nhau tới những người tiêu dụng có thu nhập khác
nhau( người có thu nhập cao, người thu nhập thấp) và cách thức chi tiêu cũng khác nhau.
Thay vì những người có thu nhập cao khi không lạm phát người ta sẽ nghĩ đến việc mua
ô tô, đi du lịch, ăn nhà hàng… nhưng trong tình trạng lạm phát thì người ta lại dốc hết
cho ăn uống và một chút cho việc mua sắm quần áo. Tuy nhà nước có chính sách bình ổn
giá nhằm giúp những người thu nhập thấp giảm bớt gánh nặng trong việc chi tiêu nhưng
thực tế điều đó đã đi ngược, người thu nhập thấp không được hưởng mà những người thu
nhập cao lại được hưởng nhiều hơn.
2.3. Một số giải pháp nhằm kiếm chế lạm phát tại Việt Nam
Để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn liền với chủ chương dân giàu nước
mạnh của Đảng và Nhà nước ta đề ra. Thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020, thì vấn đề chống lạm phát và
kiềm chế lạm phát ở con số hợp lý luôn là bài toán khó đối với nhà nước ta. Mặc dù trong
những năm trở lại đây các biện pháp kiềm chế lạm phát luôn được áp dụng một cách khá
hiệu quả nhưng nguy cơ tái lạm phát vẫn ở mức cao. Để kiềm chế và kiểm soát lạm phát
có hiệu quả cần áp dụng đồng bộ các biện pháp như: Đẩy mạnh phát triển sản xuất, giảm
chi phí sản xuất và lưu thông, thực hiện tiết kiệm chi tiêu, tăng nguồn vốn dự trữ, tạo sự
cân đối trong nền kinh tế,... Đồng thời phải đẩy mạnh cơ chế quản lý của nhà nước trong
việc kiểm soát thị trường. Vậy để kiềm chế lạm phát cần thực hiện các giải pháp sau:
Trước mắt, chúng ta nên ổn định giá cả: do sự không công bằng, lo lắng và
những mất mát thực tế do lạm phát gây ra thì đây chính là một biện pháp đúng đắn. Mục
tiêu này giữ cho tỷ lệ lạm phát và mục tiêu việc làm ở một mức độ phù hợp. Tăng cường
giám sát và quản lý việc bình ổn giá cả thị trường nhằm đảm bảo quyền lợi của người
tiêu dùng. Theo dự báo, thị trường hàng hóa các tháng còn lại của năm 2011 có thể diễn
biến phức tạp, chịu tác động bởi nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, trong đó đáng chú
ý là áp lực lạm phát đang nổi lên, nhất là đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Tình
hình sản xuất kinh doanh tiếp tục khó khăn do mặt bằng lãi suất còn cao, chi phí đầu vào
cao... Dự kiến tổng mức bán lẻ năm 2011 tăng khoảng 22% so với năm 2010, đạt 1.880
nghìn tỷ đồng.
Để thực hiện mục tiêu khống chế mức tăng giá năm 2011 khoảng 18%, trong những
tháng tới, nhiệm vụ điều tiết cung cầu và bình ổn thị trường giá cả sẽ còn nặng nề và
phức tạp. Vì vậy, Bộ Công thương cho rằng cần triển khai thực hiện các giải pháp như:
Tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương theo dõi sát diễn biến cung cầu
hàng hóa, giá cả, thị trường; chủ động và linh hoạt có các biện pháp điều tiết cung cầu và
bình ổn thị trường nhằm bảo đảm sản xuất, đáp ứng nhu cầu của xã hội, không để xảy ra
thiếu hàng, sốt giá, góp phần kiềm chế lạm phát.
Bên cạnh đó là tiếp tục thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nội địa để góp
phần bình ổn thị trường; phối hợp với Liên minh Hợp tác xã trong việc tiêu thụ hàng hóa
công nghiệp và nông nghiệp. Tăng cường kiểm soát thị trường, đảm bảo cung ứng tốt
những mặt hàng trọng yếu như xăng dầu, phân bón, sắt thép, giấy in, xi măng, gạo, dược
phẩm...; đồng thời, xử lý nghiêm các hành vi đầu cơ, găm hàng, tăng giá, gian lận thương
mại, niêm yết giá và bán theo giá niêm yết, kiểm soát chặt chẽ chất lượng hàng hóa và vệ
sinh an toàn thực phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thứ hai, cần áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm lượng tiền giấy lưu thông
trong nền kinh tế như ngừng việc phát hành tiền. Biện pháp này gọi là đóng băng tiền tệ.
Nhà nước không nên phát hành tiền để bù đắp bội chi ngân sách, mà cần áp dụng các biện
pháp như: phát hành trái phiếu chính phủ, tăng lãi suất tiền gửi tiết kiệm của người dân
nhằm thu hút lượng lớn tiền nhàn rỗi của dân chúng trong một thời gian ngắn. Kiểm soát
chặt chẽ trong việc tăng lãi suất của các ngân hàng, khống chế mức lãi suất vay cố định
để các doanh nghiệp có thể vay .
Kiểm soát chặt chẽ thị trường vàng và đôla, hạn chế việc tự ý tăng giá vàng của
các ngân hàng làm cho giá vàng trong nước luôn luôn cao hơn giá vàng trên thế giới,
khuyến khích người dân gửi tiết kiệm vàng. Vì nước ta luôn luôn phải nhập khẩu vàng
trong khi đó lượng vàng mà người dân giữ là rất lớn, cần có biện pháp để thu hút nguồn
vàng từ dân cư để hạn việc nhập khẩu vàng bên cạnh đó cũng thu hút được một lượng lớn
vốn nhàn rỗi để đầu tư phát triển kinh tế.
Thứ ba,thi hành chính sách thắt chặt như tạm hoãn các khoản đầu tư công thay
vào đó tập trung đầu tư cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, giúp họ có thể tiếp cận
được nguồn vốn vay với lãi suất thấp để đầu tư mở rộng sản xuất và cát giảm chi tiêu
chính phủ tới mưc có thể.Các khoản tiền tiết kiệm được chính phủ sẽ sử dụng vào việc
trợ giá cho các đơn vị kinh doanh sản xuất cơ bản hoặc tăng lương, tăng trợ cấp an sinh
xã hội cho tầng lớp nghèo.
Giải pháp giảm gánh nặng tăng giá cho người có thu nhập thấp: lạm phát tác
động đến mọi đời sống trong xã hội nhưng chịu ảnh hưởng nặng nề nhất vẫn là ngời
nghèo. Hiện nay, những người có thu nhập thấp đang rất lo lắng vì không biết lạm phát sẽ
còn lấy đi của họ bao nhiêu phần thu nhập thực tế nữa, nó còn làm cho cuộc sống của họ
ngày càng khó khăn tới mức nào nữa. Và điều này cũng không còn là mối lo của riêng
người nghèo nữa, mà nó còn là mối lo của rất nhiều người.
Nghèo đói và xóa đói giảm nghèo là vấn đề lớn mà nhà nước đang rất quan tâm,
để làm tốt điều đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: cải cách lương, học bong
cho học sinh dân tộc các trường nội trú, hỗ trợ mua bảo hiểm y tế cho người nghèo, miễn
giảm thuế nông nghiệp, hỗ trợ vốn vay ưu đãi để người dân phát triển sản xuất…Nhưng
để giải quyết hậu quả của lạm phát đối với người nghèo thì cần phải thực hiện những giải
pháp cấp bách như:
Tăng cường hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo: tăng lương cho người lao động để
một phần nào đó người lao động chủ động trong việc chi tiêu của mình, bên cạnh đó nhà
nước cần phải tăng cường khuyến khích các doanh nghiệp đưa hàng bình ổn giá tới tay
người tiêu dùng, giúp người nghèo dễ dàng tiếp cận được với hàng bình ổn.
Thứ tư, cần có các biện pháp hạn chế việc nhập khẩu lương thực thực phẩm. Nước
ta là một nước đi lên từ nền nông nghiệp, đất đai thì màu mỡ việc nhập khẩu lương thực
là một nghịch lý. Chính vì vậy, nhà nước cần hỗ trợ trong việc phát triển các vùng
nguyên liệu cung cấp cho ngành chế biến thủy sản, thực phẩm, đầu tư các dây truyền sản
xuất hiện đại để tránh việc chỉ làm gia công cho các nước phát triển.
Và cuối cùng, phải khuyến khích người dân tiêu dùng hàng trong nước, hạn chế
việc dùng hàng nhập khẩu. Điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp trong nước phát triển.
TÓM TẮT CHƯƠNG 2
Chương 2 là sự mô tả khái quát về thực trạng lạm phát của nước ta hiện nay
bên cạnh đó cũng có một số biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát giúp cho nền kinh tế
ngày một ổn định và phát triển hơn.
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC KINH TẾ
VĨ MÔ
3.1. Giảng dạy môn học
3.1.1. Giáo trình, tài liệu môn học, giảng dạy.
Giáo trình: môn học kinh tế vĩ mô được các thầy giáo trong trường sưu tập và
biên soạn lại từ một số tài liệu học tập liên quan đến các lĩnh vực này, đã giúp cho giáo
trình này đầy đủ và cũng rất dễ hiểu đối với sinh viên.
Trong giáo trình mỗi chương học, còn kèm theo các bài báo nhỏ của một số tờ tạp
chí, trang báo tin tức như: Vietnam net, thời báo kinh tế, …điều này giúp cho sinh viên
có thêm được kiến thức thực tiễn, những bài học quý báu của các các nước trên thế giới
sau một vấn đề nào đó.
Ngoải ra, cuối mỗi chương đều có phần tóm tắt, phần câu hỏi và bài tập trắc
nghiệm giúp cho chúng ta co thể tự kiểm tra và đánh giá lại những phần mình đã học,
xem khối lượng kiến thức mà giáo viên đã giảng dạy trên lớp mình có tiếp thu được hết
không,..
Tài liệu môn học: vì đây là môn học mang tính vĩ mô nên tài liệu tham khảo cũng
rất nhiều và dễ kiếm, các con số về lạm phát, thất nghiệp, tăng trưởng kinh tế đều được
thống kê trong bảng báo cáo của cục thống kê hàng tháng, các vấn đề liên quan đến nền
kinh tế vĩ mô đều được các tờ báo quan tâm chính vì vậy việc thu thập thông tin cho quá
trình nghiên cứu môn học này cũng không khó.
Giảng dạy: mỗi giáo viên khi đứng trên bục giảng đều cố gắng truyền đạt hết cho
sinh viên những gì mình biết, và cô Lương Mỹ Thùy Dương cô giáo phụ trách môn này
của tụi em, cô rất nhiệt tình trong quá trình giảng dạy, luôn cho sinh viên làm bài tập và
thảo luận nhóm. Giờ thuyết trình của các nhóm luôn luôn sôi động và các sinh viên đều
rất hào hứng dưới sự dẫn dắt của cô.
3.1.2. Cơ sở vật chất.
Nhà trường trang bị máy chiếu trong phòng học giúp cho quá trình giảng dạy diễn
ra thuận lợi hơn, sinh viên dễ tiếp thu bài hơn, chú ý lắng nghe hơn. Nhưng đôi khi mắt
chiếu mờ làm ảnh hưởng xấu tới quá tình tiếp thu bài của sv. Ngoài ra hệ thống âm thanh
và máy điều hòa cũng tốt làm cho sinh viên cảm giác thoải mái và dễ chịu hơn trong
những ngày nóng nực, giúp cho sinh viên cảm giác muốn tới lớp hơn.
Hệ thống thư viện cũng có những đầu sách giúp sinh viên tham khảo và tìm hiểu
môn học được tôt hơn. Nhưng hiện tại số đầu sách trong thư viện phục vụ cho môn học
này còn hạn chế và hầu như toàn là những đầu sách cũ thiếu tính áp dụng thực tiến trong
thời buổi kinh tế hiện nay.
3.1.3. Tính thực tiễn, thiết thực của môn học.
Môn học cung cấp cho chúng ta hiểu được một cách tổng quan về nền kinh tế có
sự điều tiết của nhà nước, giúp chúng ta biết được như thế nào là lạm phát, thất nghiệp.
Nền kinh tế lạm phát mức nào thì có thể chấp nhận được, và biết được tại sao nền kinh tề
lại rơi vào tình trạng đó. Từ đó giúp chúng ta tìm được ra những giải pháp đúng đắn để áp
dụng vào trong việc phát triển nền kinh tế nhà nước noi chung và các doanh nghiệp nói
riêng. Mục tiêu của chúng ta trong việc nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải chỉ dừng lại
ở phạm vi lí giải các biến cố kinh tế, mà còn nhằm cải thiện chất lượng của chính sách
kinh tế. Các công cụ tài chính và tiền tệ của chính phủ có thể tác động mạnh mẽ đến nền
kinh tế - bao gồm cả mặt tích cực và tiêu cực – và khoa kinh tế vĩ mô giúp cho các nhà
hoạch định chính sách đánh giá những chính sách khác nhau. Nhà kinh tế vĩ mô phải
nghiên cứu nền kinh tế như nó đang tồn tại và suy ngẫm xem chúng ta nên làm gì để cải
thiện nó.
Để đánh giá đúng tầm quan trọng của kinh tế vĩ mô, bạn chỉ cần đọc báo và nghe
đài. Các phương tiện truyền thông đại chúng hàng ngày thông tin về chiều hướng phát
triển của nền kinh tế. Những tiêu đề in đậm trên trang nhất như: THU NHẬP CÁ NHÂN
TĂNG BỐN PHẦN TRĂM, QUỸ DỰ TRỮ LIÊN BANG CHUYỂN SANG
CHỐNG LẠM PHÁT, hoặc CỔ PHIẾU GIẢM DO MỌI NGƯỜI LO SỢ TÌNH
TRẠNG SUY THOÁI... hầu như không ngày nào không xuất hiện trên báo chí.
Tất cả các biến số kinh tế vĩ mô đều đụng chạm đến cuộc sống của chúng ta. Khi
dự báo nhu cầu sản phẩm của chính mình, hội đồng quản trị ở các doanh nghiệp phải
đoán xem thu nhập của người tiêu dùng tăng nhanh đến mức nào. Người già sống bằng
thu nhập cố định thường băn khoăn về tốc độ tăng giá. Những công nhân thất nghiệp
đang tìm kiếm việc làm hi vọng nền kinh tế phục hồi và các doanh nghiệp tuyển thêm
người. Tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thực trạng của nền kinh tế.
Nói chung, khi chúng ta học môn kinh tế vĩ mô sẽ giúp cho chúng ta rất nhiều
trong công việc khi chúng ta rời ghế nhà trường. Dù bạn là bất cứ ai thì việc hiểu được sự
vận động của nền kinh tế hiện nay cũng không phải là thừa.
3.2. Đề xuất biện pháp
Để môn học ngày càng được giảng dạy tốt hơn thì cần phải thực hiện một số biện
pháp như:
-
-
Giảng viên cần hướng dẫn cho sinh viên biết cách học như thế nào là có hiệu quả
trước khi giảng dạy, cần hướng dẫn cho sinh viên biết cách lấy thông tin hay tài
liệu tham khảo cho môn học
Hướng dẫn cho sinh viên biết cách áp dụng môn học vào thực tiễn
- Xem thêm -