Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước ...

Tài liệu Tiểu luận tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước ở việt nam hiện nay

.PDF
26
1
94

Mô tả:

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT *** TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CÁC CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC Đề tài: TÍNH THỐNG NHẤT CỦA QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Sinh viên thực hiện: Phạm Thành Nhân Lớp: KHQLNN K40B Kiên Giang KIÊN GIANG 2 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3. Đối tượng 4. Phương pháp nghiên cứu 5. Kết cấu của tiểu luận NỘI DUNG CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 1.1. Quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước 1.2. Quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước CHƯƠNG II: NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc 2. Nguyên tắc tổ chức 2.1. Nguyên tắc lãnh đạo 2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ 2.3 Nguyên tắc bình đẳng, công bằng 3.Nguyên tắc hoạt động 3.1. Nguyên tắc quyết định theo đa số 3.2. Nguyên tắc công khai 3.3. Nguyên tắc tranh luận 3.4. Sự tuân thủ quy trình, thủ tục CHƯƠNG III: QUỐC HỘI CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO NHẤT CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Vị trí, tính chất của Quốc hội 2. Chức năng nhiệm vụ của Quốc hội CHƯƠNG IV: QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 3 Ở VIỆT NAM CÓ TÍNH THỐNG NHẤT CHƯƠNG V: NHẬN XÉT CHUNG KẾT LUẬN 4 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Từ khi con người khai sinh ra cho đến nay thì đã trải qua bốn kiểu nhà nước các kiểu đó là: nhà nước đầu tiên là nhà nước chủ nô, thứ hai là nhà nước phong kiến, thứ ba là nhà nước tư sản, thứ tư là nhà nước xã hội chủ nghĩa. Dù ở kiểu nhà nước nào con người cũng muốn hướng đến bình đẳng cho các tầng lớp trong xã hội và nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước đang được các nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng hướng đến đây có thể xem là nhà nước tiến bộ nhất và cuối cùng trong lịch sử. Vai trò của nhà nước ở bất kỳ một quốc gia nào cũng đều rất to lớn. Phương thức và hiệu quả quản lý của nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đối với sự phát triển về mọi mặt của quốc gia đó. Chính vì thế chúng ta cần hiểu rõ về bộ máy nhà nước, đặc biệt là bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa để từ đó đưa ra cách thức quản lý cũng như điều hành nhà nước tốt hơn. Bộ máy nhà nước là một chỉnh thể thống nhất, được tạo thành bởi các cơ quan nhà nước gồm bốn hệ thống cơ quan chính: cơ quan lập pháp, cơ quan hành chính, cơ quan toà án và cơ quan kiểm sát. Cơ quan quyền lực nhà nước là bộ phận hợp thành của bộ máy nhà nước, được thành lập để thực hiện chức năng quản lí nhà nước. Chủ thể quản lý nhà nước là các cá nhân hay tổ chức mang quyền lực nhà nước, nhân danh nhà nước và thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước. Và có thể khẳng định rằng chủ thể quản lí nhà nước quan trọng nhất là cơ quan quyền lực nhà nước. Để làm rõ nhận định trên, em chọn nghiên cứu đề tài: Tính thớng nhất của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước Việt Nam hiện nay. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu Việt Nam đã lựa chọn cho mình con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã có quan điểm rõ ràng và đúng đắn về nhà nước xã hội chủ nghĩa đó là: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Từ khi đổi mới đất nước, Đảng ta lại càng chú trọng vận dụng, 5 phát triển, cụ thể hoá vấn đề nhà nước của dân, do dân, vì dân. Do vậy, sự quản lý của nhà nước đối với mọi mặt của đời sống xã hội lại càng ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sự phát triển và bộ mặt của đất nước. Vấn đề nâng cao vai trò của nhà nước là một vấn đề hết sức hệ trọng; luôn được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú ý và đưa ra trong các kỳ Đại hội Đảng. Mặc dù nhà nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của đất nước, nhưng không phải không có những hạn chế. Vì vậy, chúng ta cần nghiên cứu, đi sâu tìm hiểu tính thống nhất của quyền lực nhà nước tìm ra những mặt tích cực cũng như hạn chế nhằm hoàn thiện bộ máy nhà nước, khi quyền lực nhà nước được thống nhất thì việc phát triển mọi mặt của đời sống xã hội mới được cải thiện, phát triển bền vững và tốt đẹp hơn. Đề tài nghiên cúu những quan hệ quản lý phát sinh trong quá trình tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước nói chung, của cơ quan quyền lực nhà nước nói riêng và tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước. Các khái niệm, các phạm trù cơ bản, các yếu tố, các bộ phận cấu thành của hệ thống quản lý nhà nước của cơ qaun quyền lực nhà nước; mối quan hệ giữa các yếu tố, các bộ phận cấu thành hệ thống quản lý nhà nước; nguyên tắc, chức năng, nhiệm vụ, hình thức, phương pháp quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước. Trên cơ sở đó, đề tài còn nghiên cứu quá trình đổi mới, hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan quyền lực nhà nước trong quá trình quản lý nhà nước để đi đến tính thống nhất chung. 3. Đối tượng Đề tài nghiên cứu dựa trên nền tảng lý luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời sử dụng những kiến thức cơ bản của nhiều môn khoa học khác như Lý luận về Nhà nước và pháp luật, Khoa học quản lý, Lý thuyết chung về quản lý xã hội, ... để thực hiện nhiệm vụ của nó. Môn học quản lý nhà nước cửa cơ quan quyền lực nhà nước góp phần tạo cơ sở khoa học cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung, tổ chức và 6 hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước nói riêng và đi đến tính thống nhất của cơ quan quyền lực nhà nước. 4. Phương pháp nghiên cứu Môn học quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước lấy chủ nghĩa duy vật biện chửng và chù nghĩa duy vật lịch sử; phép biện chứng duy vật làm phương pháp luận nghiên cứu. Điều dó có nghĩa là: Thứ nhất, nghiên cứu về cơ quan quyền lực nhà nước (cơ cấu tổ chức và chức năng) phải xuất phát từ đời sống xã hội và sự tác động trờ lại đối với đời sống xã hội. Thứ hai, khi nghiên cứu cần xem xét sự tồn tại, phát triển cùa cơ quan quyền lực nhà nước và tính thống của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước trong mối quan hệ biện chứng với các hiện tượng khác của thượng tầng kiến trúc. Thứ ba, chú trọng mối quan hệ thống nhất, tác động giữa cơ cấu tổ chức và chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước trong quản lý nhà nước. Ngoài ra, một sổ khoa học cụ thể khác nằm trong hệ thống các kiến thức về quản lý đòi hỏi việc nghiên cứu môn học phải có sự kết hợp khoa học những khái quát lý luận trong quá trình nghiên cứu. 5. Kết cấu của tiểu luận Bao gồm 3 phần Mở đầu, Nội dung và Kết luận. 7 NỘI DUNG CHƯƠNG I MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CƯ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 1.1. Quyền lực của cơ quan quyền lực nhà nước Với tư cách là một phạm trù của khoa học chính trị, quyền lực đã được nghiên cửu qua các thời kỳ. Từ cổ đại - trong tác phẩm “Chính trị Aten” của Arixtổt - đển thời trung cổ bời các nhà thần học, các nhà phục hưng, các nhà không tưởng, các nhà bách khoa đến các nhà chính trị hiện đại và các nhà bách khoa triết học toàn thư Liên xô (cũ) vẫn chưa dưa ra được định nghĩa về quyền lực mang tính thuyết phục cao. Tuy nhiên, ở góc độ chung nhất, nội hàm của khái niệm quyền lực bao gồm: Một là, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với xã hội loài người. Sự tồn tại của loài người, ngoài những hoạt động riêng biệt của từng cá thể người, con người còn có hoạt động chung trong cộng đồng. Sự hoạt động chung giữa người với người tạo ra quyền của người này đối với người khác. Hay nói một cách khác là quyền lực chính là một loại quan hệ xã hội. Hai là, quyền lực mang tính khách quan. Quyền lực tuy ra đời và tồn tại cùng với hoạt động của xã hội loài người nhưng nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người mà đòi hỏi con người phải nhận thức và sử dụng đúng như những gì nó có. Tính khách quan của quyền lực bắt nguồn từ bản chất xã hội của con người mà suy đến cùng là tính quy định của sản xuất vật chất đổi với sự tồn tại và phát triển của con người và loài người. Ba là, quyền lực mang tính phổ biến. Song trong xã hội, mỗi người có nhiều moi liên hệ giữa người với người mà mỗi quan hệ xã hội xác định một quan hệ quyền lực tương ứng nên mỗi người tất phải tham gia nhiều quan hệ quyền lực khác nhau. Từng quyền lực vừa tồn tại độc lập, vừa đan xen chồng chéo lên nhau tạo nên 8 một tổng hòa các quan hệ quyền lực theo yêu cầu của xã hội. Bốn là, quyền lực là quan hệ giữa người chỉ huy và người thi hành. Bất cứ hoạt động chung nào cũng phải cỏ người tổ chức chi huy và người phục tùng sự tổ chức chi huy đó. Chỉ huy và phục tùng chỉ huy là cội nguồn, điểm xuẩt phát, là nội dung trung tâm của mọi quyền lực. Vì vậy, Ph.Ănghen đã cho rằng quyền uy là ý chí của người khác buộc ta phải tiếp thu, quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền dề. Từ đó, có thể hiểu: quyền lực là ý chí của người này được người khác thi hành thể hiện mắi quan hệ giữa người chỉ huy với người chịu sự chi huy, giữa người được giao quyền với người đã trao quyên; đó là quyên uy và thể lực đù để quyết định việc điều hành người khác hoạt động theo ý chí của mình. 1.2. Quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước Quản lý nhà nước xuất hiện cùng với nhà nước, là quản lý công việc của nhà nước (là sự quản lý cùa nhà nước đoi với xã hội và công dân). Nội hàm của quản lý nhà nước thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội cùa mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, quản lý nhà nước xét về mặt chức năng bao gồm hoạt động lập pháp, hoạt động hành chính (chấp hành và điều hành) và hoạt động tư pháp. Trong hệ thống xã hội, tồn tại rất nhiều chủ thể tham gia quản lý xã hội như: đảng, nhà nước, tổ chức chính trị xã hội, các đoàn thể nhân dân, các hiệp hội... Trong sự quản lý đó thì quản lý nhà nước có những điểm khác biệt, thể hiện: Thứ nhất, quản lý nhà nước là quản lý xã hội nhưng không phải bất cứ sự quản lý xã hội nào cũng là quản lý nhà nước; Thứ hai, chủ thể quản lý nhà nước là chủ thể duy nhất được quản lý toàn diện xã hội; Thứ ba, Nhà nước là chủ thể duy nhất được sử dụng quyền lực nhà nước trong việc thực hiện chức năng quản lý của mình đôi với xã hội; Thứ tư, Nhà nước là chù thể duy nhất sử dụng luật pháp là công cụ chủ yếu để thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình. 9 Có thể hiểu quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh hành vi hoạt động của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời song xã hội do các cơ quan trong bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm thoả mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội. Nói cách khác, quản lý nhà nước là sự tác động cùa các chủ thể mang quyền lực nhà nước, chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Trong bộ máy của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội được xác định là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyển lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.'”. Các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều bắt nguồn từ cơ chế lập hiên của Quốc hội. Quốc hội giữ quyền lập pháp và phân công các cơ quan khác (Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) thực hiện quyền hành pháp và tư pháp. CHƯƠNG II NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC 1.1. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc Trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước, các nguyên tắc cơ bản là những tư tưởng chủ đạo bắt nguồn từ cơ sở khoa học của hoạt động quản lý, từ bản chất của chế độ, được quy định trong pháp luật làm nền tảng cho tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước. Các nguyên tắc quản lý nhà nước nói chung và những nguyên tắc tổ chức và quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước nói riêng đã được quy định trong hiến pháp, luật, văn bản dưới luật, trong đó những nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp được xem là nguyên tắc cơ bản nhất. Xét về mặt bản chất, các nguyên 10 tắc này có những đặc điểm cơ bản sau: Thứ nhất, các nguyên tắc tổ chức và quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước mang tính chất khách quan bởi vì chúng được xây dựng, đúc kết từ thực tế cuộc sống và phản ánh các quy luật phát triển khách quan. Tuy nhiên, các nguyên tắc trên cũng mang yếu tổ chủ quan bời vì chúng được xây dựng bời con người mà con người dựa trên những nhận thức chủ quan để xây dựng. Thứ hai, các nguyên tắc quản lý hành chính nhà nước có tính ổn định cao nhưng không phải là nguyên tắc bất di bất dịch. Nó gắn liền với quá trình phát triển của xã hội, tích lũy kinh nghiêm, thành quả của khoa học về tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước. Thứ ba, tính độc lập tương đối với chính trị. Hệ thống chính trị của nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua: các tổ chức chính trị xã hội (Đảng, Mặt trận tổ quốc,..), và bộ máy nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp). Vì vậy, ngoài tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước, các nguyên tắc này còn đòi hỏi được xây dựng và thực hiện đủng đắn các quan điểm chỉnh trị. Thứ tư, mỗi nguyên tắc tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước có nội dung riêng, phản ánh những khía cạnh khác nhau của quản lý nhà nước. Tuy nhiên, những nguyên tắc này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau tạo thành một thể thống nhất. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ tạo tiền đề cho việc thực hiện có hiệu quả nguyên tắc khác. Vì thế nên các nguyên tăc tổ chức và hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan quyền lực nhà nước luôn thê hiện tính hệ thống, tính thống nhất và đây là một thuộc tính vốn có của chúng. 2. Nguyên tắc tổ chức 2.1. Nguyên tắc lãnh đạo Thực tiễn lịch sử phát triển của đất nước ta đã chứng minh và khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng. Hiến pháp của nước ta đã ghi nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên suốt chặng đường hơn 90 năm qua, Đảng thể hiện 11 tập trung ý chí, nguyện vọng và trí tuệ của toàn dân tộc. Đường lối của Đảng là sự thể hiện nhận thức của toàn xã hội về các quy luật khách quan của sự phát triển đất nước. Trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước nói chung và Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp nói riêng là một nhu cầu cấp bách để bảo đảm đạt được mục đích xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp là vấn đề có tính nguyên tắc đã được Hiến pháp quy định. Trải qua quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước ta, sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện chính trị quan trọng hàng đầu bảo đảm cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân hoạt động đúng theo đường lối, quan điểm của Đảng, thể hiện bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, giúp Quốc hội và Hội đồng nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ của mình. Nguyên tác này đòi hỏi một mặt tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội và Hội dồng nhân dân và mặt khác, phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của mỗi cơ quan này trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 2.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ Tập trung trong tổ chức thực hiện quyền lực chính trị nói chung, quyền lực nhà nước nói riêng là một dấu hiệu đặc trưng của các thổ chế chính trị. Tuy nhiên, phụ thuộc vào chổ độ xã hội mà nội dung của tập trung có khác nhau. Trong chế độ tư bản chủ nghĩa, tập trung của nhà nước mang tính chất quan liêu, chỉ thể hiện quyền lợi của số ít người giai cấp thống trị, mà không tính đến quyền lợi của đại da số nhân dân bị thống trị. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, tập trung của Nhà nước phải mang tính chất dân chủ thể hiện quyền lợi của đại đa số nhân dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ, về bản chất, thể hiện sự thống nhất biện chứng giữa chế độ tập trung lợi ích của Nhà nước, sự trực thuộc phục tùng của các cơ 12 quan nhà nước cấp dưới đối với cơ quan nhà nước cấp trên và chế độ dân chủ tạo điều kiện cho việc phát triển sáng tạo, chủ động và quyền tự quản của các cơ quan nhà nước cấp dưới. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiệở p nhiều lĩnh vực, nhưng tập trung cao nhất là cách tổ chức và phân công quyền lực giữa các cơ quan cấp cao của nhà nước, ở sự phân công giữa chính quyền trung ương và địa phương, ở chế độ giao quyền tự chịu trách nhiệm về sản xuất kinh doanh giữa cơ quan nhà nước với tổ chức kinh tế nhà nước. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động cùa bộ máy nhà nước thường được thể hiện ở các mặt sau đây: các cơ quan nhà nước được thành lập bằng bầu cử, bằng bổ nhiệm; trong hoạt động các cơ quan nhà nước thực hiện chế độ bàn bạc tập thể, cá nhân chịu trách nhiệm về phần việc được phân công theo chế độ thủ trưởng; quyết định của các cơ quan nhà nước cấp trên buộc các cơ quan nhà nước cấp dưới phải thi hành; khi ra quyết định, các cơ quan nhà nước cấp trên phẩi tính đến lợi ích của các cơ quan nhà nước cấp dưới; trong phạm vi quyền hạn của mình các cơ quan nhà nước được quyền quyết định, không có sự can thiệp vào công việc thuộc phạm vi của các cơ quan nhà nước cấp dưới. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào trình độ quản lý, trình độ dân trí, phù hợp với từng ngành, tùng cấp, từng loại cơ quan nhả nước. Trong từng địa phương và ở mỗi thời điểm khác nhau, cần định ra liều lượng kết hợp giữa chế độ tập trung và chế dộ dân chủ thích hợp, tạo nên sự thống nhất hai mặt của nguyên tắc. Nếu như trước đây, dựa trên cơ sở sở hữu chung của Nhà nước, chúng ta nhấn mạnh khía cạnh tập trung của nguyên tắc, thì ngày nay, trong điều kiện kinh tế nhiều thành phần, thực hiện nguyên tắc này chúng ta cần thiết phải nhấn mạnh khía cạnh dân chủ để có thể tính hết mọi lợi ích của các thành phần xã hội, kể cả lợi ích của những người mà quan điểm của họ là thiểu sổ. Trong mỗi loại cơ quan nhà nước, sự vận dụng những dấu hiệu trên của 13 nguyên tắc tập trung dân chủ phụ thuộc vào nhiệm vụ, chức năng của từng cơ quan phải đảm nhiệm. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước có quyền quyết định những vẩn đề có liên quan đến đời sống của nhân dân cả nước và đời sống của nhân dân từng địa phương, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải do cơ quan nhân dân trực tiếp bầu ra và phải hoạt động theo chế độ tập thể. Mỗi quyết định của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải được các đại biểu bàn bạc dân chủ và quyết định theo đa số. Tại các kỳ họp, nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước được tuân thủ. Từ việc xem xét, thông qua luật, quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quyết định về tồ chức bộ máy nhà nước, về nhân sự cấp cao cho đến việc quyết định các công trình, dự án quan trọng quốc gia, giám sát tối cao tại kỳ họp, chất vấn và trả lời chất vấn đều được thực hiện đúng quy trình. 2.3 Nguyên tắc bình đẳng, công bằng Đây là một trong những nguyên tắc rất quan trọng trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Theo Hiến pháp Việt Nam, Quốc hội và Hội đồng nhân dân được nhân dân cả nước và nhân dân ở địa phương bầu ra dựa trên bốn nguyên tắc là bầu cử phổ thông, bàu cử bình đẳng, bầu cử trực tiếp và bò phiếu kín. Như vậy, nguyên tắc bình đẳng, công bằng là một trong bốn nguyên tắc cơ bản trong tổ chức cơ quan Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Về hoạt động, theo tinh thần của nguyên tắc này, mọi chủ thể trong Quốc hội và Hội đồng nhân dân có những điều kiện và khả năng làm việc như nhau. Mọi thành viên đều bình đẳng với nhau. Sự bình đẳng được bảo đảm bởi thủ tục và nội quy hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. 3.Nguyên tắc hoạt động 3.1. Nguyên tắc quyết định theo đa số Nguyên tắc quyết định theo đa số thể hiện trên hai phương diện: Thứ nhất, số lượng đại biểu tối thiểu cần thiết có mặt tại phiên họp để bắt 14 đầu cuộc thảo luận và biểu quyết. Thứ hai, quyết sách của Quốc hội và nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải được đa số đại bĩểu đồng ý tán thành mới có giá trị. Đây là những yêu cầu xuất phát từ tính chất đại diện của Quốc hội và Hội đồng nhân dân: mỗi quyết định đều thể hiện ý chí cùa toàn dân tộc, bổi vậy phải được đa số tán thành. 3.2. Nguyên tắc công khai Quốc hội và Hội đồng nhân dân họp công khai là nguyên tắc được quy định trong Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Giá trị của kỳ họp cũng thể hiện ở tính công khai, mình bạch. Nội quy kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân có những quy định cho phép công chúng, các phương tiện thông tin đại chúng, đại diện các cơ quan khác tham dự. Một số phiên họp nhất định được truyền hình trực tiếp, các phiên họp đều dược ghi âm và được lưu giữ, đưa lên mạng của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Đặc biệt, với sự tham gia của truyền hình, báo chí, hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân càng trở nên minh bạch hơn. Nhờ có sự minh bạch, hoạt động giám sát thi hành pháp luật của các cơ quan này thực sự mang lại lợi ích cho người dân. 3.3. Nguyên tắc tranh luận Ý nghĩa của kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân còn thể hiện ở việc nó hợp thức hóa các quyết sách thông qua tranh luận, đối thoại. Các phiên họp toàn thể tại các kỳ họp là diễn đàn quan trọng nhất về chính sách và pháp luật ở nước ta. Kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân tạo điều kiện để các đại biểu của nhân dân thảo luận và thông qua mọi lợi ích và quyết sách một cách cấn trọng và dân chủ. Tranh luận ở kỳ họp cho phép mỗi bên thể hiện những luận chứng thuyết phục nhất của mình và bảo vệ quan điểm của mình. Khi đã được thảo luận thấu đáo bởi tất cả các bên, quyết định cuối cùng sẽ được đa số trong Quốc hộỉ, Hội đồng nhân dân, những người đại diện cho cử tri cả nước và ở từng địa phương thông qua. Kỳ họp của Quốc hội và Hội đồng nhân dân với các phiên thảo luận, chất vấn cũng là 15 nơi tập trung, phần nào phản ánh các luồng quan điểm đến từ bên ngoài (từ cử tri, từ các tổ chức xã hội, báo chí...). Sự tranh luận chính là sự trao đổi, đối thoại từ nhiều phía, nhiều góc độ. 3.4. Sự tuân thủ quy trình, thủ tục Với số lượng thành viên lớn (đặc biệt là sổ lượng đại biểu Quốc hội), các cơ quan quyền lực nhà nước không thể làm việc được nếu những thành viên tham gia không tuân theo các thủ tục — những khuôn khổ để làm việc. Hơn nữa, là cơ quan đại diện của nhân dân, Quốc hội và Hội đồng nhân dân chứa trong mình nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội, bởi vậy, có thể tiềm ẩn những khác biệt nhất định về lợi ích cần phải được giải quyết trên cơ sở lợi ích chung của quốc gia, của địa phương. Do đó, hơn mọi cơ quan nhà nước khác, cơ quan đại diện đòi hỏi tất cả các thành viên phải tuân thủ nghiêm ngặt các thủ tục làm việc. Mặt khác, quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo cho tính chuyên nghiệp trong hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. về mặt kỹ thuật, quá trình hoạch định chính sách đòi hỏi phải có những bước đi tuần tự, từ sự kiện đển vấn đề và cuối cùng là chính sách. Trong quá trình đó, tất yếu phải có những quy tắc điều chỉnh từng công đoạn một và liên kết các công đoạn với nhau - phân tích chính sách, xây dựng chính sách, thông qua chính sách và thực hiện chính sách. Đặc biệt, quan trọng là cần nhận thức được điểm xuất phát cho mọi quy trình là phân tích chính sách. Chính vì vậy, trong mỗi hoạt động của các cơ quan này đều có rất nhiều quy trình, thủ tục phải tuân theo như quy trình lập pháp, quy trình ngân sách, quy trinh giám sát, quy trình thủ tục bỏ phiếu, chất vấn... CHƯƠNG III QUỐC HỘI CƠ QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC CAO NHẤT CỦA NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM 1. Vị trí, tính chất của Quốc hội Trong bộ máy Nhà nước, Quốc hội chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Theo Hiến pháp 2013, ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả quyền lực nhà 16 nước thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân không thể trực tiếp, thường xuyên sử dụng quyền lực Nhà nước cho nên phải bầu ra các cơ quan đại biểu để thay mặt mình sử dụng quyền lực Nhà nước. Vì vậy, các cơ quan này được gọi là cơ quan quyền lực Nhà nước, ở nước ta, các cơ quan này bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hiến pháp 2013 đã nêu rõ vị trí và tính chất của Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân và là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan thọng nhất của đất nước thông qua Hiến pháp, các đạo luật, quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa, tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm những chức danh cao cấp nhất của bộ máy Nhà nước; giám sát tối cao hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Khác với Nghị viện tư sản, Quốc hội nước ta thực sự đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là cơ quan đại biểu của nhân dân theo kiểu công xã Pari mà C.Mác coi là một tập thể làm việc "vừa lập pháp, vừa hành pháp". Đây là một tô chức chính quyền thể hiện rất rõ tính chất đại diện và tính chất quần chúng. Các dại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động ưu tú thuộc các dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẻ với quần chúng, nắm vững tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Do đó, quyết định mọi vấn đề được sát và hợp với quần chúng, đồng thời cỏ điều kiện thuận lợi để vận động quần chúng thi hành tốt các quy định của Nhà nước. Nhiệm kỳ của Quốc hội là 5 nãm, việc tuyển cử cảc đại biểu Quốc hội mới bảo đảm cho nhân dân có thể lựa chọn và bổ sung những đại diện mới vào cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của mình. Mọi quyền lực Nhà nước tập trung vào Quốc hội. Mọi công việc quan trọng của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc đều do Quốc hội quyết định. 17 2. Chức năng nhiệm vụ của Quốc hội Lập pháp là chức năng quan trọng nhất của Quốc hội với tư cách là cơ quan duy nhất có quyền lập Hiến và lập pháp. Làm tốt nhiệm vụ này chẳng những bảo đàm phát huy vai trò “quyền lực tối cao” cùa Quốc hội mà còn thực hiện tốt nguyên tắc thống nhất quyền lực của bộ máy Nhà nước, đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quyền lập hiến và lập pháp của Quốc hội xuất phát từ vị trí tính chất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Vì vậy, chỉ có Quốc hội mới có quyền định ra các quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất, điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bàn nhất của xã hội ta. Các quy phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước khác ban hành không được trái với tinh thần và nội dung của Hiến pháp và luật. Ở một số nước tư bản có sự phân biệt Quốc hội lập hiến và Quốc hội lập pháp. Quốc hội lập hiến được bầu ra để làm hiến pháp, khi hiến pháp được ban hành thì Quốc hội lập hiến giải thể. Còn Quốc hội lập pháp không có quyền làm hiến pháp mà chỉ căn cứ vào hiến pháp để ra các đạo luật cần thiết nhằm thi hành hiến pháp và các đạo luật bổ sung hiến pháp. Ở nước ta, quyền lập hiến cũng như quyền lập pháp đều thuộc về Quốc hội. Quốc hội giữ quyền làm hiến pháp thì cũng có quyền sửa đổi hiến pháp; Quốc hội có quyền làm luật thì cũng có quyền sửa đổi luật. Điều 69 Hiến pháp năm 2013 qui định chỉ Quốc hội có nhiệm vụ và quyền hạn làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Hiến pháp là đạo luật cơ bản của Nhà nước, quy định các vấn đề quan trọng nhất về quyền lực Nhà nước và cách thức tổ chức quyền lực Nhà nước, về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, chế độ văn hóa - xã hội, về cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước, về quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân... Hiến pháp và Luật thể hiện đường lối cơ bản và những chủ trương lớn của Đảng đã được Nhà nước thể chế hóa và có hiệu lực thi hành trên toàn lãnh thổ nước ta. Luật là văn bản có hiệu lực pháp lý cao sau Hiến 18 pháp. Các văn bản qui phạm pháp luật khác do các cơ quan nhà nước ban hành phải căn cứ vào Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội và không được trái với tinh thần, nội dung cùa Hiến pháp, Luật và Nghị quyết của Quốc hội. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cừ quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập. Quốc hội có quyền bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; Quốc hội quyết định những vấn đề cơ bản nhất và quan trong nhất của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh. Theo Hiến pháp năm 2013 Quốc hội có quyền “quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước". Những vấn đề quan trọng của đất nước do Quốc hội quyết định gồm có: Về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước ở trung ương. Quốc hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng, củng cố và phát triển bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến địa phương. Quốc hội quyết định những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt dộng của bộ máy nhà nước về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Các cơ quan được tổ chức theo mô hình nào, hoạt động ra sao đều do Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định tại kỳ họp Quốc hội và được thể hiện trong Hiến pháp và các văn bản luật tổ chức. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chù tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, ủy viên ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm ủy ban cùa Quốc hội, Thủ 19 tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trường Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia; Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật; Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước; Theo quy định cùa Hiến pháp 1980, Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Bộ trường đều do Quốc hội bầu ra và bãi miễn; đến Hiến pháp 1992 và tiếp tục ở Hiến pháp 2013 quy định về vấn đề này đã được thay đổi. Quốc hội chỉ bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thù tướng Chính phủ; còn các Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác cùa Chính phủ do Thủ tướng lựa chọn, đề nghị trình Quốc hội xem xét. Nếu tán thành đề nghị đỏ của Thủ tưởng thỉ Quốc hội ra nghị quyết phê chuẩn. Trên cơ sở nghị quyết của Quổc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các Phó Thủ tướng, Bộ trường và các thành viên khác của Chính phù. Về các vấn đề kinh tế - xã hội. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sảch trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê 20 chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước; quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước do Chính phủ trình và điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quyết định chủ trương đầu tư dự án, công trình quan trọng quốc gia. Từ năm 1986, đất nước bước vào công cuộc đổi mới, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm và Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước trong lĩnh vực kinh tế đã mở rộng và khá cụ thể. Trong việc quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Quốc hội đã đi sâu quyết định vấn đề quy hoạch, các công trình quan trọng quốc gia, chính sách cụ thể liên quan đến đầu tư công. Quốc hội ngày càng phát huy đầy đủ hơn vai trò của mình trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về tài chính, ngân sách nhà nước, được nhân dân, các ngành, các cấp và cộng đồng quốc tế đánh giá cao, coi đây là một biểu hiện cụ thể của quyền lực thực sự của Quốc hội, thể hiện sinh hoạt dân chủ, công khai, minh bạch của Nhà nước trong lĩnh vực tài chính - ngân sách. Thực tế cho thấy, việc quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia đã thể hiện vai trò của Quốc hội trong việc sử dụng công cụ chính sách then chốt để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và bào đảm ổn định vĩ mô. Các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại khác. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước; quyết định đại xá; quy định hàm, cấp trong các lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp Nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước; quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cẩp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều điều ước quốc tế do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước; quyết định việc trưng cầu ý dân.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất