PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong những năm gần đây khi nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước,
các doanh nghiệp được coi là những đơn vị kinh tế tự chủ từ khâu sản xuất đến
khâu tiêu thụ sản phẩm. Ba vấn đề chính là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào?
Sản xuất cho ai? Hiện được các doanh nghiệp quan tâm để đạt được hiệu quả cao
nhất trên cơ sở nguồn lực sẵn có của mình. Đó chính là cả một quá trình mà các
doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra những sản phẩm, hàng hoá phù hợp với
nhu cầu của thị trường, để thúc đẩy quá trình sản xuất của xã hội nói chung và của
doanh nghiệp nói riêng.
Hiện nay trong nền kinh tế thị trường khách hàng là một trong những nhân tố
quan trọng quyết định tới quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp và các đơn vị sản xuất khác. Nhiệm vụ quan trọng của các doanh nghiệp là
phải nắm bắt được các nhu cầu về thị trường từ đó có định hướng cho sản xuất của
doanh nghiệp mình, sản xuất sản phẩm mà thị trường cần phù hợp với nhu cầu thị
trường trong từng khoảng thời gian, không gian nhất định.
Trong mấy năm gần đây, cùng với ngành trồng trọt, ngành chăn nuôi của
nước ta đã không ngừng phát triển và đã đạt được kết quả đáng kể. Đó là sự khởi
đầu trong việc triền khai chương trình phát triển chăn nuôi, đưa ngành chăn nuôi
trở thành ngành sản xuất chính của Hội nghị lần thứ VI Ban chấp hành Trương
ương Đảng khoá VIII và nghị quyết 06 NQ/TW của Bộ Chính trị. Trong đó ngành
chăn nuôi gia cầm đã góp phần vào sự phát triển của ngành chăn nuôi cả về số
lượng và chất lượng sản phẩm. Chăn nuôi gia cầm là một loại hình chăn nuôi phổ
biến trong hộ gia đình Việt Nam là một số mô hình trang trại, xí nghiệp, doanh
nghiệp . Với những đặc điểm nổi bật là nó phù hợp với điều kiện xã hội, tự nhiên,
điều kiện địa lý... của nước ta.
Chăn nuôi gà là một nghề đã có từ lâu trong các hộ gia đình ở nông thôn.
Thực tế đã chứng minh chăn nuôi gà đem lại hiệu quả kinh tế cao, chu kỳ sản xuất
Trang 1
thịt và trứng nhanh hơn nhiều so với nhiều vật nuôi khác. Chi phí thức ăn cho 1 kg
tăng trọng thấp và nó tạo ra nguồn thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao. Nó cung
cấp phần lớn sản lượng thịt cho ngành chăn nuôi nói chung và ngành gia cầm nói
riêng. Hơn nữa chu kỳ sản xuất gà ngắn do đó nó đáp ứng được nhu cầu thực phẩm
ngày càng cao trong xã hội cả về số lượng cũng chất lượng sản phẩm. Ngành chăn
nuôi gà phát triển còn góp phần bổ trợ đáng kể vào việc phát triển ngành trồng trọt,
ngành chăn nuôi và các ngành kinh tế khác, làm tăng nguồn nguyên liệu cho công
nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu thu ngoại tệ phục vụ cho các ngành kinh tế
khác trong nền kinh tế quốc dân.
Ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và chăn nuôi gà nói riêng trong những
năm gần đây đã từng bước được Nhà nước chú ý hơn đặc biệt là công tác giống.
Nhà nước chú trọng đầu tư nghiên cứu phát triển sản phẩm gà giống và nó đã đóng
góp đáng kể vào việc đáp ứng nhu cầu về khối lượng thịt, trứng của nhân dân. Tuy
nhiên trên thực tế khối lượng này vẫn còn khiêm tốn so với nhu cầu thực phẩm của
nhân dân và nhu cầu làm nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm
bởi lẽ một số xí nghiệp, doanh nghiệp cho ra sản phẩm giống tốt nhưng quá trình
sản xuất và tiêu thụ còn nhiều điều bất cập.
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ trực thuộc tổng công ty chăn nuôi Việt
Nam, được thành lập theo nghị quyết số 160-NNTCQD ngày 24/09/1976 của Bộ
trưởng bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn) do sản phẩm gà giống của công ty gặp không ít khó khăn về
phía đầu ra (thị trường tiêu thụ và giá cả) sản xuất kinh doanh gà chỉ có thể đứng
vững và phát triển khi có một thị trường ổn định và chiếm thị phần lớn.
Để góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gà giống của
Công ty trong thời gian tới, được sự phân công của khoa Kinh tế và phát triển nông
thôn, được sự đồng ý của ban lãnh đạo Công ty giống gia cầm Lương Mỹ, dưới sự
hướng dẫn của thầy Đặng Văn Tiến chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
"Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gà giống thương phẩm tại Công ty
giống gia cầm Lương Mỹ- Chương mỹ - Hà Tây".
Trang 2
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực trạng tiêu thụ sản phẩm của Công ty để
đề ra giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm cho Công ty.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về thị trường và tiêu thụ sản
phẩm trong nền kinh tế thị trường
+ Tìm hiểu đánh giá thực trạng tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của
công ty.
+ Phân tích các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm
của công ty.
+ Định hướng và đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản
phẩm cho công ty ngày càng có hiệu quả.
1.3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tiêu thụ sản phẩm gà giống
của Công ty giống gia cầm Lương Mỹ -Chương Mỹ - Hà Tây.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu: Nghiên cứu tình hình tiêu thụ sản phẩm gà giống của
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ.
Thời gian nghiên cứu: Đánh giá thực trạng tiêu thụ sản phẩm gà giống của
công ty qua 3 năm (2000-2001-2002).
Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu tại Công ty giống gia cầm Lương Mỹ Chương Mỹ- Hà Tây.
Trang 3
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1.1. Một số lý luận về thị trƣờng
2.1.1.1. Khái niệm về thị trường
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất
hàng hoá và được hình thành trong lĩnh vực lưu thông người có hàng hoá đem ra
trao đổi gọi là bên bán, người có nhu cầu chưa được thoả mãn và có khả năng
thanh toán gọi là bên mua. Trong quá trình trao đổi đã hình thành các mối quan hệ
nhất định, đó là quan hệ giữa bên bán và bên mua với nhau. Vì vậy theo các nhà
Marketing thì thị trường bao gồm tất cả những khách hàng tiềm ẩn cùng có một
nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thoả
mãn nhu cầu và mong muốn đó.
Theo lý thuyết kinh tế học: Thị trường là nơi người bán và người mua gặp nhau
để thoả mãn nhu cầu của mình bằng việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ.
Theo góc độ địa lí: Thị trường là vị trí kinh tế mà qua đó cung cầu được thoả
mãn.
Theo các nhà kinh tế: Thị trường là sự biểu hiện của quá trình mà trong đó
thể hiện các quyết định của doanh nghiệp về số lượng và chất lượng và mẫu mã
hàng hoá. Đó là mối quan hệ giữa tổng số cung và tổng số cầu với cơ cấu cung cầu
của từng loại hàng hoá cụ thể.
Tóm lại quan điểm cốt lõi của thị trường: Thị trường bao gồm toàn bộ quá
trình trao đổi hàng hoá, nó được diễn ra trong một thời gian và một không gian
nhất định.
2.1.1.2. Vai trò của thị trường với hoạt động sản xuất kinh doanh
Thị trường có vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh và sự phát triển kinh tế xã hội:
Trang 4
+ Thị trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, là mục tiêu của quá trình
sản xuất hàng hoá. Thị trường chính là nơi hình thành và giải quyết các mối quan
hệ giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước, doanh
nghiệp với người tiêu dùng.
+Thị trường là đối tượng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp
+ Thị trường là khâu tất yếu là quan trọng nhất của sản xuất hàng hoá, thị
trường là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng.
+ Thông qua thị trường có thể nhận biết được sự phân phối của các nguồn lực
sản xuất, thông qua hệ thống giá cả.
+ Thị trường là môi trường kinh doanh, nó giúp các nhà sản xuất nhận biết
nhu cầu xã hội về thế mạnh kinh doanh của mình để có các phương án sản xuất
kinh doanh phù hợp với đòi hỏi của thị trường
+ Thị trường là nơi cung cấp thông tin quan trọng trên cơ sở đó nhà sản xuất
kinh doanh đưa ra các quyết định riêng cho doanh nghiệp mình.
+ Thị trường có vai trò quan trọng trong quản lý kinh tế, đó là đối tượng căn
cứ để kế hoạch hoá. Thị trường là công cụ bổ sung cho các công cụ điều tiết vĩ mô
nền kinh tế của Nhà nước.
2.1.1.3. Chức năng của thị trường
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua bán do đó nó có các chức năng nhất
định và tầm quan trọng của từng chức năng được thể hiện như sau:
+ Chức năng thừa nhận : Thị trường là nơi gặp gỡ giữa nhà sản xuất và người
tiêu dùng trong quá trình trao đổi hàng hoá, thị trường với mong muốn chủ quan
bán được nhiều hàng hoá với giá cả sao cho bù đắp được mọi chi phí bỏ ra và có
lợi nhuận, còn người tiêu dùng tìm đến thị trường để mua những hàng hoá đúng
công dụng, hợp thị hiếu và có khả năng thanh toán theo mong muốn của mình.
Trong quá trình diễn ra sự trao đổi, mặc cả trên thị trường giữa đôi bên về một mặt
nào đó sẽ có 2 khả năng xẩy ra là thừa nhận hoặc không thừa nhận, tức là có thể
loại hàng hoá đó không phù hợp với quá trình tái sản xuất sẽ bị ách tắc, không thực
Trang 5
hiện được. Ngược lại trong trường hợp thị trường thực hiện chức năng chấp nhận
tức là đôi bên đã thuận mua vừa bán thì quá trình tái sản xuất được giải quyết.
+ Chức năng thực hiện: Khi mà thị trường đã thừa nhân sự có mặt của hàng
hoá nào đó trên thị trường thì chức năng thực hiện được hình thành và hàng hoá đó
sẽ được lưu thông (bán) như mọi hàng hoá khác trên thị trường.
+ Chức năng điều tiết, kích thích: Như chúng ta đã biết lợi nhuận là mục đích
cao nhất của quá trình sản xuất, trong khi đó lợi nhuận lại chỉ hình thành khi thông
qua hoạt động của thị trường. Do vậy thị trường vừa là mục tiêu, vừa tạo ra động
lực điều tiết kích thích được thể hiện ở chỗ thông qua nhu cầu thị trường các doanh
nghiệp chủ động điều chỉnh hoặc di chuyển các yếu tố sản xuất từ ngành này sang
ngành khác, hoặc sản phẩm này sang sản phẩm khác nhằm mục đích kiếm lợi
nhuận cao hơn. Thông qua qui luật hoạt động của thị trường, các doanh nghiệp
mạnh mẽ tận dụng khả năng, lợi thế của mình trong cạnh tranh để đẩy nhanh quá
trình sản xuất. Ngược lại, các doanh nghiệp không có lợi thế cũng tìm cách vươn
lên để tránh khỏi bị phá sản. Đó chính là động lực do thị trường tạo ra.
Giá cả sản phẩm ngoài thị trường là thước đo hiệu quả sản xuất và mức độ
chi tiêu trong tiêu dùng của người mua, nó chỉ chấp nhận chi phí ở mức thấp hơn
hoặc bằng mức xã hội cần thiết. Do đó thị trường có vai trò quan trọng đối với kích
thích, tiết kiệm chi phí và tiết kiệm sức lao động.
+ Chức năng thông tin: Chức năng thông tin của thị trường sẽ góp phần đắc
lực cho sự hiểu biết giữa người mua và người bán, giữa người sản xuất và người
tiêu dùng. Thông tin thị trường cho biết tổng số cung, tổng số cầu, cơ cấu cung
cầu, quan hệ cung cầu giá cả, chất lượng sản phẩm... Do vậy thông tin thị trường
có vai trò vô cùng quan trọng đối với quản lý kinh tế, nhiều khi nó quyết định cả
quá trình sản xuất.
Trong công tác quản lý nền kinh tế thị trường, vai trò tiếp nhận thông tin từ
thị trường đã quan trọng, song việc chọn lọc và xử lý thông tin lại là công việc
quan trọng hơn nhiều. Để đưa ra những quyết định chính xác nhằm thúc đẩy sự
vạn hành mọi hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường, tuỳ thuộc vào sự chính
xác của việc sàng lọc và xử lý thông tin.
Trang 6
Tóm lại: 4 chức năng của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau. Thực
tế một hiện tượng kinh tế diễn ra trên thị trường đều thể hiện đầy đủ và đan xen lẫn
nhau giữa 4 chức năng. Tuy nhiên cũng phải thấy rõ là chỉ khi thực hiện chức năng
thừa nhận thì các chức năng khác mới phát huy tác dụng.
2.1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
Các nhân tố kinh tế: Có vai trò trực tiếp đến cung, cầu cơ sở vật chất kỹ
thuật, quan hệ kinh tế đối ngoại, giá cả, thu nhập bình quân trên đầu người, tốc độ
tăng trưởng kinh tế.
Các nhân tố xã hội: Mật độ phân bổ dân cư, phong tục tập quán, trình độ văn
hoá... Chúng có ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của thị trường.
Các nhân tố về chính trị: Tình hình chính trị trong và ngoài nước, hệ thống
pháp luật và các văn bản dưới luật, các công cụ chính sách của Nhà nước.
Các nhân tố thuộc về kinh tế vĩ mô: Thể hiện bằng các chính sách của Nhà
nước như : Chính sách thuế, chính sách dự trữ và điều hoà, chính sách trợ giá...
Các chính sách đều có ảnh hưởng trực tiếp đến thị trường. Nhà nước luôn có xu
hướng quản lý và bình ổn giá cả.
Các nhân tố thuộc về kinh tế vi mô: Là chiến lược chính sách biện pháp của
các cơ sở sản xuất kinh doanh sử dụng trong kinh doanh như: chiến lược sản phẩm
mới, chiến lược đa dạng hoá sản phẩm, chiến lược giá, hoạt động marketing của
doanh nghiệp. Các chiến lược tác động trực tiếp chủ quan vào thị trường.
2.1.1.5. Phân khúc thị trường
Khi quyết định tham gia vào quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nhà sản
xuất kinh doanh phải xác định được thị trường. Cụ thể là xác định nhu cầu của
khách hàng mà mình có khả năng cung ứng. Hướng vào thị trường là hướng vào
khách hàng chính, đó là mục tiêu hàng đầu của các nhà sản xuất kinh doanh. Do
vậy mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh thường phân thị trường thành những
khúc, những đoạn riêng biệt nhằm có những biện pháp, chính sách cụ thể đối với
những khúc thị trường đó.
Trang 7
+ Căn cứ vào thu nhập của người tiêu dùng chia thành thị trường dành cho
những người có thu nhập cao, thị trường dành cho những người có thu nhập trung
bình, và thị trường dành cho những người có thu nhập thấp.
+ Căn cứ vào khu vực có thể chia thành, thị trường thành thị, thị trường nông
thôn, thị trường vùng đồng bằng, thị trường vùng cao.
+Căn cứ vào số lượng dân cư có thể chia thành thị trường dành cho những
vùng đông dân, thị trường dành cho những vùng ít dân.
+ Căn cứ vào trình độ văn hoá có thể chia thành thị trường dành cho những
người có trình độ văn hoá cao và thị trường cho những có trình độ văn hoá thấp.
Tuỳ theo loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau mà các phương thức phân khúc
thị trường khác nhau.
2.1.2. Những lý luận cơ bản về tiêu thụ sản phẩm
2.1.2.1. Khái niệm về tiêu thụ sản phẩm
Theo nghĩa rộng : Tiêu thụ sản phẩm là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều
khâu có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như: Nghiên cứu thị trường, xác định nhu
cầu khách hàng, đặt hàng và tổ chức sản xuất thực hiện các nghiệp vụ tiêu thụ, xúc
tiến bán hàng... nhằm mục đích đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
Theo nghĩa hẹp: Tiêu thụ (bán hàng) là việc chuyển dịch quyền sở hữu sản
phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ đã thực hiện cho khách hàng, đồng thời thu được
tiền hàng hoá hoặc được quyền thu tiền
Tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của hàng
hoá, thông qua tiêu thụ mà hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình
thái giá trị (tiền tệ) và vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp được hoàn thành.
Tiêu thụ sản phẩm đơn giản được cấu thành từ người bán người mua hàng
hoá, tiền tệ, khả năng thanh toán, sự sẵn sàng mua và bán... Nhằm tối da hoá lợi
nhuận mỗi bên
Trang 8
2.1.2.2. Vai trò của tiêu thụ sản phẩm trong quá trình hoạt động sản xuất
kinh doanh
Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
T
H
Sản xuất
H'
T'
Tiêu thụ
Sơ đồ 1. Quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
Sơ đồ cho thấy: Kết quả tiêu thụ có vai trò quyết định đến sự vận động nhịp
nhàng của các giai đoạn trước, trong chu kỳ sản xuất kinh doanh, cụ thể:
Tiêu thụ sản phẩm nhằm thực hiện quá trình đưa sản phẩm từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu dùng. Nói cách khác tiêu thụ đóng vai trò là khâu lưu thông hàng hoá,
là trung gian mua bán giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
Tiêu thụ sản phẩm làm cho người sản xuất hiểu cụ thể khách hàng mong
muốn về số lượng, chất lượng, chủng loại, mẫu mã hàng hoá mà mình sản xuất ra,
để từ đó thảo mãn nhu cầu của họ.
Tiêu thụ sản phẩm làm cho người tiêu dùng tiếp cận sản phẩm hàng hoá mà
họ cần và chấp nhân được tính hữu ích của mỗi sản phẩm hàng hoá đó. Khi sản
phẩm được người tiêu dùng chấp nhận thì doanh nghiệp mới thu hồi được các chi
phí có liên quan và xác định được mức sản phẩm sản xuất ra .
Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân tiêu thụ có vai trò làm cân đối giữa
cung và cầu để tạo nên sự ổn định xã hội nói chung và từng khu vực nói riêng với
mỗi sản phẩm hàng hoá. Căn cứ vào mỗi dự đoán đó mà mỗi doanh nghiệp có thể
Trang 9
xây dựng cho mình kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để đem lại hiệu quả
kinh doanh cao.
2.1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ nghiên cứu: Thị trường tiêu thụ chính là nghiên cứu mối
quan hệ cung - cầu, giá cả sản phẩm hàng hoá trong một không gian, thời gian nhất
định. Thị trường tiêu thụ là nhân tố tác động mạnh đến sản xuất của các doanh
nghiệp bởi các quy luật cạnh tranh, qui luật cung cầu. Thị trường là đối tượng sản
xuất đồng thời cũng là điều tiết sản xuất.
Chất lượng sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường chất lượng sản phẩm là
vấn đề cơ bản quyết định khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sản
phẩm của doanh nghiệp được người tiêu dùng chấp nhận khi chất lượng sản phẩm
đảm bảo. Chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao sẽ làm tăng giá trị sử dụng,
thời gian sử dụng của sản phẩm trên thị trường cạnh tranh, sản phẩm tiêu thụ rộng
hơn, nhiều hơn và ngược lại sẽ mất dần sức cạnh tranh trên thị trường, sẽ bị đánh
bại và nhanh chóng dẫn đến phá sản. Giá sản phẩm: Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng
đến công tác tiêu thụ sản phẩm bởi người tiêu dùng quyết định xem giá cả của mặt
hàng có phù hợp với ý tưởng của họ hay không? Do đó khi định giá doanh nghiệp
phải xem xét vấn đề này kĩ càng để đưa ra mức giá thích hợp, thuyết phục người
tiêu dùng, phản ánh đúng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Nhân tố vốn: Là một nhân tố quan trọng trong quá trình mở rộng sản xuất
kinh doanh và trong quá trình cạnh tranh của doanh nghiệp
Nhân tố con người: Con người hết sức quan trọng trong quá trình sản xuất
kinh doanh nói chung và đối với khâu tiêu thụ nói riêng. Đối với doanh nghiệp thể
hiện qua trình độ quản lý, điều hành.
Nhân tố chính sách và pháp luật của Nhà nước: Môi trường chính sách có thể
tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp này phát triển song kìm hãm doanh
nghiệp khác, từ đó ảnh hưởng rất lớn đến tiêu thụ. Môi trường hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước, đường lối phát
triển kinh tế có sự can thiệp của Đảng. Các công cụ của Đảng và Nhà nước ta đề ra
Trang 10
như : Chính sách tín dụng ngân hàng, chính sách xuất nhập khẩu... đã trực tiếp,
gián tiếp tác động đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
2.1.2.4. Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả tiêu thụ
Khối lượng sản phẩm của doanh nghiệp tiêu thụ được thể hiện dưới hai hình
thức là hiện vật và giá trị.
Hình thức hiện vật có ưu điểm là biểu hiện cụ thể khối lượng đang tiêu thụ,
từng loại hàng, song hình thức này không tổng hợp và không so sánh được.
Khối lượng sản phẩm tiêu thụ trong một năm hoặc trong một kỳ được tính
theo công thức:
Lượng tồn kho đầu năm + Lượng sản xuất trong năm - Lượng tồn cuối năm
Số lượng tồn kho đầu năm tiêu thụ trong năm hình thức hiện vật là chỉ tiêu
phản ánh bằng tiền của khối lượng sản phẩm bán ra và doanh nghiệp đã thu được
doanh thu hoặc lấy giấy báo của ngân hàng.
Doanh số (doanh thu) = khối lượng tiêu thụ trong năm x giá bán
n
Kt =
QiGi
i 1
Trong đó:
Kt: giá trị sản phẩm hàng hoá thực hiện
Qi: Lượng hàng hoá loại i được tiêu thụ
Gi: Giá bán hàng hoá i
Chỉ tiêu so sánh kết quả đạt được của từng mặt hàng trong quá trình tiêu thụ.
Khối lượng tiêu thụ trong năm
Hệ số tiêu thụ =
Khối lượng sản xuất trong năm + tồn kỳ trước chuyển sang
Hệ số này đánh giá mức độ tiêu thụ sản phẩm và cho biết mức độ hoàn thành
kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
(Hệ số này càng gần 1 thì quá trình tiêu thụ càng có hiệu quả)
Trang 11
2.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
2.2.1. Vai trò của chăn nuôi nói chung và chăn nuôi gà nói riêng trong phát
triển kinh tế
2.2.1.1. Vai trò của ngành chăn nuôi
+ Đối với nền kinh tế quốc dân
Trong nền kinh tế quốc dân, chăn nuôi đóng vai trò khá quan trọng, nó góp
phần làm tăng trưởng nền kinh tế và góp một lượng hàng hoá cho xuất khẩu. Tuỳ
theo lợi thế so sánh của mình, mỗi nước có thể xuất khẩu các sản phẩm nông
nghiệp mà trong đó có một phần là sản phẩm chăn nuôi để thu ngoại tệ hay trao
đổi để lấy các sản phẩm công nghiệp đầu tư lại cho ngành nông nghiệp và các
ngành kinh tế khác. Vì thế sự phát triển của ngành chăn nuôi sẽ ảnh hưởng tới
phân bổ và phát triển các ngành sản xuất công nghiệp.
Chăn nuôi không những cung cấp nguồn sản phẩm hàng hoá cho thị trường
trong nước và cho xuất khẩu mà nó còn giúp sử dụng một cách đầy đủ và hợp lí
lực lượng lao động nhàn rỗi trong nông nghiệp nông thôn. Do đặc điểm của sản
xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao, hơn nữa lao động trong nông nghiệp lại
chiếm một tỉ trọng khá lớn trong tổng số lao động của nước ta và các nước đang
phát triển khác. Lực lượng lao động này có một thời gian nhàn rỗi quá lớn do tính
chất thời vụ trong sản xuất sinh ra. Do đó việc phát triển ngành chăn nuôi đã giúp
tạo công ăn việc làm cho nông dân và giúp họ tăng thu nhập.
+ Đối với ngành nông nghiệp
Đối với sản xuất nông nghiệp chăn nuôi có một vai trò rất quan trọng. Trong
sản xuất nông nghiệp thì hai ngành chính cấu thành nên nó là ngành trồng trọt và
chăn nuôi. Hai ngành này có sự liên hệ mật thiết với nhau, thúc đẩy nhau cùng
phát triển.
Một nền nông nghiệp muốn phát triển được một cách bền vững và ổn định thì
cần phải có sự phát triển một cách cân đối giữa hai ngành trồng trọt và chăn nuôi.
Trồng trọt cung cấp thức ăn cho ngành chăn nuôi phát triển, mặt khác chăn nuôi
cung cấp phân bón, sức kéo cho ngành trồng trọt. Nguồn phân hữu cơ mà chăn
nuôi cung cấp cho ngành trồng trọt có vai trò hết sức quan trọng. Vì thế để có một
Trang 12
nền nông nghiệp bền vững thì không bao giờ được phép coi nhẹ vai trò của ngành
chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp.
+ Đối với hộ nông dân
Ở nước ta hiện nay trong nền kinh tế thị trường, hộ nông dân đã được coi là
một đơn vị kinh tế tự chủ thì vai trò của ngành chăn nuôi càng được coi trọng. Một
thực tế không thể chối cãi được đó là ngành chăn nuôi chiếm một vai trò quan
trọng trong thu nhập của người nông dân, sản phẩm hàng hoá của nông hộ chủ yếu
là sản phẩm thu được từ quá trình chăn nuôi. Chăn nuôi đã gắn bó mật thiết đối với
đời sống của người dân, giúp tận dụng những sản phẩm dư thừa trong sinh hoạt
hàng ngày, tận dụng lao động nhàn rỗi và làm tăng thu nhập, cải thiện bữa ăn hàng
ngày của nông hộ.
Từ những phân tích trên cho thấy chăn nuôi có một vai trò rất to lớn không chỉ
trong nông nghiệp mà còn kể cả trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong đời sống
xã hội. Nó không ngừng đóng góp một phần đáng kể vào tổng thu nhập quốc dân mà
nó còn sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhân lực, từ đó làm
tăng thu nhập cho người lao động góp phần ổn định và cải thiện đời sống cho các hộ
nông dân nói riêng và xã hội nói chung.
2.2.1.2. Vai trò của chăn nuôi gà trong phát triển kinh tế
Ngành chăn nuôi là một trong hai ngành sản xuất chính của sản xuất nông
nghiệp. Phát triển mạnh ngành chăn nuôi gà có ý nghĩa quan trọng:
+ Chăn nuôi gà cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao, rất cần thiết
cho nhu cầu của con người, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Chăn
nuôi phát triển tạo điều kiện cho trồng trọt phát triển cân đối và toàn diện, có tác
dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, và cải thiện đời sống cho nhân dân.
+ Gà là giống gia cầm tương đối dễ nuôi so với các loại gia cầm vòng đời
ngắn, quay vòng nhanh nên có thể áp dụng nuôi ở các hộ gia đình, các trang trại và
cả các xí nghiệp doanh nghiệp, nhằm góp phần phát triển kinh tế hộ gia đình, cải
thiện đời sống nhân dân, đồng thời phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trang 13
2.2.2. Đặc điểm của hoạt động tiêu thụ gà giống
- Gà giống là một loại sản phẩm có tính chất, đặc điểm riêng. Vì là gà giống
thương phẩm nên sản xuất phải được tiêu thụ ngay trong ngày, nếu không sẽ bị ảnh
hưởng đến chất lượng con giống
- Gà giống sản xuất trong qui trình 21 ngày nhưng phải tuân thủ nghiêm ngặt
theo đúng yêu cầu kỹ thuật để đảm bảo chất lượng con giống bán ra.
- Quá trình vận chuyển đến người chăn nuôi phải đảm bảo gà được che chắn
cẩn thận không bị mưa, nắng.
2.2.3. Tình hình chăn nuôi gia cầm ở Việt Nam
Trước năm 1974 nhìn chung ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta phát triển
theo hình thức chăn thả tự nhiên là chủ yếu. Sau năm 1974 được sự giúp đỡ của Cu
Ba, Bungari và sự quan tâm của Nhà nước ngành chăn nuôi gia cầm nói chung và
chăn nuôi gà nói riêng đã và đang phát triển nhanh chóng. Hàng loạt xí nghiệp gà
giống được xây dựng như xí nghiệp gà giống Lương Mỹ, Tam Dương, Phúc
Thịnh, Hà Nội, Nhân Lễ. Các xí nghiệp đã không ngừng nghiên cứu thể hiện nhiều
công thức lai tạo nhằm tạo ra con lai thích hợp cho hoàn cảnh cụ thể ở nước ta,
phần nào đáp ứng được nhu cầu con giống cho chăn nuôi ở nước ta cả về số lượng
và chất lượng sản phẩm gà.
Sau hơn 10 năm đổi mới, đặc biệt từ năm 1990 trở lại đây chăn nuôi gia cầm
nói chung và chăn nuôi gà nói riêng có những bước phát triển đáng khích lệ.
Trang 14
Biểu 01. Số lượng và sản lượng thịt, trứng của cả nước qua 10 năm
Tổng số gia
cầm
Năm
(nghìn con)
Gà
(nghìn con)
Sản lƣợng
Sản lƣợng
thịt
trứng
(nghìn tấn)
(nghìn quả)
1990
103820,1
80184,0
167,9
1896,4
1991
105258,7
80578,2
146,4
2016,9
1992
117875,6
89704,9
154,4
2269,0
1993
126399,4
95087,2
169,9
2346,9
1994
131668,3
99627,1
186,4
2672,1
1995
140004,0
107958,4
197,1
2825,0
1996
151405,6
112788,7
212,9
3083,8
1997
160550,1
120567,0
226,1
3168,6
1998
167890,0
126361,0
250,1
3226,7
1999
179323,0
135760,0
261,8
3442,8
2000
196164,0
147050,0
286,5
3708,6
6,3
6,1
5,7
6,8
Tốc độ tăng BQ
(%)
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Theo số liệu thống kê biểu 01 cho thấy số lượng gia cầm ở nước ta không
ngừng tăng lên qua các năm. Năm 1999 số lượng gia cầm là 179323,0 nghìn con
tăng 11433,0 nghìn con so với năm 1998 và đến năm 2000 là 196164,0 tăng
16871,0 nghìn con, tốc độ tăng bình quân là 6,3% qua các năm.
Cùng với số lượng gia cầm tăng lên thì số lượng gà cũng tăng đáng kể qua
các năm bình quân là tăng 6,1% cụ thể năm 2000 số lượng gà là 147050.0 nghìn
con tăng hơn so với năm 1999 là 11290 nghìn con.
Sản lượng thịt có tăng nhưng chậm hơn chỉ tăng bình quân 5,7% qua các
năm, năm 1999 đạt 261,8 nghìn tấn thì đến năm 2000 là 286,5 nghìn tấn tăng 24,7
nghìn tấn.
Trang 15
Sản lượng trứng gia cầm tăng tương đối cao bình quân qua các năm tăng
6,8%, đến năm 2000 đạt 3708,6 nghìn tấn.
Biểu 02: Số lượng gia cầm và sản lượng thịt gia cầm ở các vùng sinh thái (2000)
Sản lƣợng thịt gia
Tổng đàn gia cầm
Chỉ tiêu
Tổng đàn gia cầm
Tổng
đàn
(tr.con)
Tỷ lệ
(%)
cầm
Trong đó gà
Tổng
đàn
(tr.con)
Sản
lƣợng
Tỷ lệ
(1000
(%)
Tỷ lệ(%)
tấn)
Cả nước
196,2
100,0
147,1
100,0
286,5
100,0
Miền Bắc
112,8
57,5
94,9
64,5
146,1
51,0
Miền Nam
83,3
42,5
52,2
35,5
140,4
49,0
ĐB s.Hồng
44,8
22,8
37,4
25,4
67,4
23,5
Đông Bắc
39,9
20,3
34,4
23,4
47,0
16,4
Tây Bắc
5,0
2,5
4,5
3,1
4,2
1,5
Bắc Trung Bộ
23,0
11,7
18,6
12,6
27,5
9,6
13,9
7,1
9,2
6,3
13,7
4,8
Tây Nguyên
4,9
2,5
4,4
3,0
5,6
2,0
Đông Nam Bộ
20,3
10,3
15,8
10,7
42,9
14,0
44,2
22,5
22,8
15,5
78,2
27,2
DH
miền
Trung
ĐB
Long
s.
Cửu
Nguồn: Tính toán dựa theo số liệu của Tổng cục Thống kê
Nhìn chung ngành chăn nuôi gia cầm ở nước ta trong đó có gà vẫn chủ yếu là
phương thức nuôi tận dụng tự nhiên, tận dụng thức ăn gia đình, chăn nuôi theo
kiểu công nghiệp, chuyên môn hoá phát triển còn chậm. Số lượng gia cầm được
phân bổ ở các vùng trong nước được phản ánh qua biểu 2. Tổng đàn gia cầm của
cả nước là 196, 2 triệu con. Đàn gia cầm chủ yếu tập trung ở phía Bắc và phía
Trang 16
Nam, phía Bắc có 112,8 triệu con chiếm 57,5% và phía Nam là 42,5%. Trong đó
đàn gà ở phía Bắc là 94,9 triệu con, chiếm 64,5%, và miền nam là 52,2 triệu con,
chiếm 35,5%. Tây Nguyên tỷ lệ đàn gà thấp nhất trong cả nước chỉ có 4,4 triệu con
chiếm 3,0% trong tổng số đàn gà của cả nước. Riêng sản lượng thịt gia cầm cũng
tập trung ở miền Bắc và miền Nam chiếm gần 50,0% tỷ lệ thịt gia cầm của cả nước
vì đây là hai nơi tập trung đông dân nhất trong cả nước.
2.2.4. Thị trƣờng gà công nghiệp trong mấy năm gần đây tại Việt Nam
Nước ta mấy năm gàn đây chăn nuôi gia cầm phát triển khá mạnh trong đó có
gà công nghiệp chiếm từ 30 - 32% tổng đàn gà cả nước. Năm 2000 tổng đàn gà
công nghiệp là 39,5 triệu con.
Theo số liệu Cục khuyến nông - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn năm
1999 cả nước có tổng đàn gà công nghiệp bố mẹ là 420.000 con, mái để sản xuất
khoảng 32 triệu con gà giống mỗi năm, sang năm 2001 cả nước có khoảng 460.000
con mái để và cung cấp ra thị trường gần 42 triệu gà giống thịt.
Do đó nhu cầu gà giống tăng lên, ngoài các trại sản xuất gà con của liên hiệp
chăn nuôi gia cầm và các công ty liên doanh còn có các trại sản xuất các gà con
giống với quy mô nhỏ.
Hiện nay ở nước ta đã hình thành hàng vạn hộ chăn nuôi gia đình với qui mô
khác nhau vừa phân tán, vừa tập trung tạo thành làng gà, xã gà như: xã Lê Lợi,
Thường Tín - Hà Tây... Riêng ngoại thành Hà Nội có khoảng 4000 hộ nuôi gà với
qui mô lớn nhỏ.
Ở miền Nam nghề nuôi gà công nghiệp phát triển từ thành phố Hồ Chí Minh
phát triển ra các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước riêng công ty gia cầm
Việt Thái có mạng lưới gia công hơn 420 hộ gia đình nuôi từ 25 triệu con gà
thịt/năm.
Tập đoàn CP Group tổ chức chăn nuôi gà công nghiệp ở những hộ gia đình ở
các tỉnh Sông Bé, Đồng Nai, ở miền Nam và Hà Tây ở miền Bắc với qui mô từ
4000- 6000/ hộ. Từ năm 1998 chăn nuôi gà công nghiệp bắt đầu có sự khó khăn từ
Trang 17
phía đầu ra nhất là ở miền Nam, chăn nuôi gà công nghiệp có số lượng lớn và qui
mô lớn hơn so với miền Bắc.
Cụ thể ở thành phố Hồ Chí Minh gà thịt khó tiêu thụ dẫn đến tình trạng hàng
loạt gà xuất khẩu bị ứ đọng do vậy dẫn đến tình trạng gà con giống không tiêu thụ
được, trứng giống phải đem bán thành trứng thương phẩm.
Đến năm 2000 thì thị trường gà trong nước có phần tốt hơn song đầu ra của
sản phẩm ngành vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn xu hướng cung vượt quá cầu,
người chăn nuôi gà công nghiệp vẫn bị lỗ. Như vậy vấn đề tiêu thụ sản phẩm của
ngành gà hiện nay là một vấn đề mang tính cấp bách, đòi hỏi các doanh nghiệp cần
phải có các chiến lược, sách lược kịp thời trong quá trình sản xuất kinh doanh của
mình. Đồng thời Nhà nước cần có chính sách bổ trợ.
Hiện nay nước ta chỉ dừng lại ở công đoạn đầu, các khâu cuối cùng chưa
được chú trọng đúng mức, nhất là khâu chế biến sản phẩm của ta cực kỳ yếu kém.
Thực tế cho thấy chăn nuôi gà có lợi nhuận chưa cao, tiêu thụ sản phẩm còn gặp
nhiều khó khăn.
Lâu nay việc tiêu thụ gà thịt xuất chuồng chủ yếu là do các nhà bán buôn trực tiếp
bán lẻ cho các lò mổ, các nhà hàng... Mặc dù nước ta có một số cơ sở chế biến nhưng
vẫn hoạt động cầm chừng, ít coi trọng khâu tiếp thị, thông tin quảng cáo - quảng cáo
cho sản phẩm của mình đó cũng chính là một nguyên nhân.
Chưa đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm dẫn đến tình trạng lo ngại dùng thịt,
trứng trong nước. Hàng năm chúng ta vẫn còn nhập thịt và trứng phục vụ cho
khách sạn.
Trang 18
PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ trực thuộc công ty Chăn nuôi Việt Nam.
Là một doanh nghiệp quốc doanh, công ty được thành lập theo Quyết định số 160NN/TCQD ngày 24/9/1976 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Công nghiệp thực
phẩm (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), được Chính phủ Cu Ba
giúp đỡ xây dựng và được lấy tên là Xí nghiệp Gà sinh sản 2/12. Sau đó được đổi
tên là Xí nghiệp gà GRAMMA, đến năm 1993 Xí nghiệp chuyển sang hạch toán
độc lập theo Quyết định số 114NN ngày 02/03/1993 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đổi tên thành Xí nghiệp Gà giống Lương Mỹ thuộc Tổng công ty
chăn nuôi Việt Nam - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Từ ngày 20/3/2002
Xí nghiệp đổi tên là Công ty giống gia cầm Lương Mỹ. Với chức năng nhiệm vụ
chăn nuôi các đàn gà giống ông bà, đàn gà giống bố mẹ, sản xuất gà con giống cung
cấp cho thị trường cả nước đáp ứng nhu cầu của nhân dân về con giống, chuyển giao
kỹ thuật chăn nuôi cho dân, giúp cho dân phát triển chăn nuôi, cung cấp thực phẩm
cho toàn xã hội nhằm cải thiện cuộc sống cho người dân và tiến lên làm giầu.
3.1.2. Vị trí địa lý
Công ty giống gia cầm Lương Mỹ nằm trên địa bàn xã Hoàng Văn Thụ huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây, một phần nhỏ nằm trên địa bàn xã Thành Lập huyện Lương Sơn - tỉnh Hoà Bình.
Phía Nam giáp xã Thành Lập - huyện Lương Sơn - tỉnh Hoà Bình.
Phía Tây giáp Nông trường chè Lương Mỹ - huyện Chương Mỹ - Hà Tây
Phía Đông giáp xã Hữu Văn - huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây
Phía Bắc giáp xã Hoàng Văn Thụ - huyện Chương Mỹ - tỉnh Hà Tây
Trung tâm của Công ty nằm trên trục đường 21A, cách thủ đô Hà Nội 40 km
về phía Tây Bắc. Hệ thống giao thông đường bộ tương đối thuận lợi. Tổng diện
Trang 19
tích đất tự nhiên của công ty quản lý là 53,5 ha, địa hình tương đối dốc, trung tâm
và hai khu vực sản xuất chính được nằm trên 3 quả đồi.
Khí hậu ở công ty mang tính chất khí hậu vùng núi trung du, phân chia thành
4 mùa rõ rệt, nhiệt độ trung bình 1 năm là 23,5 0C, mùa đông rất lạnh, mùa hè lại
quá nóng bức.
3.1.3. Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty
Giám đốc
P. Giám đốc
P.TC-HC
VPĐD
P. Tài vụ
PX sản
P. Kỹ thuật
PX ấp
PX vi sinh
P. Tiếp thị
Chi nhánh Quảng
nam Đà nẵng
xuất
Tổ chăn nuôi
Tổ chế biến thức ăn
Sơ đồ 2. Tổ chức bộ máy của công ty
Trong đó:
Quan hệ trực tuyến
Quan hệ kiểm tra giám sát
Quan hệ tham mưu giúp việc
Các phòng ban và các đơn vị sản xuất chịu sự quản lý và điều hành của giám
đốc. Các phòng ban chức năng thực hiện một số chức năng nhất định, ngoài ra các
Trang 20
- Xem thêm -