TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KINH TẾ - QUẢN TRỊ KINH DOANH
TIỂU LUẬN KINH TẾ VI MÔ
Đề tài:
VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
Giảng viên
Học viên thực hiện
TS. Lê Khương Ninh
Nguyễn Ngọc Hiền
MSHV: 130908
Lớp Cao học KTNN.K16
Tháng 10 năm 2009
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Chương 1: GIỚI THIỆU
1.1. Đặt vấn đề:
Xăng dầu là nguồn năng lƣợng thiết yếu và rất quan trọng đối với mỗi quốc
gia. Tuy nhiên, đây là nguồn năng lƣợng không thể tái tạo. Vì vậy, chúng ta phải sử
dụng nguồn năng lƣợng này nhƣ thế nào để mang lại lợi nhuận tối đa trong kinh
doanh? Việc chuyển từ Nhà nƣớc độc quyền kinh doanh xăng dầu sang cho doanh
nghiệp sẽ có tác động nhƣ thế nào đến nhà sản xuất và ngƣời tiêu dùng? Vấn đề
điều chỉnh giá do doanh nghiệp quyết định có sự quản lý của Nhà nƣớc có vận hành
theo đúng cơ chế không? Bên cạnh đó, kinh doanh nhƣ thế nào là đảm bảo hài hoà
các lợi ích của Nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng? Để đƣợc hiểu rõ hơn
về những vấn đề đặt ra ở trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Vấn đề độc quyền trong
kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam” làm đề tài tiểu luận cho môn học kinh tế vi
mô.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu chung
Nghiên cứu vấn đề độc quyền trong kinh doanh xăng dầu tại Việt Nam,
chính sách định giá xăng dầu tác động đến nhà sản xuất và ngƣời tiêu dùng trong
nƣớc.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
(1). Phân tích thực trạng tình hình kinh doanh xăng dầu sau khi áp dụng cơ
chế điều chỉnh giá do doanh nghiệp quyết định có sự quản lý của nhà nƣớc.
(2). Tác động của việc tăng và giảm giá xăng dầu ảnh hƣởng đến nhà sản
xuất và ngƣời tiêu dùng.
(3). Đề xuất giải pháp trong việc điều chỉnh giá xăng dầu.
1.3. Phương pháp nghiên cứu
Mục tiêu (1) sử dụng hệ số co giãn để xác định thị trƣờng cạnh tranh độc
quyền.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 1
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Mục tiêu (2) sử dụng phƣơng pháp phân tích, tổng hợp nói lên sự độc quyền
của ngành kinh doanh xăng dầu.
Mục tiêu (3) sử dụng phƣơng pháp phân tích để tổng kết và đề xuất giải
pháp.
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu vấn đề độc quyền của lĩnh vực kinh doanh xăng dầu trong
nƣớc và sự tác động này đến nhà sản xuất và ngƣời tiêu dùng qua việc tăng giá của
doanh nghiệp.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 2
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1. Mô hình độc quyền
Đối lập với thị trƣờng canh tranh hoàn hảo là thị trƣờng độc quyền. Thị
trƣờng độc quyền đối với một loại hàng hóa nào đó là thị trƣờng mà trong đó chỉ có
một nhà cung ứng hàng hóa đó. Nhà cung ứng duy nhất này đƣợc gọi là nhà độc
quyền. Do là ngƣời duy nhất cung ứng hàng hóa ra thị trƣờng nên đƣờng cung của
nhà độc quyền chính là đƣờng cung của ngành và đƣờng cầu của thị trƣờng chính
là đƣờng cầu đối với sản phẩm của nhà độc quyền.
Một ngành đƣợc xem là độc quyền hoàn toàn khi hội đủ hai điều kiện sau:
- Đối thủ cạnh trạnh không thể gia nhập ngành: Do doanh nghiệp độc quyền
hoàn toàn không có đối thủ cạnh trạnh nên có thể ấn định sản lƣợng hay giá bán tùy
ý mà không lo ngại thu hút những doanh nghiệp khác gia nhập ngành vì sự gia
nhập ngành của các doanh nghiệp mới sẽ khó khăn vì các rào cản, chi phí sản xuất.
- Không có những sản phẩm thay thế tƣơng tự. Nếu không có sản phẩm thay
thế thì nhà độc quyền không lo ngại về tác động của chính sách giá của mình đến
phản ứng của các doanh nghiệp khác.
2.2. Xu hướng dẫn đến độc quyền
2.2.1. Chi phí sản xuất
Nhà độc quyền xuất hiện trong những trƣờng hợp ngành có tính kinh tế nhờ
quy mô. Đối với những ngành này, chi phí trung bình dài hạn (LAC) giảm dần khi
sản lƣợng tăng lên. Do đó, những doanh nghiệp có quy mô lớn thƣờng là những
doanh nghiệp sản xuất với chi phí thấp hơn và có thể loại bỏ các doanh nghiệp khác
bằng cách giảm giá bán sản phẩm mà vẫn có thể thu đƣợc lợi nhuận.
Một khi vị thế độc quyền đƣợc thiết lập, sự gia nhập ngành của các doanh
nghiệp khác sẽ rất khó khăn; vì những doanh nghiệp mới sản xuất ở mức sản lƣợng
thấp, nhƣ vậy phải chịu chi phí cao. Những doanh nghiệp này sẽ dễ dàng bị nhà độc
quyền loại khỏi thị trƣờng bằng cách giảm giá bán sản phẩm. Sự độc quyền hình
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 3
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
thành từ con đƣờng cạnh tranh bằng chi phí nhƣ vậy đƣợc gọi là độc quyền tự
nhiên.
2.2.2. Độc quyền từ nguyên nhân pháp lý
Độc quyền có thể đƣợc tạo ra từ nguyên nhân pháp lý, Pháp luật có thể tạo ra
độc quyền thông qua hai hình thức phổ biến sau:
- Bảo hộ bằng phát minh, sáng chế.
- Bảo hộ những ngành quan trọng đối với an ninh quốc gia, bằng Pháp luật
và chính sách về giá.
2.2.3. Độc quyền từ xu hướng sáp nhập của các công ty lớn
Trên thế giới hiện nay đang diễn ra xu thế sáp nhập của các công ty lớn. Xu
thế này diễn ra do những nguyên nhân sau:
- Áp lực của việc tìm kiếm khách hàng. Việc sáp nhập của các công ty sẽ mở
rộng đƣợc thị trƣờng cho từng công ty thành viên, giúp cho các công ty gia tăng thị
phần và đi đến chiếm lĩnh thị trƣờng, nhằm tận dụng lợi thế kinh tế theo quy mô.
Do đó, việc sáp nhập có thể tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thâu tóm
thị trƣờng và hình thành vị thế độc quyền.
- Giảm chi phí sản xuất – kinh doanh.
2.3. Yếu tố xác định loại hàng hóa
Hệ số co giãn: Lƣợng hóa sự thay đổi của số cung và số cầu theo sự thay đổi
của giá hàng hóa.
- Công thức:
eQD,P = [ΔQD/QD(%)]/[ΔP/P(%)] = (ΔQD/ΔP)x(P/QD) = (dQD/dP)x(P/Q)
= f’(P)x(P/QD) = f’(P)x(P/f(P)’) với QD = f(P)
- Ý nghĩa: Số phần trăm thay đổi của cầu do 1% thay đổi của giá.
+ Nếu eQD,P < -1 là cầu co giãn nhiều, vì số phần trăm thay đổi của cầu lớn
hơn số phần trăm thay đổi của giá.
+ Nếu eQD,P = - 1 là cầu co giãn đơn vị. Khi đó, số phần trăm thay đổi của
lƣợng cầu bằng đúng với tỷ lệ thay đổi của giá.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 4
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
+ Nếu eQD,P > - 1 là số cầu co giãn ít. Khi đó, số phần trăm thay đổi của
lƣợng cầu nhỏ hơn số phần trăm thay đổi của tăng giá.
P
-a/b
Vùng co giản
A: Điểm co giản đơn vị
PA
Vùng không co giản
0
Q
QA
a
Hình 1: Hệ số co giãn điểm
Các yếu tố ảnh hưởng đến e
- Khả năng thay thế của hàng hóa, dịch vụ: độc quyền;
- Mức độ thiết yếu của hàng hóa, dịch vụ: thiết yếu và xa xỉ;
- Mức chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong tổng chi tiêu;
- Hệ số co giãn điểm;
- Độ dài thời gian.
2.4. Nguyên tắc tối đa hóa lợi nhuận của nhà độc quyền
Đƣờng cầu của một công ty độc quyền là đƣờng cầu thị trƣờng (do công ty là
duy nhất trên thị trƣờng). Do đƣờng cầu thị trƣờng là đƣờng cong có độ dốc xuống
dƣới, doanh thu cận biên sẽ ít hơn giá của hàng hoá. Nhƣ đã lƣu ý trƣớc đó, doanh
thu cận biên là: dƣơng khi cầu co giãn, bằng 0 khi cầu là đơn vị co giãn, và âm khi
cầu không co giãn.
Nhƣ chúng ta đã biết, bất kỳ công ty nào tối đa hoá lợi nhuận bằng việc sản
xuất tại mức sản lƣợng mà tại đó doanh thu cận biên bằng chi phí cận biên (chừng
nào P > AC). Với công ty độc quyền đƣợc mô tả trong biểu đồ trên đây, MR = MC
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 5
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
tại mức sản lƣợng Q 0. Giá do công ty tính là P 0 (giá mà công ty có thể tính tại mỗi
mức sản lƣợng với đƣờng cầu cho trƣớc). Do giá P 0 vƣợt quá tổng chi phí trung
bình (AC0) tại mức sản lƣợng này, công ty sẽ thu đƣợc lợi nhuận. Mặc dù vậy, lợi
nhuận độc quyền này khác với lợi nhuận mà các công ty cạnh tranh hoàn hảo nhận
đƣợc do những lợi nhuận độc quyền này sẽ đƣợc duy trì về dài hạn (do các rào cản
với việc gia nhập là đặc trƣng của một thị trƣờng độc quyền)
P
MC AC
p0
B
AC0
A
D
MR
q0
Q
Hình 2: Nguyên tắc đối đa hóa lợi nhuận của nhà độc quyền
Tất nhiên, một công ty độc quyền cũng có thể chịu lỗ. Biểu đồ dƣới đây
minh hoạ cho khả năng này. Trong biểu đồ này, mức lỗ mà công ty chịu chính là
diện tích hình chữ nhật p0BAAC0. Mặc dù do giá lớn hơn AVC, công ty tiếp tục
hoạt động trong ngắn hạn, nhƣng sẽ rời bỏ thị trƣờng về dài hạn. Lƣu ý là sở hữu
độc quyền không đảm bảo việc duy trì lợi nhuận kinh tế. Hoàn toàn có khả năng ít
ngƣời muốn có độc quyền trong việc sản xuất một hàng hoá nào đó…
P
MC
AC
p0
B
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
AC0
Trang 6
A
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Hình 3: Biểu hiện sự thiệt hại của nhà độc quyền
Những ai không nghiên cứu kinh tế thƣờng tin một nhà độc quyền có khả
năng chọn bất kỳ mức giá nào mà họ muốn và có thể luôn nhận đƣợc lợi nhuận cao
hơn bằng việc tăng giá. Dù vậy, nhƣ trong tất cả các cơ cấu thị trƣờng khác, nhà
độc quyền bị kiềm chế bởi mức cầu sản phẩm của họ. Nếu một công ty độc quyền
muốn tối đa hóa lợi nhuận, công ty phải lựa chọn mức sản lƣợng mà tại đó
MR=MC. Điều này quyết định mức giá duy nhất đƣợc tính trong ngành kinh
doanh. Một sự tăng giá lớn hơn mức giá này sẽ làm giảm lợi nhuận của công ty.
2.5. Chính sách phân biệt giá
Chính sách phân biệt giá hoàn toàn: là chính sách mà nhà độc quyền ấn
định cho mỗi (nhóm) khách hàng một mức giá tối đa mà ngƣời đó có thể trả.
Chính sách phân biệt giá đối với hai thị trường: Các công ty hoạt động
trong các thị trƣờng không phải thị trƣờng cạnh tranh hoàn hảo có thể tăng mức lợi
nhuận bằng việc phân biệt giá cả dựa vào hệ số co giản của cầu, một thực tế trong
đó mức giá cao hơn đƣợc tính với những khách hàng có cầu không co giãn nhất với
sản phẩm. Điều kiện cần thiết cho việc phân biệt giá cả gồm:
Công ty không thể là ngƣời làm giá,
Công ty phải có thể phân loại khách hàng theo độ co giãn của cầu của họ,
Việc bán lại sản phẩm phải là việc không khả thi.
gọi làítgiá
sãn lòng trả hayPgiá đặt trƣớc
ngƣờinhiều
tiêu dùng.
PMức giá đó Cầu
co giản
Cầucủa
co giản
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
p0
Trang 7
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Hình 4: Chính sách phân biệt giá đối với hai thị trường
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 8
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Chương 3: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐỘC QUYỀN
TRONG KINH DOANH XĂNG DẦU TẠI VIỆT NAM
3.1. Thực trạng vấn đề kinh doanh xăng dầu:
Xăng dầu là một trong những nguồn nhiên liệu thiết yếu trong đời sống
thƣờng nhật của con ngƣời; nó phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng; là yếu tố đầu vào
khá quan trọng của các quá trình sản xuất. Do đó việc quy định điều kiện kinh
doanh mặt hàng này là một vấn đề hết sức nhạy cảm đối với mỗi ngƣời dân chúng
ta. Chính vì vậy mà chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản nhằm điều chỉnh
những hoạt động trong lĩnh vực này.
Theo Nghị định số 55/2007/NĐ-CP ngày 06/04/2007 của Chính phủ quy
định về kinh doanh xăng dầu và điều kiện kinh doanh xăng dầu tại thị trƣờng Việt
Nam thì giá bán xăng dầu sẽ đƣợc áp dụng theo cơ chế thị trƣờng nghĩa là thƣơng
nhân kinh doanh xuất, nhập khẩu xăng dầu hoặc thƣơng nhân sản xuất, chế biến
xăng dầu tự quyết định sau khi nộp các loại thuế, phí theo quy định của pháp luật
hiện hành.
Theo thống kê hiện nay thì có khoảng 11 doanh nghiệp Nhà nƣớc đƣợc kinh
doanh nhập khẩu xăng dầu bán tại thị trƣờng nội địa với khoảng 12.000 trạm bán lẻ
xăng dầu (cây xăng). Trong đó 6.000 cây xăng là của Petrolimex (khoảng hơn
1.800 cây xăng có 100% vốn của tổng công ty, hơn 4000 cây liên kết treo biển tổng
công ty và lấy xăng của tổng công ty).
Tại điều 11 Luật cạnh tranh hiện hành đã định nghĩa rõ: “doanh nghiệp đƣợc
coi là có vị trí thống lĩnh thị trƣờng nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trƣờng
liên quan…”; tại Điều 9 cũng quy định “Cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia
thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trƣờng liên quan từ 30% trở lên.”
Với tỷ lệ thị phần lên tới 60% của Petrolimex hiện nay, rõ ràng là một con số
đảm bảo an toàn cho vị thế của Petrolimex trên thị trƣờng xăng dầu trong nƣớc.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 9
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Hơn nữa nếu đơn vị chiếm 60% thị phần cung cấp nguồn nhiên liệu này đã
kiềm giá thì cũng chẳng có đơn vị nào tăng giá. Bởi lẽ, nếu giá thế giới mà tăng
cao, doanh nghiệp khác bán bằng giá của Petrolimex cũng đã là khó khăn.
Có thể nói, xăng dầu là mặt hàng chiến lƣợc, khá nhạy cảm và chủ trƣơng
tăng quyền tự chủ cho doanh nghiệp để thị trƣờng xăng dầu vận hành theo cơ chế
thị trƣờng, đảm bảo quyền lợi của các bên ngay lập tức nhận đƣợc sự đồng tình,
ủng hộ của nhiều ngƣời. Tuy nhiên, một số ý kiến khác vẫn băn khoăn về việc liệu
quyền lợi của ngƣời tiêu dùng có đƣợc đảm bảo khi doanh nghiệp đƣợc tự quyết
định giá theo ý mình, cũng nhƣ cần làm gì để tránh tình trạng chuyển từ độc quyền
Nhà nƣớc sang độc quyền doanh nghiệp.
Nguyên nhân chính của những tranh cãi trên là do Petrolimex đang chiếm
với khoảng 60% thị phần chi phối thị trƣờng. Vì các sản phẩm xăng dầu gần nhƣ
đồng nhất và dịch vụ tƣơng đối đơn giản nên các nhà phân phối xăng dầu khác đều
chạy theo giá bán của Petrolimex, vì nếu họ bán với giá cao hơn sẽ mất khách, còn
bán thấp hơn thì bị giảm lợi nhuận. Đối với Petrolimex, một khi có khả năng chi
phối thị trƣờng thì công ty này có thể “nâng giá nhanh, hạ giá chậm” và đƣơng
nhiên là các đơn vị khác sẽ đƣợc “ăn theo”. Kết quả là sức mạnh độc quyền (hay
tựa-độc-quyền) của Petrolimex đã triệt tiêu cơ chế thị trƣờng cạnh tranh và làm
giảm phúc lợi của ngƣời tiêu dùng.
Khi kỷ luật của cạnh tranh không phát huy tác dụng thì Nhà nƣớc có cơ sở để
can thiệp thông qua các biện pháp điều tiết nhằm đảm bảo hiệu quả kinh tế và bảo
vệ phúc lợi của ngƣời tiêu dùng. Cụ thể, Nhà nƣớc có thể điều tiết về mức giá, về
chất lƣợng dịch vụ và về quy định gia nhập - rút lui khỏi hoạt động kinh doanh
xăng dầu.
Bản chất của việc điều tiết mức giá là điều chỉnh mối quan hệ lợi ích giữa
Nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời tiêu dùng. Có lẽ Nhà nƣớc không muốn quy định
một mức giá quá cao vì nhƣ vậy sẽ ảnh hƣởng trực tiếp đến chi phí của khu vực hộ
gia đình và kinh doanh (và tất nhiên là cả CPI nữa). Nhà nƣớc cũng không thể quy
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 10
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
định một mức giá quá thấp vì điều này tuy làm lợi cho ngƣời tiêu dùng nhƣng lại
gây khó khăn cho doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu và ảnh hƣởng tới ngân sách
Nhà nƣớc.
Một quy tắc phổ biến của điều tiết giá là quy định một mức giá sao cho
doanh nghiệp bị điều tiết có thể thu hồi chi phí và có một mức lợi nhuận hợp lý.
Tuy nhiên, việc áp dụng quy tắc này trong thực tế không hề dễ dàng. Khó khăn thứ
nhất là làm thế nào để xác định đƣợc các chi phí hợp lý của doanh nghiệp. Chi phí
này bao gồm giá nhập xăng dầu (fob), phí bảo hiểm, cƣớc vận chuyển về đến Việt
Nam, các loại thuế và phí, chi phí kinh doanh (vốn, lao động, khấu hao...), trích quỹ
bình ổn và các khoản trích nộp khác theo luật định. Nhìn vào cơ cấu chi phí này, có
thể thấy ngay là có những chi phí cơ quan điều tiết có thể quan sát và tính toán
đƣợc một cách tƣơng đối dễ dàng (nhƣ giá xăng dầu thế giới, các loại thuế và phí).
Tuy nhiên cũng có những chi phí rất khó quan sát và xác minh tính hợp lý,
chẳng hạn nhƣ chi phí đầu tƣ, quỹ lƣơng, khấu hao... Rõ ràng là cơ quan điều tiết
không muốn bù đắp cho những chi phí không hợp lý do đầu tƣ kém hiệu quả, do
quỹ lƣơng quá cao vì dƣ thừa lao động hay tiền thƣởng quá đáng. Để giải quyết khó
khăn này, cơ quan điều tiết cần yêu cầu các công ty kinh doanh xăng dầu công khai
cơ cấu chi phí của mình. Bên cạnh đó, cơ quan điều tiết cũng có thể so sánh cơ cấu
chi phí này với cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp cạnh tranh trong và ngoài
nƣớc. Trong trƣờng hợp của Việt Nam, vì Petrolimex có vai trò chi phối thị trƣờng
nên để tiết kiệm chi phí, cơ quan điều tiết trƣớc tiên chỉ cần thực hiện hai nghiệp vụ
trên với doanh nghiệp này.
Khó khăn thứ hai của việc điều tiết giá là làm thế nào để xác định mức lợi
nhuận hợp lý vì các doanh nghiệp xăng dầu có thể lập luận rằng ngành kinh doanh
này tiềm ẩn nhiều rủi ro nên phải đƣợc bù đắp bằng một mức lợi nhuận trên trung
bình. Một lần nữa, việc xác định mức lợi nhuận trung bình của ngành kinh doanh,
đồng thời so sánh với các công ty cạnh tranh trong và ngoài nƣớc có thể giúp cơ
quan điều tiết khắc phục phần nào khó khăn này.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 11
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Bên cạnh hai khó khăn trên, cơ quan điều tiết cũng phải quan tâm đến một số
vấn đề kỹ thuật quan trọng nhƣ xác định giá cơ sở và khi nào thay đổi giá cơ sở.
Nhƣ đã thảo luận ở trên, trong cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp xăng dầu có
một số khoản mục có tính chủ quan, không quan sát đƣợc, vì vậy không nên đƣa
các khoản mục chi phí này vào trong giá cơ sở. Tốt nhất là dùng ngay giá xăng dầu
thế giới - là mức giá hoàn toàn khách quan và minh bạch làm giá cơ sở. Về tần suất
thay đổi giá cơ sở, nếu Nhà nƣớc muốn bình ổn giá thì chỉ nên điều chỉnh giá hay
thuế suất khi giá cơ sở biến động đủ lớn (trên 5% chẳng hạn).
Ngoài giá bán còn có hai công cụ điều tiết khác, đó là điều tiết chất lƣợng
dịch vụ và quy định việc gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh. Về chất lƣợng
dịch vụ, quan trọng nhất là các tiêu chuẩn bảo đảm an toàn và bán đúng bán đủ cho
khách hàng. Về quy định gia nhập - rút lui khỏi ngành kinh doanh, Nhà nƣớc cần
tăng cƣờng tính cạnh tranh cho thị trƣờng bằng cách cho phép sự tham gia của
nhiều đầu mối nhập khẩu, đồng thời cần giảm bớt tính độc quyền trong hoạt động
phân phối xăng dầu.
Không nên hi vọng rằng cơ chế thị trƣờng trong điều kiện tồn tại độc quyền
sẽ nâng cao phúc lợi cho ngƣời tiêu dùng và cải thiện hiệu quả cho nền kinh tế. Nói
cách khác, một khi còn độc quyền và thiếu cạnh tranh thì cơ chế thị trƣờng sẽ
không thể vận hành hiệu quả. Khi ấy, cần đến hoạt động điều tiết một cách công
bình và có hiệu lực của Nhà nƣớc, mà điều này lại phụ thuộc khả năng tách bạch
mục tiêu kinh doanh ra khỏi các mục tiêu chính trị - xã hội và khả năng minh bạch
hóa cơ cấu chi phí của các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu, nhất là những doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trƣờng.
3.2. Vấn đề định giá của các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp sẽ định giá nhƣ sau: Giá cơ sở sẽ đƣợc xác lập để hình
thành nên “giá bán lẻ xăng dầu”. Giá cơ sở là tổng của các khoản nhƣ sau: Giá CIF
(tức giá xăng dầu thế giới theo công bố trên tờ Plalt’s Singapore đƣợc tính bình
quân của số ngày dự trữ lƣu thông theo quy định cùng với chi phí phát sinh để đƣa
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 12
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
sản phẩm về đến cảng) cộng với thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, tỷ giá ngoại
tệ, thuế VAT, phí xăng dầu, mức trích quỹ bình ổn giá, các loại thuế, các khoản
trích nộp khác theo luật định, chi phí kinh doanh và lợi nhuận định mức…
Mọi biến động của mức giá này sẽ đƣợc coi là căn cứ để doanh nghiệp tăng
hay giảm giá bán lẻ xăng dầu trên thị trƣờng. Nhƣ vậy, khi “giá cơ sở” giảm từ trên
3 đến 12%, Doanh nghiệp phải giảm giá bán lẻ với mức không thấp hơn 50% của
mức giảm giá cơ sở. Ngƣợc lại, nếu giá cơ sở tăng từ trên 3 đến 12%, Doanh
nghiệp cũng đƣợc đề xuất tăng giá bán lẻ với điều kiện không vƣợt quá 50% của
mức tăng giá cơ sở.
Lâu nay, dƣ luận luôn đặt nghi vấn về sự minh bạch của cơ chế tính giá bán
lẻ xăng dầu. Dù có đến 11 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu nhƣng trên thực tế, cả
nƣớc vẫn chỉ áp một loại giá cho xăng dầu bán lẻ. Đây là điều thậm vô lý, chứng tỏ,
ngành kinh doanh xăng dầu chƣa thực sự đƣợc điều hành theo cơ chế thị trƣờng
nhƣ định hƣớng của Chính phủ. Ngƣời tiêu dùng (NTD) vẫn chƣa có quyền đƣợc
lựa chọn và luôn luôn bức xúc, mỗi khi giá dầu thế giới tăng, doanh nghiệp vội
vàng tăng ngay giá bán lẻ. Mặc dù, lúc buộc phải giảm giá, doanh nghiệp lại giảm
nhỏ giọt, từ từ.
Số liệu thống kê cho thấy 06 tháng đầu năm 2009, tiêu thụ xăng dầu giảm
6% so với năm 2008. Có nhiều lý giải cho con số này, cơ bản nhất là lý do sản xuất
suy giảm nên giảm tiêu dùng nhiên liệu. Nhƣng trong thực tế, sản xuất công nghiệp
và nhiều lĩnh vực khác vẫn tăng nên tiêu thụ xăng dầu không thể giảm. Vấn đề này
có thể lý giải sau:
Do thị trƣờng xăng dầu Việt Nam không có cạnh tranh. Tuy có hơn 11 doanh
nghiệp nhƣng đều thống nhất chung một giá bán. Thị trƣờng do Tổng Công ty
Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) áp đảo. Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn cạnh
tranh về giá đều không có khả năng thắng.
Cơ chế điều hành giá xăng dầu hiện nay căn cứ vào lỗ, lãi từng lít của Doanh
nghiệp là chƣa phù hợp. Thứ nhất, doanh nghiệp có quá trình nhập khẩu, dự trữ dài,
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 13
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
hạch toán sau một thời gian. Thứ hai, doanh nghiệp kinh doanh nhiều mặt hàng
khác nhau; lỗ, lãi của các mặt hàng bù chéo cho nhau. Do đó, mức lỗ, lãi của mỗi
doanh nghiệp phải tính trên tổng thể, không phải căn cứ lỗ, lãi từng lít để cho tăng
hoặc giảm giá bán. Mức lỗ, lãi đƣợc tính từ giá bán đến chi phí đầu vào. Gần đây,
sự thiếu ổn định về thuế nhập khẩu, trả nợ ngân sách... làm vênh giữa chi phí đầu
vào của doanh nghiệp trong những thời điểm khác nhau. Nếu lách đƣợc lỗ hổng
này, doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận lớn.
Liên quan đến chi phí của doanh nghiệp nhƣ định mức hao hụt, chi phí đại
lý..., lâu nay chúng ta không rà soát chặt chẽ, kể cả khi có kết quả kiểm toán để làm
rõ lỗ, lãi là do giá bán lẻ chậm điều chỉnh hay chi phí bất cập. Trong đó có cả chi
phí lƣơng, vốn, rủi ro tỉ giá hối đoái và các chi phí sản xuất khác. Tóm lại, hệ thống
xuất nhập khẩu xăng dầu chƣa đƣợc hạch toán và đối xử giống một doanh nghiệp
đang kinh doanh trên thị trƣờng với một mặt hàng chiến lƣợc đặc biệt. Thay vào
đó, doanh nghiệp xăng dầu gần nhƣ là một bộ phận nối dài của cơ quan quản lý
Nhà nƣớc.
Tuy nhiên, việc doanh nghiệp khi muốn tăng giá phải đăng ký trƣớc 3 tháng:
tại sao chúng ta vẫn lúng túng trong điều hành giá xăng dầu? Nguyên nhân sâu xa
vì trong cơ cấu giá xăng dầu, khoảng 50% là thu về ngân sách Nhà nƣớc (thuế xuất
nhập khẩu và các khoản thu khác). Tỉ lệ thu về ngân sách khá lớn nên việc lấy giá
xăng trong nƣớc so sánh với giá của nƣớc khác không hẳn đã hợp lý do mức thu về
ngân sách của mỗi nƣớc khác nhau nên tác động trực tiếp đến giá bán lẻ khác nhau.
Hơn nữa, Việt Nam lại có dầu thô. Thông qua mức thu ngân sách, Nhà nƣớc điều
chỉnh đƣợc giá xăng dầu vì lợi ích của cả ba bên: Nhà nƣớc, doanh nghiệp và ngƣời
dân. Vì vậy, “thả” giá xăng về cơ chế thị trƣờng không có nghĩa là để Doanh
nghiệp đƣợc hoàn toàn quyết định giá bán thế nào cũng đƣợc.
Một lý do khác để không “thả” giá xăng dầu: Đây là mặt hàng có tác động
đến tất cả mọi lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống. Vấn đề là Nhà nƣớc quản lý
giá bằng biện pháp gì, ở mức độ nào để không làm méo mó thị trƣờng. Kinh
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 14
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
nghiệm từ một số nƣớc trên thế giới cho thấy doanh nghiệp muốn tăng giá phải
đăng ký trƣớc 3 tháng. Đó là một cách quản lý tốt, khác với Việt Nam vài ngày lại
điều chỉnh hoặc bắt tăng, giảm. Tƣ duy của doanh nghiệp Việt Nam là tăng giá mới
có phát triển nên càng không thể không có sự can thiệp của Nhà nƣớc. Một điểm
rất đáng lƣu ý là lâu nay, ngƣời dân luôn phản ứng với việc tăng giá xăng vì thông
tin về cơ cấu giá xăng còn mù mờ. Họ thấy chính sách điều hành giá hình nhƣ chỉ
vì quyền lợi doanh nghiệp, vì cơ chế của mình mà không có tiếng nói của ngƣời
tiêu dùng. Cần đƣa ra một cơ chế công khai tăng giá xăng dầu do những nguyên
nhân nào, giảm do nguyên nhân nào để ngƣời dân yên tâm rằng có lúc doanh
nghiệp hoặc Nhà nƣớc cũng phải tạm thời hy sinh quyền lợi. Nhƣ thế ngƣời tiêu
dùng sẽ có niềm tin và không quan tâm đến giá xăng nữa.
3.3. Ảnh hưởng của giá xăng dầu đến nhà sản xuất và người tiêu dùng:
Có thể nói rằng, việc tăng giá xăng dầu không đem lại lợi ích cho kinh tế
Việt Nam. Theo lý thuyết, một sự gia tăng mạnh giá xăng dầu có thể tạo ra gánh
nặng đối với nền kinh tế theo hai cách thức khác nhau, tùy thuộc vào mức độ mà
một quốc gia phụ thuộc vào xăng dầu nhập khẩu và việc tiêu thụ xăng dầu tƣơng
đối so với tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ nhất, việc giá xăng dầu cao và ngày càng tăng làm giảm mức sống của
dân cƣ xuống dƣới mức lẽ ra đã có thể đạt đƣợc do tổng tiêu dùng cho sản phẩm
xăng dầu tăng lên tƣơng đối so với thu nhập (ƣớc tính sự gia tăng giá xăng tại Việt
Nam khiến cho mỗi cá nhân sử dụng phƣơng tiện xe gắn máy mỗi tháng phải chi
thêm bình quân khoảng 30 - 40.000 đồng so với trƣớc; hơn nữa, mặt hàng xăng dầu
tƣơng đối không co giãn so với giá - nghĩa là giá tăng nhƣng ngƣời sử dụng phƣơng
tiện vận tải cơ giới vẫn phải sử dụng do không có nhiên liệu khác thay thế, do vậy
khi giá xăng dầu tăng thì ngƣời tiêu dùng có ít thu nhập hơn dùng để chi tiêu cho
các hàng hóa khác).
Thứ hai, sự gia tăng này tác động đến nền kinh tế theo các cách thức mà rất
khó để các nhà hoạch định chính sách có thể quản lý đƣợc: một mặt, sự gia tăng giá
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 15
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
xăng dầu tạo áp lực gây ra lạm phát thông qua hiện tƣợng giá cánh kéo. Do xăng
dầu là yếu tố đầu vào của hầu nhƣ tất cả các ngành kinh tế khác, nên giá đầu vào
tăng, trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi, sẽ kéo theo giá đầu ra sản
phẩm tăng lên dẫn đến chỉ số giá cả nói chung gia tăng, ảnh hƣởng đến sức mua
của xã hội và gây ra áp lực lạm phát. Chi phí sản xuất tăng sẽ tác động đến năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngoài ra, còn không ít những chiêu thức mà đại lý sử dụng móc túi ngƣời
tiêu dùng trong lĩnh vực xăng dầu nhƣ; gian lận trong đo lƣờng và kinh doanh sản
phẩm xăng dầu. Đây là thực trạng mà nhiều năm qua ngƣời tiêu dùng Việt Nam đã
phải gánh chịu. Năm 2008, giá xăng trong nƣớc gặp nhiều biến động do tình hình
thế giới càng khiến nhiều gian thƣơng gia tăng hành vi “ móc túi ” khách hàng bằng
nhiều thủ đoạn tinh vi hơn.
Theo một số thống kê chƣa chính thức, những kiểu đong thiếu xăng, gắn chíp
điện tử, pha xăng dỏm… đã khiến ngƣời tiêu dùng thiệt hại với giá trị ƣớc tính lên
đến vài trăm tỷ đồng. Cũng trong năm nay, các cơ quan thông tấn báo chí đã đồng
loạt lên tiếng phê phán các hành vi gian lận trong đo lƣờng xăng dầu, đồng thời Hội
Bảo vệ ngƣời tiêu dùng Việt Nam kiến nghị truy tìm và xử lý hình sự đối với
những tổ chức, cá nhân buôn bán, cung cấp những thiết bị, phụ kiện tiếp tay cho
việc thực hiện gian lận thƣơng mại.
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
4.1. Kết luận:
Có thể nói độc quyền trong việc kinh doanh xăng dầu là một cấu trúc thị
trƣờng không tối ƣu đối với xã hội, sự xuất hiện và tồn tại của độc quyền làm cho
thị trƣờng vận hành kém hiệu quả, nguồi tài nguyên xã hội không đƣợc phân bổ tối
ƣu, làm cho xã hội bị thiệt hại. Vì vậy, việc sử dụng nguồn lực phát triển kinh tế
không đạt hiệu quả, các lợi ích đạt đƣợc phần lớn thuộc về nhà độc quyền.
Các công ty kinh doanh trong lĩnh vực xăng dầu trong nƣớc đƣợc hình thành
và phát triển là do lịch sử để lại. Vì các công ty này vừa thực hiện chức năng kinh
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 16
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
doanh của mình và vừa đảm bảo dự trữ năng lƣợng cho quốc gia, thực hiện nhiệm
vụ chính trị nhà nƣớc giao. Mặt khắc, các công ty này đƣợc thành lập theo quyết
định hành chánh, chứ không thông qua hình thức cạnh tranh độc quyền. Mặt dù độc
quyền của ngành xăng dầu đã có một số tác dụng tích cực nhất định đối với phát
triển đất nƣớc nhƣ: tạo ra lợi thế về qui mô sản xuất lớn, về hiệu quả đầu tƣ tập
trung, về an ninh năng lƣợng quốc gia,… tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta đều có
thể nhận thấy các hạn chế và tác hại của hành vi lạm dụng độc quyền đối với toàn
bộ nền kinh tế, mà nổi bật là làm tăng giá cả của các yếu tố đầu vào dẫn đến đời
sống ngƣời dân bị ảnh hƣởng. Điều này không chỉ gây thiệt hại cho khách hàng mà
còn gây ảnh hƣởng xấu đến môi trƣờng kinh doanh.
Khi độc quyền xảy ra thì ngƣời tiêu dùng và nhà sản xuất phải chấp nhận trả
ở một mức giá nào đó do nhà độc quyền quy định vì xăng dầu là mặt hàng không
thể thiếu để phục vụ đời sống ngƣời dân và phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Chƣa
công khai chi phí sản xuất một cách minh bạch, vấn đề định giá xăng dầu chƣa
đúng còn nhiều chi phí ảo buộc ngƣời tiêu dùng phải gánh chịu.
4.2. Giải pháp:
Hạn chế độc quyền là việc làm cần thiết vì độc quyền gây ra thiệt hại đối với
nền kinh tế. Hạn chế độc quyền là vấn đề quan trọng trong kinh tế học ứng dụng.
Một số ngành quan trọng nhƣ ngành xăng dầu thƣờng bị khống chế bằng pháp luật,
nhằm buộc ngành nghề này phải hoạt động theo phƣơng thức có lợi nhất cho xã hội
để hạn chế thiệt hại do độc quyền. Một số giải pháp đề nghị nhằm giảm những tổn
thất đối với nền kinh tế.
- Nhà nƣớc cần xác định rõ và bóc tách giữa 2 nhiệm vụ về bản chất khác
hẳn nhau là: Kinh doanh xăng dầu nhƣ mục đích tự thân của các doanh nghiệp kinh
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 17
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
doanh xăng dầu, với việc dự trữ xăng dầu bảo đảm an ninh năng lƣợng nhƣ một
mục tiêu chính trị quốc gia.
- Nhà nƣớc cần xác định đƣợc giá sàn và giá trần trên cơ sở phân nhóm đúng
vai trò của từng nhân tố cấu thành giá bán lẻ xăng dầu.
- Nhà nƣớc cần cho phép tự động điều chỉnh giá bán lẻ xăng dầu theo xu
hƣớng và cạnh tranh thị trƣờng, đồng thời tăng cƣờng các chế tài của Nhà nƣớc và
giám sát xã hội.
- Thúc đẩy quá trình tự do hoá kinh doanh xăng dầu, tạo cạnh tranh lành
mạnh đầy đủ trên thị trƣờng bán buôn và bán lẻ xăng dầu Việt Nam. Khi đó, Nhà
nƣớc vẫn thu đƣợc thuế, các doanh nghiệp có thêm động lực và cơ hội đầu tƣ phát
triển, còn ngƣời tiêu dùng thì đƣợc lợi cả về chất lƣợng dịch vụ và giá cả do các
“nhà xăng’ cung cấp.
- Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành kiểm toán toàn diện và
khách quan các chi phí kinh doanh hiện hành và chuẩn mực của các hoạt động kinh
doanh xăng dầu, lập và công khai hoá cơ sở dữ liệu có liên quan (giá mua, chi phí
vận tải, duy trì hệ thống dự trữ và phân phối xăng, lợi nhuận định mức và các nghĩa
vụ tài chính của kinh doanh xăng dầu…), để các cơ quan chức năng và giới tiêu
dùng có cơ sở khoa học minh bạch cho việc tính và kiểm tra “giá chuẩn” trên thị
trƣờng kinh doanh xăng dầu trong nƣớc.
- Các cơ quan chức năng nên thƣờng xuyên thanh tra, kiểm tra việc chấp
hành chính sách pháp luật trong hoạt động sản xuất kinh doanh xăng dầu đối với
các doanh nghiệp nhằm đảm bảo sự công bằng cho doanh nghiệp và ngƣời tiêu
dùng.
- Pháp quy hoá các quy định và yêu cầu quản lý nhà nƣớc có liên quan đến
chất lƣợng, định giá và quản lý giá xăng dầu, bảo đảm cạnh tranh tự do và minh
bạch về giá cả, cũng nhƣ tạo các căn cứ ổn định và thuận lợi cho hình thành và dự
báo giá xăng dầu theo sát các động thái thị trƣờng và giảm thiểu các “thắc mắc”,
đoán mò và tin đồn thất thiệt trên thị trƣờng này./.
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
Trang 18
Tiểu luận môn học Kinh tế vi mô
HVTH: Nguyễn Ngọc Hiền
GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Trang 19
- Xem thêm -