Đăng ký Đăng nhập

Tài liệu Tiểu luận1

.DOC
23
87
89

Mô tả:

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ SỬA ĐỔI 2014.
BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ……………………….. ĐỀ TÀI NGHỀ NGHIỆP KHÓA: 02 TÊN ĐỀ TÀI: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ SỬA ĐỔI 2014 Giáo viên hướng dẫn: Người thực hiện: …………, tháng ….. năm ….. GVHD: Nguyễn Hoàng Lê Khanh Người thực hiện: Dương ĐìnhToàn Trang 1. 1.1. 1.2. 1.3. 2. Mục lục LỜI MỞ ĐẦU Chương I: MỘT SỐ NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG Quyền, nghĩa vụ của đương sự trong thi hành án dân sự Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án Đặc điểm của các biện pháp bảo đảm thi hành án dân sự Quyền, nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan Thủ tục thi hành án dân sự 1 3 3 3 4 4 5 Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 2.1. 2.2. 2.3. 2.4. 2.5. 2.6. 2.7. 2.8. 2.9. 2.10. 2.11. 2.12. 2.13. 2.14. 2.15. Chuyển giao bản án, quyết định Thủ tục nhận bản án, quyết định Tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án Thẩm quyền thi hành án Ra quyết định thi hành án Gửi quyết định về thi hành án Xác minh điều kiện thi hành án Xác định việc chưa có điều kiện thi hành án Thời hạn tự nguyện thi hành án Thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án Hoãn thi hành án Đình chỉ thi hành án Kết thúc thi hành án Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước 3. Cưỡng chế thi hành án dân sự 3.1 Kế hoạch cưỡng chế thi hành án 3.2. Chi phí cưỡng chế thi hành án 3.3. Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án 3.4. Giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án 3.5. Định giá lại tài sản kê biên 3.6. Hủy kết quả bán đấu giá tài sản 3.7. Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án 3.8. Xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành 3.9. Đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản 3.10. Thủ tục cưỡng chế trả vật 3.11. Cưỡng chế giao, trả giấy tờ Chương II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1. Một số bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng 2. Các giải pháp khắc phục KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU 5 5 5 6 6 6 7 8 9 9 9 10 11 11 11 12 12 12 12 13 13 14 14 14 15 15 16 16 16 18 19 20 1. Tính cấp thiết của đề tài Thi hành án dân sự là một giai đoạn độc lập của quá trình tố tụng dân sự, giai đoạn kết thúc quá trình bảo vệ quyền lợi của đương sự, trong đó các bản án, quyết định của Toà án được đưa ra thi hành Để góp phần duy trì ổn định trật tự xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, mọi hành vi vi phạm pháp luật và tranh chấp xảy ra khi có yêu cầu đều được Toà án xem xét giải quyết theo thẩm quyền, đồng thời nhà nước xây dựng một cơ chế GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 4 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 đảm bảo cho việc thi hành các phán quyết mà Toà án đã tuyên. Nếu bản án, quyết định của toà án có hiệu lực pháp luật mà không đựơc đưa ra thi hành thì quyền lợi của đương sự chưa được đảm bảo, nguyên tắc pháp chế bị vi phạm. Mặt khác tranh chấp, mâu thuẫn dân sự không được giải quyết kịp thời và triệt để, niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng và nhà nước bị suy giảm. Vì vậy công tác thi hành án nói chung và thi hành án dân sự nói riêng mang nội dung và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Những năm qua công tác thi hành án dân sự đã từng bước được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả to lớn. Pháp luật về thi hành án dân sự đã và đang được củng cố và hoàn thiện ngày càng phù hợp với những yêu cầu mới đặt ra của sự phát triển kinh tế, xã hội. Trên cơ sở những quy định của pháp luật, hệ thống cơ quan thi hành án đã được hình thành trong cả nước, hoạt động thi hành án đã đạt hiệu quả nhất định, kỷ cương trật tự xã hội được ổn định, đồng thời pháp chế xã hội chủ nghĩa được đảm bảo. Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường các giao lưu dân sự ngày một mở rộng thì số vụ việc tranh chấp dân sự ngày càng gia tăng dẫn đến số lượng bản án, quyết định phải thi hành ngày càng nhiều. Trước tình hình đó, cần phải hoàn thiện hơn nữa pháp luật thi hành án dân sự góp phần đẩy nhanh hoạt động thi hành án đạt hiệu quả hơn về số lượng cũng như chất lượng, từng bước giảm dần số lượng bản án, quyết định tồn đọng chưa được thi hành, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cường tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Ngày 25/11/2014, Quốc hội đã thông qua Luật Thi hành án dân sự sửa đổi 2014 nhằm sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự 2008 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2015. Mục đích sửa đổi, bổ sung Luật thi hành án dân sự nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự, tạo cơ sở pháp lý cho sự chuyển biến cơ bản, bền vững, tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thi hành án dân sự, góp phần bảo đảm thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, theo đó bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Luật sửa đổi, bổ sung 55/183 điều so với Luật hiện hành, trong đó bổ sung 03 điều; sửa đổi, bổ sung 44 điều; bãi bỏ 06 điều và bãi bỏ một phần của 02 điều (Điều 32, 33, 34, 51, 138 và 139, điểm b khoản 1 Điều 163, các khoản 3 và 4 Điều 179 của Luật thi hành án dân sự hiện hành), không kể một số từ ngữ được sửa đổi chung. Việc nghiên cứu pháp luật về thi hành án dân sự trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề cần thiết không chỉ đối với các nhà lập pháp, tư pháp, các luật gia mà còn cần thiết đối với những sinh viên khi nghiên cứu về pháp luật Việt Nam. Do vậy, trong bài tiểu luận thực tập nghề nghiệp này tôi xin chọn đề tài “Một số điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014”. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 và thực trạng thực thi của luật này trong hoạt động thi hành án dân sự hiện nay. Đây là một vấn đề lớn đòi hỏi phải có trình độ nghiên cứu cũng như thời gian nghiên cứu nhất định. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi chỉ thực hiện việc tìm hiểu, phân tích và tổng hợp một vài điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014, qua đó nêu lên một số GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 5 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 vấn đề bất cập trong thực tiễn áp dụng tại một số điều của luật này và đưa ra những giải pháp, kiến nghị để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật này trong thời gian tới. 3. Phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Để thực hiện đề tài này, tôi sử dụng phương pháp phân tích khảo sát và tổng hợp thực tế là chủ yếu. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học truyền thống như phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp và phương pháp thực tiễn… 4. Bố cục của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 2 chương: Chương 1: Một số nội dung được sửa đổi bổ sung. Chương 2: Một số vấn đề trong thực tiễn áp dụng và các giải pháp khắc phục. CHƯƠNG I: MỘT SỐ NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, BỔ SUNG 1. QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ Để tạo cơ sở pháp lý tốt hơn bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp 2013, Luật sửa đổi, bổ sung có 03 điều (Điều 7, 7a và 7b) quy định về GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 6 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 quyền, nghĩa vụ của đương sự trong thi hành án dân sự. Theo đó, quy định cụ thể, quyền nghĩa vụ của từng chủ thể: 1.1. Quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án Điều 7 của Luật thi hành án dân sự 2008 về quyền yêu cầu thi hành án, đã được sửa đổi thành điều luật quy định về quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án. Điều 7 Luật sửa đổi, bổ sung được thiết kế để quy định về những quyền, nghĩa vụ cơ bản nhất của người được thi hành án, bên cạnh những quyền, nghĩa vụ cụ thể khác được quy định tại các điều luật liên quan xuyên suốt quá trình tổ chức thi hành án dân sự nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự thực hiện, do đó, điều luật được thiết kế với sự phân định rõ ràng giữa quyền và nghĩa vụ của người được thi hành án. Trong các quyền của người được thi hành án, Luật sửa đổi, bổ sung quy định rõ hơn về quyền yêu cầu thi hành án, đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định, áp dụng biện pháp bảo đảm, áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án; được thông báo về thi hành án; thỏa thuận với người phải thi hành án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung thi hành án; tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh, cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; được ủy quyền cho người khác thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình; chuyển giao quyền được thi hành án cho người khác. Một quyền rất mới mà Luật sửa đổi, bổ sung bổ sung cho đương sự, đó là quyền được yêu cầu thay đổi Chấp hành viên trong trường hợp có căn cứ cho rằng Chấp hành viên không vô tư khi làm nhiệm vụ. Quy định này phù hợp với quy định hiện hành về thay đổi người tiến hành tố tụng trong các thủ tục tố tụng, đảm bảo sự khách quan trong tổ chức thi hành án dân sự, tạo niềm tin cho nhân dân đối với hoạt động thi hành án dân sự. Đặc biệt, Luật sửa đổi, bổ sung đã sửa đổi một cách căn bản quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án liên quan đến việc xác minh điều kiện thi hành án. Theo đó, Điều 44 Luật thi hành án dân sự 2008 quy định người được thi hành án có nghĩa vụ tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; nếu muốn yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh thì phải chứng minh là đã tiến hành xác minh không có kết quả và phải chịu chi phí xác minh. Quy định trên trong thực tiễn thực hiện cho thấy chưa phù hợp ở giai đoạn hiện tại của điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước, do cơ chế quản lý, công khai tài sản chưa được hoàn thiện, minh bạch, sự hỗ trợ của cơ quan, tổ chức, cá nhân để người được thi hành án thực hiện nghĩa vụ này còn chưa hiệu quả, vì vậy, nghĩa vụ này trở thành gánh nặng cho người được thi hành án, nhất là đối với những người được thi hành án già cả, neo đơn, ốm đau, nghèo, ở vùng sâu, vùng xa, ở địa phương khác với người phải thi hành án. Tiếp cận từ quan điểm “việc gì có lợi cho dân thì làm”, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người được thi hành án trong việc thực hiện quyền yêu cầu thi hành án đã được pháp luật công nhận, trên cơ sở khôi phục quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự 1993 và Pháp lệnh thi hành án dân sự 2004, Luật sửa đổi, bổ sung bỏ nghĩa vụ của người được thi hành án trong việc phải chứng minh điều kiện thi hành án của người phải thi hành án, phải chứng minh đã tiến hành xác minh mới có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự tiến hành xác minh, do đó, bỏ nghĩa vụ của người yêu cầu thi hành án phải nộp chi phí xác minh. Từ nghĩa vụ xác minh, Luật sửa đổi, bổ sung quy định chuyển hóa thành quyền của người được thi hành án trong việc cho phép họ được tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 7 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 minh, cung cấp cho cơ quan thi hành án thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án do Chấp hành viên thực hiện; trong trường hợp cung cấp thông tin chính xác về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án và các trường hợp khác theo quy định của Chính phủ thì người được thi hành án còn được miễn, giảm phí thi hành án. Mặt khác, một trong những sự bức xúc của người được thi hành án đó là tình trạng người phải thi hành án tìm mọi cách để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ thi hành án, như: không nhận tài sản là của mình, đồng ý tài sản là của người khác, không khởi kiện yêu cầu phân chia tài sản chung. Do đó, Luật đã quy định bổ sung quyền của người được thi hành án trong việc yêu cầu Tòa án xác định, phân chia quyền sở hữu, sử dụng tài sản; yêu cầu Tòa án giải thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót; khởi kiện dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có tranh chấp về tài sản liên quan đến thi hành án. Đây là quyền quan trọng để tạo cơ hội cho người được thi hành án bảo vệ kịp thời và đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp mà bản án, quyết định đã ghi nhận. Người được thi hành án có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định; thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú; chịu phí, chi phí thi hành án theo quy định. 1.2. Quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án Tương tự như nội hàm của Điều 7, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung mới Điều 7a về quyền, nghĩa vụ của người phải thi hành án. Bên cạnh các quyền của người phải thi hành án (cũng là các quyền chung với người được thi hành án), Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung điểm quan trọng là quy định người phải thi hành án có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của mình khi có yêu cầu của người có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung kê khai đó. Đây là quy định mới, vừa khuyến khích sự tự nguyện thi hành án, nâng cao ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, ràng buộc trách nhiệm của người phải thi hành án đối với nghĩa vụ thi hành án, vừa giảm tải trách nhiệm của Chấp hành viên, chi phí của nhà nước, đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người được thi hành án. Mặt khác, người phải thi hành án bổ sung quy định người phải thi hành án có nghĩa vụ thực hiện các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú. 1.3. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan Với việc bổ sung mới Điều 7b về quyền, nghĩa vụ của người có quyền, nghĩa vụ liên quan, Luật sửa đổi, bổ sung đã làm rõ các quyền của người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc thi hành án giữa các bên đương sự, giúp cho họ kịp thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có liên quan đến hoạt động thi hành án dân sự. Luật sửa đổi, bổ sung cũng khẳng định người có quyền, nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ thực hiện nghiêm chỉnh các quyết định, yêu cầu của Chấp hành viên trong thi hành án; thông báo cho cơ quan thi hành án dân sự khi có thay đổi về địa chỉ, nơi cư trú để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành án dân sự. 2. THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 2.1. Chuyển giao bản án, quyết định GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 8 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 - Điều 28 bổ sung trách nhiệm của Trong tài thương mại phải chuyển giao quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cho cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định. - Mặt khác, quy định cụ thể hơn thời hạn Tòa án, Trong tài phải chuyển giao bản án, quyết định: + Toà án đã ra bản án, quyết định quy định tại các điểm a, b, c, d và g khoản 1 Điều 2 của Luật này phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật. + Toà án đã ra bản án, quyết định quy định tại điểm a khoản 2 Điều 2 của Luật này phải chuyển giao bản án, quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định. + Tòa án, Trọng tài thương mại đã ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phải chuyển giao quyết định đó cho cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền ngay sau khi ra quyết định. 2.2. Thủ tục nhận bản án, quyết định Quy định cụ thể về cách thức khi nhận bản án, quyết định do Toà án, Trọng tài thương mại chuyển giao, cơ quan Thi hành án dân sự phải kiểm tra, vào sổ nhận bản án, quyết định. Việc giao, nhận trực tiếp bản án, quyết định phải có chữ ký của hai bên; trường hợp nhận được bản án, quyết định và tài liệu có liên quan bằng đường bưu điện thì cơ quan Thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho Toà án đã chuyển giao biết. 2.3. Tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án - Gộp các Điều 31, 32, 33 và 34 thành 01 điều. - Thay đổi quy định “đơn yêu cầu thi hành án” bằng thuật ngữ có ý nghĩa chung hơn “yêu cầu thi hành án” để thể hiện việc yêu cầu thi hành án không chỉ bằng đơn mà còn bằng hình thức khác và cũng phù hợp với thông lệ quốc tế không bắt buộc phải chỉ bằng đơn yêu cầu thi hành án. - Quy định rõ hơn về tiếp nhận, từ chối yêu cầu thi hành án thay cho tiếp nhận, từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án. - Không bắt buộc yêu cầu thi hành án phải có thông tin về tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án (chỉ quy định nếu có). - Quy định trường hợp người yêu cầu trực tiếp trình bày bằng lời nói thì cơ quan thi hành án dân sự phải lập biên bản có các nội dung cụ thể; biên bản này có giá trị như đơn yêu cầu. - Quy định khi tiếp nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ tiếp nhận yêu cầu thi hành án và thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu thay cho việc cấp giấy xác nhận đã nhận đơn như trước đây. 2.4. Thẩm quyền thi hành án - Cùng với các điều khoản khác trong Luật thi hành án dân sự số 26/2008/QH12, tại Điều 35 Luật thi hành án dân sự cụm từ “Tòa án cấp tỉnh” được thay bằng cụm từ “Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”; cụm từ “Tòa án cấp huyện” được thay bằng cụm từ “Tòa án nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương”. GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 9 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 - Về nội dung, điểm c khoản 1, khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 35 được sửa đổi, bổ sung như sau: + Cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện có thẩm quyền thi hành quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án nhân dân cấp cao đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương nơi cơ quan thi hành án dân sự có trụ sở. + Cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có thẩm quyền thi hành các bản án, quyết của Tòa án nhân dân cấp cao; phán quyết, quyết định của Trọng tài thương mại. + Cơ quan thi hành án cấp quân khu có thẩm quyền thi hành quyết định dân sự của Toà án nhân dân tối cao chuyển giao cho cơ quan thi hành án cấp quân khu. 2.5. Ra quyết định thi hành án Có những nội dung sửa đổi, bổ sung là: - Thay đổi kỹ thuật xây dựng pháp luật quy định về ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu chuyển lên trước quy định về chủ động ra quyết định thi hành án nhằm đáp ứng hơn yêu cầu tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013. - Bổ sung một số loại việc chủ động thi hành án để bảo đảm lợi ích Nhà nước, gồm: + Lệ phí Tòa án. + Các khoản thu khác cho Nhà nước (ngoài khoản tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản như Luật thi hành án dân sự năm 2008). + Quyết định của Tòa án giải quyết phá sản. - Quy định rõ hơn thời hạn ra quyết định thi hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với một số trường hợp cụ thể: + Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được bản án, quyết định về hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu hủy vật chứng, tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải ra quyết định thi hành án. + Đối với quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải ra ngay quyết định thi hành án. + Đối với quyết định của Tòa án giải quyết phá sản thì phải ra quyết định thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định. - Quy định rõ quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên, chức vụ của người ra quyết định; số, ngày, tháng, năm, tên cơ quan, tổ chức ban hành bản án, quyết định; tên, địa chỉ của người phải thi hành án, người được thi hành; phần nghĩa vụ phải thi hành án; thời hạn tự nguyện thi hành án. 2.6. Gửi quyết định về thi hành án Quy định rõ trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, các quyết định về thi hành án phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, trừ trường hợp Luật này có quy định khác. Quyết định cưỡng chế thi hành án phải được gửi cho Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi tổ chức cưỡng chế thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thực hiện quyết định cưỡng chế thi hành án.” GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 10 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 2.7. Xác minh điều kiện thi hành án Vấn đề này có nhiều nội dung sửa đổi, bổ sung: - Chuyển trách nhiệm xác minh của người phải thi hành án thành trách nhiệm của Nhà nước (Chấp hành viên). - Xác định rõ thời hạn Chấp hành viên phải tiến hành xác minh: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải tiến hành xác minh ngay. Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án thì ít nhất 06 tháng một lần, Chấp hành viên phải xác minh điều kiện thi hành án. Trường hợp người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành án là người đang chấp hành hình phạt tù mà thời gian chấp hành hình phạt tù còn lại từ 02 năm trở lên hoặc không xác định được địa chỉ, nơi cư trú mới của người phải thi hành án thì thời hạn xác minh ít nhất 01 năm một lần. Sau hai lần xác minh mà người phải thi hành án vẫn chưa có điều kiện thi hành án thì cơ quan Thi hành án dân sự phải thông báo bằng văn bản cho người được thi hành án về kết quả xác minh. Việc xác minh lại được tiến hành khi có thông tin mới về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án. - Bổ sung quy định mới: “Người phải thi hành án phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách nhiệm về việc kê khai của mình”. - Cho phép cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, cư trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác minh điều kiện thi hành án. - Quy định khi xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên có trách nhiệm cụ thể như: Xuất trình thẻ Chấp hành viên; lập biên bản thể hiện đầy đủ kết quả xác minh có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân nơi tiến hành xác minh thay cho phải 03 chữ ký như trước đây.v.v. - Quy định người được thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án cho cơ quan Thi hành án dân sự. Trường hợp Chấp hành viên thấy cần thiết hoặc kết quả xác minh của Chấp hành viên và người được thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của Viện kiểm sát thì phải xác minh lại. Việc xác minh lại được tiến hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh do đương sự cung cấp hoặc nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát. - Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện thi hành án phải cung cấp thông tin cho Chấp hành viên, người được thi hành trong thời hạn nhất định và phải chịu trách nhiệm về việc cung cấp thông tin: a) Cơ quan, tổ chức, công chức tư pháp - hộ tịch, địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường, cán bộ, công chức cấp xã khác và cá nhân có liên quan thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông tin đã cung cấp; b) Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 11 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay; c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu rõ lý do. - Trường hợp người được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. 2.8. Xác định việc chưa có điều kiện thi hành án Đây là quy định hoàn toàn mới so với pháp luật hiện hành, Điều 44a được bổ sung với 02 khoản, với các nội dung sau đây: - Căn cứ kết quả xác minh điều kiện thi hành án, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định về việc chưa có điều kiện thi hành án khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: a) Người phải thi hành án không có thu nhập hoặc có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án, người mà họ có trách nhiệm nuôi dưỡng và không có tài sản để thi hành án hoặc có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí cưỡng chế thi hành án hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để thi hành án; b) Người phải thi hành án phải thi hành nghĩa vụ về trả vật đặc định nhưng vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không thể sử dụng được; phải trả giấy tờ nhưng giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được mà đương sự không có thỏa thuận khác; c) Chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án, người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng. - Luật sửa đổi, bổ sung quy định thông tin về tên, địa chỉ, nghĩa vụ phải thi hành của người phải thi hành án chưa có điều kiện thi hành được đăng tải trên trang thông tin điện tử về thi hành án dân sự và gửi cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi xác minh để niêm yết. Khi người phải thi hành án có điều kiện thi hành thì cơ quan thi hành án phải tổ chức thi hành. Quy định mới này nhằm nhắc nhở người phải thi hành án cân nhắc, lựa chọn biện pháp tự nguyện thi hành án, hạn chế các trường hợp không chấp hành án, góp phần giảm tải chi phí, thời gian, trách nhiệm của Chấp hành viên và người được thi hành án trong tiến trình tổ chức thi hành án; nâng cao ý thức, trách nhiệm của người phải thi hành án đối với việc chấp hành pháp luật để tiếp tục giữ uy tín; từ đó, đảm bảo quyền lợi cho người được thi hành án, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật; nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án dân sự, phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc công khai thông tin về tình hình hoạt động, về khả GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 12 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 năng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành án sẽ giúp cho các giao dịch mới thận trọng hơn, đảm bảo hơn, tránh lặp lại quy trình tranh chấp, khiếu kiện, thi hành án. 2.9. Thời hạn tự nguyện thi hành án Nội dung này được sửa đổi theo hướng rút ngắn thời hạn tự nguyện thi hành án từ 15 ngày theo quy định tại Điều 45 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 xuống còn 10 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được quyết định thi hành án hoặc được thông báo hợp lệ quyết định thi hành án. Quy định này nhằm hạn chế việc kéo dài thời hạn thi hành án, đồng thời phù hợp với thời hạn Chấp hành viên phải tiến hành xác minh điều kiện thi hành án quy định tại Điều 44 Luật thi hành án dân sự. 2.10. Thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án Nội dung này có 03 vấn đề được sửa đổi, bổ sung, cụ thể: - Bổ sung khoản lệ phí Tòa án được thanh toán cùng hàng với án phí Tòa án (điểm b khoản 1 Điều 47 Luật thi hành án dân sự). - Sửa đổi làm rõ hơn quy định về thứ tự thanh toán tiền thi hành án trong trường hợp bán tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể (khoản 3 Điều 47). Theo đó, kỹ thuật lập pháp quy định theo hướng xác định chủ thể là bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc không phải là người được thi hành án làm cơ sở cho việc thanh toán tiền thi hành để thống nhất với điều 90 Luật thi hành án dân sự. Về nội dung, bổ sung quy định án phí, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này được thanh toán trước khoản tiền bên nhận cầm cố, thế chấp là bên được thi hành án hoặc trường hợp bán tài sản mà bản án, quyết định tuyên kê biên để bảo đảm thi hành một nghĩa vụ cụ thể từ số tiền thu được từ việc bán tài sản cầm cố, thế chấp, bị kê biên được ưu tiên thanh toán cho bên nhận cầm cố, thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ được bảo đảm của bản án, quyết định được thi hành đó. Ngược lại, trường hợp xử lý tài sản cầm cố, thế chấp mà bên nhận cầm cố, thế chấp không phải là người được thi hành án thì người nhận cầm cố, thế chấp được ưu tiên thanh toán trước khi thanh toán các khoản án phí, chi phí cưỡng chế và khoản tiền quy định tại khoản 5 Điều 115 của Luật này. - Bổ sung quy định ngoài việc thanh toán tiền thi hành án thì quy định trả tài sản thi hành án vào tên của Điều luật và khoản 5 của Điều 47 Luật Thi hành án dân sự, đồng thời quy định dẫn chiếu phương thức xử lý tài sản tại Điều 126 của Luật này. Theo đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày thu được tiền, tài sản thi hành án, Chấp hành viên phải thực hiện việc thanh toán tiền, trả tài sản thi hành án. Trường hợp đương sự không đến nhận thì tiền, tài sản đó được xử lý theo quy định tại Điều 126 của Luật này. 2.11. Hoãn thi hành án Nội dung này sửa đổi, bổ sung các trường hợp hoãn thi hành án. Cụ thể là Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự ra quyết định hoãn thi hành án trong trường hợp sau đây: a) Người phải thi hành án bị ốm nặng, có xác nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở lên; bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quyết định của Tòa án; GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 13 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 b) Chưa xác định được địa chỉ của người phải thi hành án hoặc vì lý do chính đáng khác mà người phải thi hành án không thể tự mình thực hiện được nghĩa vụ theo bản án, quyết định; c) Đương sự đồng ý hoãn thi hành án; việc đồng ý hoãn thi hành án phải lập thành văn bản ghi rõ thời hạn hoãn, có chữ ký của đương sự; trong thời gian hoãn thi hành án thì người phải thi hành án không phải chịu lãi suất chậm thi hành án, trừ trường hợp đương sự có thỏa thuận khác; d) Tài sản để thi hành án đã được Tòa án thụ lý để giải quyết theo quy định tại Điều 74 và Điều 75 của Luật này; tài sản được kê biên theo Điều 90 của Luật này nhưng sau khi giảm giá theo quy định mà giá trị bằng hoặc thấp hơn chi phí và nghĩa vụ được bảo đảm; đ) Việc thi hành án đang trong thời hạn cơ quan có thẩm quyền giải thích bản án, quyết định và trả lời kiến nghị của cơ quan thi hành án dân sự theo quy định tại điểm b khoản 2 và điểm d khoản 3 Điều 170 của Luật này; e) Người được nhận tài sản, người được giao nuôi dưỡng đã được thông báo hợp lệ 02 lần về việc nhận tài sản, nhận người được nuôi dưỡng nhưng không đến nhận; g) Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án theo quy định tại Điều 54 của Luật này chưa thực hiện được vì trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng; h) Tài sản kê biên không bán được mà người được thi hành án không nhận để thi hành án theo quy định tại khoản 3 Điều 104 của Luật này. 2.12. Đình chỉ thi hành án - Bỏ cụm từ “các” trong tiêu đề của trường hợp đình chỉ thi hành án. Theo đó, Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp do Luật này quy định. - Sửa đổi quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 về đình chỉ thi hành án trong trường hợp đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sự “không tiếp tục việc thi hành án”, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba bằng việc “đương sự có thoả thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan Thi hành án dân sựđình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định,trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba”. - Sửa đổi điểm d khoản 1 Điều 50 “Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 của Luật này”. Theo đó, bổ sung quy định không đình chỉ thi hành án trong trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác. - Sửa đổi điểm e khoản 1 Điều 50 theo hướng bỏ quy đinh đình chỉ thi hành án trong trường hợp có quyết định “giảm một phần nghĩa vụ thi hành án”. Vì vậy, theo khoản này thì đình chi thi hành án khi “ có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án”. GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 14 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 - Sửa đổi điểm h khoản 1 Điều 50 theo hướng bổ sung đình chỉ thi hành án trong trường hợp “người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên”. 2.13. Kết thúc thi hành án Do bỏ cơ chế trả đơn yêu cầu thi hành án, vì vậy cũng bỏ trường hợp đã có quyết định trả đơn yêu cầu thi hành án, do đó, việc thi hành án đương nhiên kết thúc chỉ còn trong 02 trường hợp sau đây: - Đương sự đã thực hiện xong quyền, nghĩa vụ của mình. - Có quyết định đình chỉ thi hành án. 2.14. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án Điểm d và điểm e khoản 1 Điều 54 được sửa đổi, bổ sung như sau: - Việc chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án đối với trường hợp doanh nghiệp giải thể do bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp thì nghĩa vụ thi hành án được chuyển giao theo quy định của Luật doanh nghiệp. - Trường hợp doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi thành công ty cổ phần mà trước đó chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của mình thì sau khi chuyển đổi, công ty cổ phần tiếp tục thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án. 2.15. Điều kiện miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước (khoản 1 Điều 61). - Sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định điều kiện chung mà người phải thi hành án có thể được xét miễn nghĩa vụ thi hành án khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Không có tài sản hoặc có tài sản nhưng tài sản đó theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc không có thu nhập hoặc mức thu nhập thấp, chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho người phải thi hành án và gia đình họ; b) Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị dưới 2.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 5.000.000 đồng. - Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước có thể được xét miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; b) Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị dưới 5.000.000 đồng hoặc hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng. - Người phải thi hành án đã thi hành được một phần khoản thu nộp ngân sách nhà nước thì có thể được xét giảm một phần nghĩa vụ thi hành án khi có đủ các điều kiện sau đây: a) Thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều này; b) Hết thời hạn 05 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá một phần tư số tiền còn lại phải thi hành án; GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 15 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 c) Hết thời hạn 10 năm, kể từ ngày ra quyết định thi hành án mà phần nghĩa vụ còn lại có giá trị từ trên 100.000.000 đồng, mỗi lần giảm không quá một phần năm số tiền còn lại phải thi hành án nhưng tối đa không quá 50.000.000 đồng/lần. - Người phải thi hành án đã tích cực thi hành được một phần án phí, tiền phạt nhưng lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục thi hành được phần nghĩa vụ còn lại hoặc lập công lớn thì có thể được miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại. - Người phải thi hành án (trừ trường hợp người phải thi hành án đã tích cực thi hành được một phần án phí, tiền phạt nhưng lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hỏa hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra mà không thể tiếp tục thi hành được phần nghĩa vụ còn lại hoặc lập công lớn thì có thể được miễn thi hành phần nghĩa vụ còn lại) chỉ được xét miễn hoặc giảm một lần trong 01 năm đối với mỗi bản án, quyết định. Quyết định thi hành án lần đầu là căn cứ để xác định thời hạn xét miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án. 3. CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ 3.1. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án Được sửa đổi, bổ sung cho rõ hơn: Chấp hành viên lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án trong trường hợp cần huy động lực lượng chứ không phải trong bất kỳ trường hợp là như trước đây và bổ sung kế hoạch cưỡng chế thi hành án phải có tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế. Mặt khác, bổ sung quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kế hoạch cưỡng chế của cơ quan Thi hành án dân sự cùng cấp, cơ quan Công an có trách nhiệm xây dựng kế hoạch và lập phương án bảo vệ cưỡng chế. Cơ quan Công an có trách nhiệm bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, cản trở, chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu hiệu phạm tội. 3.2. Chi phí cưỡng chế thi hành án (điểm a khoản 2 và điểm b khoản 3 Điều 73) Được sửa đổi, bổ sung theo hướng người được thi hành án phải không phải chịu chi phí xác minh điều kiện thi hành án, chi phí này được chuyển về ngân sách nhà nước trả. 3.3. Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án Được sửa đổi, bổ sung theo hướng: - Đổi tên điều luật từ “Cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung” thành “Xác định, phân chia, xử lý tài sản chung để thi hành án”. - Quy định rõ hơn Chấp hành viên phải tự xác định phần tài sản chung của người phải thi hành án để xử lý. Trong trường hợp chưa xác định được phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để thi hành án thì Chấp hành viên phải thông báo cho người phải thi hành án và những người có quyền sở hữu chung đối với tài sản đó biết để họ tự thỏa thuận phân chia tài sản chung hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà các bên không có thỏa thuận, thỏa thuận vi phạm quy định tại Điều 6 của Luật này hoặc thỏa thuận không được và không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 16 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 có quyền yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu Tòa án giải quyết thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất của người phải thi hành án trong khối tài sản chung theo thủ tục tố tụng dân sự. Chấp hành viên xử lý tài sản theo quyết định của Toà án. - Bổ sung và quy định rõ hơn về quyền của chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua phần tài sản của người phải thi hành án trong khối tài sản thuộc sở hữu chung. Trước khi bán tài sản lần đầu đối với tài sản thuộc sở hữu chung, Chấp hành viên thông báo và định thời hạn cho chủ sở hữu chung mua phần tài sản của người phải thi hành án theo giá đã định trong thời hạn ba tháng đối với bất động sản, một tháng đối với động sản; đối với những lần bán tài sản tiếp theo thì thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ (khác với Nghị định 125 chỉ ưu tiên lần đầu). Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn ưu tiên mà chủ sở hữu chung không mua tài sản thì tài sản được bán theo quy định tại Điều 101 của Luật này. 3.4. Giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án Điều 75 được sửa đổi, bổ sung những nội dung sau: - Thay tên điều từ “Xử lý đối với tài sản khi cưỡng chế có tranh chấp” thành “Giải quyết tranh chấp, yêu cầu hủy giấy tờ, giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án”. - Quy định về quyền khởi kiện của người tranh chấp: Trường hợp tài sản của người phải thi hành án bị cưỡng chế để thi hành án mà có người khác tranh chấp thì Chấp hành viên thông báo cho đương sự, người có tranh chấp về quyền của họ được khởi kiện tại Toà án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp khởi kiện tại Tòa án hoặc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì việc xử lý tài sản được thực hiện theo quyết định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được thông báo hợp lệ mà đương sự, người có tranh chấp không khởi kiện tại Toà án hoặc không đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì Chấp hành viên xử lý tài sản để thi hành án theo quy định của Luật này. - Bổ sung quy định trường hợp có căn cứ xác định giao dịch liên quan đến tài sản thi hành án nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án thì Chấp hành viên thông báo cho người được thi hành án để yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó. Hết thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được thông báo mà người được thi hành án không yêu cầu thì Chấp hành viên yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền hủy giấy tờ liên quan đến giao dịch đó. - Bổ sung quy định trường hợp Chấp hành viên yêu cầu Tòa án xác định phần quyền sở hữu tài sản, phần quyền sử dụng đất trong khối tài sản chung, tuyên bố giao dịch vô hiệu hủy các giấy tờ liên quan đến giao dịch quy định để thi hành án thì không phải chịu án phí, lệ phí Tòa án. 3.5. Định giá lại tài sản kê biên GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 17 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 Sửa đổi, bổ sung điểm b khoản 1 và bổ sung khoản 3 vào Điều 99 theo hướng việc được thực hiện trong trường hợp sau đây: - Đương sự có yêu cầu định giá lại trước khi có thông báo công khai về việc bán đấu giá tài sản. Yêu cầu định giá lại chỉ được thực hiện một lần và chỉ được chấp nhận nếu đương sự có đơn yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo về kết quả thẩm định giá và phải nộp ngay tạm ứng chi phí định giá lại tài sản. - Giá thẩm định lại được lấy làm giá khởi điểm để bán đấu giá theo quy định. 3.6. Hủy kết quả bán đấu giá tài sản (Điều 102) - Bổ sung vào khoản 1 việc hủy kết quả bán đấu giá tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật về bán đấu giá tài sản. Trường hợp kết quả bán đấu giá tài sản bị hủy thì việc xử lý tài sản để thi hành án được thực hiện theo quy định của Luật này. - Sửa đổi từ “đương sự” tại khoản 2 thành “người mua được tài sản bán đấu giá”, Chấp hành viên có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp về kết quả bán đấu giá tài sản, nếu có căn cứ chứng minh có vi phạm trong quá trình bán đấu giá tài sản. 3.7. Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án - Thay đổi tên Điều 103 từ “Giao tài sản bán đấu giá” thành “Bảo vệ quyền của người mua tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án”, đồng thời bổ sung một số nội dung mới. - Người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án được bảo vệ quyền sở hữu, sử dụng đối với tài sản đó. - Trường hợp người mua được tài sản bán đấu giá đã nộp đủ tiền mua tài sản bán đấu giá nhưng bản án, quyết định bị kháng nghị, sửa đổi hoặc bị hủy thì cơ quan thi hành án dân sự tiếp tục giao tài sản, kể cả thực hiện việc cưỡng chế thi hành án để giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp kết quả bán đấu giá bị hủy theo quy định của pháp luật hoặc đương sự có thỏa thuận khác. - Việc cưỡng chế giao tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá, người nhận tài sản để thi hành án thực hiện theo quy định tại các điều 114, 115, 116 và 117 của Luật này. 3.8. Xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành (Điều 104) - Bổ sung cơ chế xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, trả giá. - Quy định rõ hơn về cách thức xử lý tài sản không có người tham gia đấu giá, bán đấu giá không thành: + Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông báo của tổ chức bán đấu giá về việc tài sản đưa ra bán đấu giá lần đầu nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo và yêu cầu đương sự thỏa thuận về mức giảm giá tài sản. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu đương sự không thoả thuận hoặc thoả thuận không được về mức giảm giá thì Chấp hành viên quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 18 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 + Từ sau lần giảm giá thứ hai trở đi mà không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì người được thi hành án có quyền nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án. Trường hợp người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để trừ vào số tiền được thi hành án, trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo về việc không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên thông báo cho người phải thi hành án biết. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được thông báo về việc người được thi hành án đồng ý nhận tài sản để thi hành án, nếu người phải thi hành án không nộp đủ số tiền thi hành án và chi phí thi hành án để lấy lại tài sản đưa ra bán đấu giá thì Chấp hành viên giao tài sản cho người được thi hành án. Đối với tài sản là bất động sản, động sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng thì Chấp hành viên ra quyết định giao tài sản cho người được thi hành án để làm thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản đó cho người được thi hành án. Người phải thi hành án, người đang quản lý, sử dụng tài sản không tự nguyện giao tài sản cho người được thi hành án thì bị cưỡng chế thi hành án. + Trường hợp người được thi hành án không đồng ý nhận tài sản để thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định giảm giá tài sản để tiếp tục bán đấu giá. Nếu giá trị tài sản đã giảm bằng hoặc thấp hơn chi phí cưỡng chế mà người được thi hành án vẫn không nhận để trừ vào số tiền được thi hành án thì tài sản được giao lại cho người phải thi hành án quản lý, sử dụng. Người phải thi hành án không được đưa tài sản này tham gia các giao dịch dân sự cho đến khi họ thực hiện xong nghĩa vụ thi hành án. + Đối với tài sản bán đấu giá để thi hành các khoản nộp ngân sách nhà nước, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo về việc tài sản đưa ra bán đấu giá nhưng không có người tham gia đấu giá, trả giá hoặc bán đấu giá không thành thì Chấp hành viên quyết định giảm giá để tiếp tục bán đấu giá tài sản. + Mỗi lần giảm giá không quá 10% giá khởi điểm của lần bán đấu giá liền kề trước đó. 3.9. Đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản - Quy định rõ hơn hồ sơ đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng gồm có quyết định kê biên tài sản, nếu có; văn bản bán đấu giá thành hoặc quyết định giao tài sản, biên bản giao nhận tài sản để thi hành án. - Bổ sung quy định trường hợp tài sản là quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất mà không có hoặc không thu hồi được giấy chứng nhận thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Chính phủ. - Quy định cụ thể hơn giấy tờ được cấp mới thay thế cho giấy tờ không thu hồi được. Giấy tờ không thu hồi không còn giá trị. 3.10. Thủ tục cưỡng chế trả vật Điểm c khoản 1 Điều 114 được sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ quy định trả đơn yêu cầu thi hành án ở Điều này trong trường hợp cưỡng chế đối với vật đặc định, nếu vật không còn hoặc bị hư hỏng đến mức không sử dụng được mà đương sự có thoả thuận khác về việc thi hành án thì Chấp hành viên thi hành theo thoả thuận. Trường hợp đương sự không thoả GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 19 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 thuận được thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết về thiệt hại do vật phải trả không còn hoặc hư hỏng đến mức không sử dụng được. 3.11. Cưỡng chế giao, trả giấy tờ (Điều 116) - Bổ sung quy định về cưỡng chế giao giấy tờ cùng với trả giấy tờ như trước đây. Theo đó, trường hợp người phải thi hành án không giao, trả giấy tờ cho người được thi hành án theo nội dung bản án, quyết định thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người phải thi hành án giao, trả giấy tờ đó. Trường hợp xác định người thứ ba đang giữ giấy tờ phải giao, trả thì Chấp hành viên yêu cầu người đó giao, trả giấy tờ đang giữ, nếu người thứ ba không tự nguyện giao, trả thì Chấp hành viên cưỡng chế buộc người đó giao, trả giấy tờ để thi hành án. - Bổ sung quy định về trường hợp giấy tờ không thể thu hồi được nhưng có thể cấp lại thì Chấp hành viên yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền ra quyết định hủy giấy tờ đó và cấp giấy tờ mới cho người trúng đấu giá tài sản thi hành án. - Bổ sung quy định trường hợp không thu hồi được giấy tờ về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất thì thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 106 của Luật này. Trường hợp giấy tờ không thể thu hồi và cũng không thể cấp lại được thì ra quyết định xác định việc thi hành án chưa có điều kiện thi hành theo quy định tại Điều 44a của Luật này. CHƯƠNG II: MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC 1. MỘT SỐ BẤT CẬP, VƯỚNG MẮC TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2014 đã khắc phục những điểm bất cập của Luật năm 2008 và sửa đổi, bổ sung một số quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành bản án, quyết định dân sự, hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự... Những sửa đổi, bổ sung này cũng đánh dấu sự phát triển và hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự và cơ cấu tổ chức bộ máy của cơ quan Thi hành án dân sự từ trung ương đến địa phương, về mối quan hệ với các cơ quan hữu quan nhằm tăng cường hiệu quả tổ chức và quản lý hoạt động Thi hành án dân sự, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, vẫn tồn tại nhiều vướng mắc, bất cập phát sinh từ thực tiễn nhưng chưa được sửa đổi. Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án dân sự năm 2014 chưa cụ thể hóa, nên cơ quan Thi hành án dân sự và chấp hành viên gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong công tác thi hành. Điều đó được thể hiện ở các vấn đề sau: Thứ nhất, trong công tác xác minh điều kiện thi hành án Luật Thi hành án dân sự quy định thời hạn xác minh trong thi hành án chủ động là 10 ngày, nhưng trong quá trình áp dụng quy định này có một số bất cập như sau: (i) Theo Điều 45 Luật Thi hành án dân sự hiện hành, thời hạn tự nguyện thi hành án là 15 ngày, kể từ ngày người phải thi hành án nhận được hoặc được thông báo hợp lệ. Chấp hành viên Chi cục THADS huyện Quan Sơn, Thanh Hóa quyết định thi hành án, nhưng nếu đương sự tự nguyện thi hành án, thì kết quả xác minh của chấp hành viên không có giá trị. GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 20 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ Đề tài: Những điểm mới của Luật thi hành án dân sự sửa đổi 2014 (ii) Trong trường hợp kết quả xác minh xác định người phải thi hành án không có điều kiện thi hành án, mà theo quy định tại khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự: “Thời hạn ra quyết định hoãn thi hành án là 05 ngày làm việc, kể từ ngày có căn cứ hoãn thi hành án quy định tại khoản 1 điều này”. Như vậy, nếu ra quyết định hoãn thì không đúng quy định vì chưa hết thời gian tự nguyện thi hành án, nếu không ra quyết định hoãn thì không đúng khoản 3 Điều 48 Luật Thi hành án dân sự. Do vậy, việc đảm bảo thời hạn xác minh theo quy định hiện hành đang là vấn đề rất khó thực hiện trên thực tế. Thứ hai, về việc thực hiện thông báo thi hành án Đây là hoạt động của chấp hành viên, cán bộ và cơ quan Thi hành án dân sự nhằm làm cho đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan biết được quyền và nghĩa vụ của mình phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định. Là hoạt động diễn ra thường xuyên, vì vậy, việc thông báo trong Thi hành án dân sự có ý nghĩa hết sức quan trọng nhằm đảm bảo tính khách quan, minh bạch trong hoạt động thi hành án và là cơ sở để áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án. Đây là hình thức thông báo cuối cùng, có tính chất rộng rãi nhất, nhưng hiện nay, phần lớn các chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự dễ hiểu sai, thực hiện sai các hình thức thông báo. Điều 43 Luật Thi hành án dân sự quy định về điều kiện áp dụng hình thức thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng: (a) Chỉ khi pháp luật có quy định; hoặc (b) khi đương sự có yêu cầu. Tuy nhiên thực tế hiện nay, một số chấp hành viên và cơ quan Thi hành án dân sự vẫn thực hiện trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu cơ quan thi hành án thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng về các quyết định, văn bản để người được thi hành án nắm được. Điều này là hoàn toàn trái với quy định của điều luật đã quy định ở trên và hoàn toàn có thể xảy ra khiếu nại của người phải thi hành án với lý do cơ quan thi hành án thông báo không đúng hình thức, gây ảnh hưởng đến uy tín của họ. Cũng cần lưu ý, khi thực hiện thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo yêu cầu của người được nhận thông báo, chấp hành viên cần lưu lại văn bản yêu cầu cũng như văn bản thể hiện kết quả thông báo để làm cơ sở. Sau khi đã xác định có đủ cơ sở để áp dụng thì khi đó thông báo mới được thực hiện trên phương tiện thông tin đại chúng và thủ tục thông báo sẽ được thực hiện theo khoản 2, 3 Điều 43 Luật Thi hành án dân sự. Trong suốt quá trình tổ chức thi hành bản án, quyết định, việc thông báo về thi hành án diễn ra không chỉ duy nhất một lần mà có thể phải thực hiện thường xuyên, điều này ảnh hưởng lớn đến việc đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nắm được quyền, nghĩa vụ của mình hay không để thực hiện. Điều đó cũng quyết định đến hiệu quả của hoạt động thi hành án, đây cũng là một yếu tố đánh giá chất lượng hoạt động Thi hành án dân sự. Vì vậy, việc nhận thức, áp dụng đúng, đủ các quy định của pháp luật về thông báo thi hành án là rất quan trọng và cần thiết. Chấp hành viên và cơ quan thi hành án không thể chủ quan để gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Thứ ba, về vấn đề miễn, giảm trong thi hành án dân sự Điều 61 Luật Thi hành án dân sự quy định một trong những điều kiện để được miễn, giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước là người phải thi hành án phải thi hành được một phần nghĩa vụ. Quy định này rất khó thực hiện trong thực tiễn vì rất nhiều vụ việc đủ điều kiện về thời gian nhưng người phải thi hành án không có khả năng thi hành dù khoản tiền rất nhỏ, gia đình người phải thi hành án thuộc hộ nghèo ở địa phương hoặc người phải thi hành án là người nước ngoài, không rõ địa chỉ… Đây là một trong GV hướng dẫn: PHAN THỊ THU HIỀN 21 SV thực hiện: TRẦN PHAN QUÝ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan