TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ THUỶ QUYÊN
ĐỀ TÀI
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG MÔ HÌNH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM LỊCH SỬ C2016
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ THUỶ QUYÊN
ĐỀ TÀI
THIẾT KẾ VÀ SỬ DỤNG MÔ HÌNH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH: SƯ PHẠM LỊCH SỬ C2016
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. Trần Vân Anh
(GV kí xác nhận)
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG KHOÁ LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔ
HÌNH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ...................................................................... 8
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN ................................................................................ 8
1.1.1.Xuất phát từ đặc điểm tri thức lịch sử .......................................... 8
1.1.2.Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS..................................... 8
1.1.3.Xuất phát từ quan điểm đổi mới dạy học, phát huy tính tích
cực, sáng tạo của học sinh...................................................................... 10
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy
học Lịch sử .............................................................................................. 13
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ........................................................................ 16
1.2.1. Thực trạng của việc sử dụng mô hình trong dạy học ............... 16
1.2.2. Nguyên nhân ................................................................................. 17
1.2.3. Những vấn đề cần giải quyết ....................................................... 18
1.2.4. Các biện pháp giải quyết vấn đề ................................................. 18
CHƯƠNG 2: THIẾT KẾ MÔ HÌNH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ (QUA
VÍ DỤ MÔ HÌNH ĐỊA ĐẠO CỦ CHI)..................................................................22
2.1. Nguyên tắc lựa chọn mô hình ............................................................ 22
2.2. Nguyên tắc thiết kế ............................................................................. 23
2.2.1. Nguyên tắc chung ......................................................................... 23
2.2.2. Nguyên tắc trong các bước xây dựng ......................................... 23
2.3. Vài nét về địa đạo Củ Chi .................................................................. 24
2.3.1. Vị trí, nguồn gốc, cấu trúc của địa đạo. ..................................... 24
2.3.2.Giá trị lịch sử của địa đạo Củ Chi ............................................... 26
2.3.3.Giá trị văn hoá của đại đạo Củ chi .............................................. 27
2.4. Vật liệu ................................................................................................. 27
2.5. Các bước tiến hành ............................................................................. 28
2.6. Nguyên tắc sáng tạo .......................................................................... 31
2.7. Cách tạo mã QR .................................................................................. 38
CHƯƠNG 3: SỬ DỤNG MÔ HÌNH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ .............42
(QUA VÍ DỤ MÔ HÌNH ĐỊA ĐẠO CỦ CHI)......................................................42
3.1. Biện pháp sử dụng mô hình ............................................................... 42
3.1.1. Sử dụng trong bài nội khoá ......................................................... 42
3.1.2. Sử dụng trong giờ ngoại khoá ..................................................... 45
3.1.3. Ứng dụng công nghệ 4.0............................................................... 52
3.2. Thực nghiệm........................................................................................ 55
3.2.1. Quá trình thực nghiệm ................................................................ 55
3.2.2. Kết quả thực nghiệm và đánh giá ............................................... 56
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin gửi lời tri ân tới toàn thể các thầy
cô giáo trong khoa Khoa học Xã hội trường Đại học Thủ đô Hà Nội. Xin gửi
lời cảm ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Trần Vân Anh, người đã trực tiếp tận tình chỉ
dẫn giúp đỡ và đưa ra những phương hướng để bài khóa luận được hoàn
thành một cách nhanh chóng và hiệu quả. Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn các
thầy cô Tổ xã hội và các bạn học sinh trường THCS Nguyễn Phong Sắc đã
hợp tác giúp đỡ trong việc tiến hành khảo sát thực nghiệm.
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả khoá luận
Trần Thị Thuỷ Quyên
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận với đề tài “Thiết kế và sử dụng mô hình trong
dạy học lịch sử” hoàn toàn do tôi nghiên cứu và thực hiện, dưới sự hướng
dẫn khoa học của Tiến sĩ Trần Vân Anh. Các số liệu, kết quả trong khóa luận
là trung thực. Những kết luận khoa học của khóa luận chưa từng được công
bố trong bất kì công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước lời cam đoan của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2019
Tác giả khóa luận
Trần Thị Thuỷ Quyên
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TRONG KHOÁ LUẬN
STT
Nội dung
Kí hiệu
1
Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá
CNH- HĐH
2
Dạy học
DH
3
Học sinh
HS
4
Giáo viên
GV
5
Phương pháp dạy học
PPDH
6
Sách giáo khoa
SGK
7
Trung học cơ sở
THCS
8
Trung học phổ thông
THPT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử là một khoa học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội- nhân văn, nghiên
cứu những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, đã diễn ra.
Lịch sử nghiên cứu bao gồm những sự việc, hiện tượng đã diễn ra trong quá
khứ. Việc tiếp nhận tri thức quá khứ đòi hỏi tính trừu tượng rất cao và óc
tưởng tượng rất phong phú, để khôi phục lại hình ảnh chân thực về một sự
kiện đã diễn ra, mà sự kiện đó không còn tồn tại, kể cả những sự kiện mà sinh
viên chưa bao giờ được chứng kiến (chiến tranh, cách mạng, thời nguyên
thủy, cổ đại…).
Trong số các phương tiện dạy học Lịch sử, đồ dùng trực quan có tác dụng
quan trọng trong việc hình thành tri thức lịch sử cho học sinh (HS). Đồ dùng
trực quan là chỗ dựa để hiểu sâu sắc bản chất kiến thức, là phương tiện có
hiệu lực để hình thành các khái niệm, giúp HS nắm vững các quy luật của sự
phát triển xã hội. Ví dụ, khi nghiên cứu bức tranh "hình vẽ trên vách hang",
HS không chỉ có biểu tượng về săn bắn là công việc thường xuyên và hàng
đầu của thị tộc mà còn hiểu: nhờ chế tạo cung tên, con người đã chuyển hẳn
từ hình thức săn bắt sang săn bắn, có hiệu quả kinh tế cao hơn. Điều đó giúp
HS biết sự thay đổi trong đời sống vật chất của con người thời nguyên thủy
luôn gắn chặt với tiến bộ trong kĩ thuật chế tác công cụ của họ.
Đồ dùng trực quan có vai trò rất lớn trong việc giúp HS nhớ kĩ, hiểu sâu
những hình ảnh, những kiến thức lịch sử. Hình ảnh được giữ lại đặc biệt vững
chắc trong trí nhớ là hình ảnh chúng ta thu nhận được bằng trực quan. Vì vậy,
cùng với việc góp phần tạo biểu tượng và hình thành khái niệm lịch sử, đồ
dùng trực quan còn phát triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy và
ngôn ngữ của HS.
1
Mô hình trong dạy học lịch sử là một loại đồ dùng trực quan có tính quy ước,
mô phỏng lại sự vật với các đặc điểm nổi bật của sự vật đó. So với các loại
hình đồ dùng trực quan khác như tranh ảnh hay lược đồ, mô hình có ưu điểm
hơn là có thể mô tả được các sự vật hiện tượng trong không gian ba chiều, thể
hiện được vị trí trong không gian của chúng. Mô hình được đắp nổi như hình
ảnh của các vật thật nhưng có kích thước to hoặc nhỏ hơn. Nhiều mô hình có
thể tháo lắp dễ dàng để tiện nghiên cứu, quan sát từng bộ phận. Ngoài các mô
hình tĩnh, còn có các mô hình động để diễn tả một quá trình diễn biến của một
hiện tượng nào đó. Chính vì vậy, so với việc HS chỉ có thể quan sát, nhận xét
như khi sử dụng đồ dùng trực quan tranh ảnh, bản đồ, bảng biểu thống kê thì
việc HS có thể quan sát một vật thật, cầm nắm, tháo lắp để tìm tòi nghiên cứu
sẽ thu hút sự chú ý, phát huy tính tích cực trong việc học lịch sử hơn rất
nhiều.
Với xu thế liên tục đổi mới PPDH cho phù hợp với tinh hình phát triển của
thời đại trong nhà trường phổ thông hiện nay hơn bao giờ hết giáo dục có vai
trò quan trọng với việc phát triển kinh tế- xã hội, vì thế từ đại hội VI của
Đảng các nghị quyết của ban chấp hành Trung ương 2 khoá VIII đã xác định:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục- đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện nếp tư duy sáng tạo của người học” chính vì lẽ đó, trong
những năm gần đây có những thay đổi mạnh mẽ theo hướng áp dụng các
phương pháp tiên tiến, phương tiện hiện đại vào quá trình DH, đảm bảo điều
kiện thời gian tự học và tự nghiên cứu cho HS, phù hợp với từng môn học.
Tuy nhiên đó là những kết quả bước đầu, nhưng bên cạnh đó cũng có những
hạn chế cần khắc phục. Việc đổi mới PPDH là chặng đường dài với nhiều khó
khăn và thử thách trong đó xóa bỏ cách dạy truyền thống thầy đọc trò chép đã
lạc hậu yêu cầu là phải đổi mới. Tuy có nhiều thay đổi SGK những người thầy
vẫn giữ tư tưởng cũ là cách dạy một chiều, điều này đòi hỏi ngành giáo dục
2
cần phải nghiên cứu và vận dụng các phương pháp tích cực trong DH. Chúng
ta cần khẳng định đây là quá trình lâu dài không thể nóng vội nhưng lại là
công việc cấp thiết phải làm ngay ở mức độ tốt nhất có thể tùy theo điều kiện
cụ thể và nâng lực không chờ đợi hội đủ điều kiện mới tiến hành. Đổi mới
PPDH là yêu cầu bắt buộc đối với ngành giáo dục nói chung và GV nói riêng,
song trên thực tế việc đổi mới này chưa được quan tâm đúng mức. GV được
tham dự các lớp về đổi mới PPDH. Song nhưng khi vể áp dụng chỉ mang tính
“hình thức”, thiếu sáng tạo, hiệu quả chưa cao.
Chính vì vậy, tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Thiết kế và sử dụng mô hình trong
dạy học Lịch sử” làm đề tài khoá luận của mình với mong muốn đóng góp
cho lí luận và thực tiễn của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
Lịch sử.
2. Lịch sử vấn đề
PPDH Lịch sử đã được rất nhiều các nhà Sư phạm Lịch sử nghiên cứu, đưa
vào áp dụng trong thực tiễn giảng dạy. Một số ý kiến về phương pháp sử dụng
đồ dùng trực quan trong dạy học lịch sử như:
“Trong giảng dạy Lịch sử cần giúp HS hiểu rằng muốn nhận thức bất cứ một
sự kiện nào cũng phải xem xét trong quá trình phát sinh, phát triển và những
thay đổi có liên quan đến điều kiện cụ thể của sự kiện đó. Đó là nguyên tắc
của tư duy khoa học, xem xét mọi hiện tượng như những cái đang phát triển,
theo quy luật khác quan. Để hình thành và phát triển lên quan điểm lịch sử,
trong dạy học, chúng ta cần lưu ý HS nắm vững những gia đoạn, các thời kì
lịch sử cụ thể của sự phát triển xã hội loài người, một thời kì lịch sử này khác
với thời kì lịch sử khác. Ví dụ thời kì phong trào cách mạng Việt Nam trước
năm 1930 khác với sau năm 1930 ở những điểm rất cụ thể như lãnh đạo, mục
tiêu, lực lượng, kết quả… cho nên HS nắm vững kiến thức cụ thể, không nên
diễn đạt chung chung bằng các hình dung từ “lạc hậu”, “tiến bộ”, “tàn
3
bạo”,… Mặt khác, qua các khoá trình lịch sử, cần làm cho HS thấy rõ tính
chất tiến bộ, sự phát triển đi lên hợp quy luật, sự thống nhất đầy mâu thuẫn
của lịch sử, tính kế thừa trong sự phát triển (trong lòng chế độ cũ đang hình
thành mầm mống của chế độ mới), chế độ mới tiếp tục, tiếp nhận những tinh
hoa của chế độ cũ…”
“Dù bằng phương pháp dạy học nào, người GV vẫn phải đảm bảo tính cụ thể,
tính hình ảnh của sự kiện lịch sử, coi đó là cơ sở nền tảng để giúp HS hoạt
động đọc lập trong nhận thức lịch sử. Điều này xuất phát từ đặc trưng của
khoa học lịch sử. Lịch sử là những sự việc rất cụ thể đã xảy ra trong xã hội
loài người. Đó là kết quả hoạt động của con người theo đuổi những mục đích
nhất định, trong không gian và thời gian xác định, trong những điều kiện cụ
thể. Vì vậy trong dạy học Lịch sử, việc tạo ra ở HS những hình ảnh chân thực,
cụ thể và sinh động về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, việc khôi phục lại chân
dung của các nhân vật lịch sử và những hoạt động của họ trong những điều
kiện lịch sử cụ thể là nhiệm vụ hàng đầu.
Lịch sử tồn tại khác quan, là những sự việc, hiện tượng, các mối quan hệ có
thật, đã từng xảy ra trong quá khứ, không phải là tư duy tưởng tượng hay
phán đoán ra các sự kiện lịch sử đó. Vì vậy, để giúp HS biết được hiện thực
lịch sử, nhất thiết họ phải được thông tin về quá khứ lịch sử với tính cụ thể,
chân thực của nó. Muốn vậy, trước hết phải nhờ đến lời nói sinh động giàu
hình ảnh của GV và các phượng tiện trực quan để có thể biểu tượng về quá
khứ. Chỉ trên cơ sở đó, HS rút ra nhận xét, đánh giá, tự mình tìm hiểu bản
chất của sự vật hiện tượng” [1, 7-8].
“Dạy học lịch sử cần phải sử dụng đồ dùng trực quan, nhưng không phải sử
dụng bất cứ đồ dùng trực quan nào. Sử dụng tuỳ tiện sẽ không đem lại hiệu
quả sư phạm mà còn ảnh hưởng không tốt đến chất lượng dạy học. Vì vậy,
4
cần chú ý những nguyên tắc chọn đồ dùng trực quan được sử dụng trong dạy
học lịch sử.
Nội dung lịch sử, yêu cầu giáo dục- giáo dưỡng của bài học quy định việc sử
dụng những loại đồ dùng trực quan tương ứng và thích hợp. Bài này sử dụng
bản đồ, bài khác lại sử dụng tranh ảnh hay sa bàn, mô hình. Đôi khi trong một
bài giảng lại kết hợp sử dụng một vài loại đồ dùng trực quan khác nhau. Thật
là tẻ nhạt nếu trong bất cứ bài học lịch sử nào, GV cũng chỉ sử dụng một vài
đồ dùng trực quan có sẵn” [2, 3].
“Khi giảng dạy và học tập trên lớp, việc sử dụng đồ dùng trực quan là một bộ
phận hữu cơ của toàn bộ công tác dạy học. Nó kết hợp chặt chẽ với các khâu
dạy, học khác, không chiếm quá nhiều thời gian, không làm loãng trọng tâm
bài học, không làm cho HS mất tập trung sự chú ý vào bài học. Khi sử dụng
đồ dùng trực quan, GV hướng dẫn HS cách quan sát, nghiên cứu làm cho các
em hiểu rằng đồ dùng trực quan không chỉ là những hình vẽ, tranh ảnh, mô
hình giản đơn mà là sự thể hiện, sự phản ánh những sự kiện lịch sử của đời
sống xã hội đã qua. HS biết rút từ đồ dùng trực quan những điểm cơ bản, chủ
yếu để minh hoạ, bổ sung cho kiến thức, tìm được những mối kiên hệ bản
chất của sự kiện hiện tượng. Vì vậy, khi sử dụng bất cứ đồ dùng trực quan nào
ở trên lớp, GV cần phải kết hợp với việc sử dụng tài liệu lịch sử với trình bày
miệng: miêu tả, tường thuật, nêu đặc điểm,… Tài liệu lịch sử là nội dung kiến
thức của đồ dùng trực quan. Lời nói sinh động, giàu hình ảnh làm cho HS thu
thập kiến thức qua đồ dùng trực quan cụ thể hơn, hấp dẫn hơn, nắm vững khái
niệm sâu sắc hơn. Đồ dùng trực quan đóng góp phần đáng kể vào quá trình tư
duy, cho nên động viên hoạt động nhận thức của học sinh bằng quan sát, nhận
xét, bằng hỏi và trả lời để ngày càng đi sâu hơn vào bản chất sự kiện”[2, 23].
Tuy nhiên, việc nghiên cứu về biện pháp thiết kế và sử dụng Mô hình trong
dạy học Lịch sử còn chưa được đề cập đưa sâu vào nghiên cứu cũng như chưa
5
có ví dụ thực tiễn khái quát và thực nghiệm mô hình đối với HS trong việc
học Lịch sử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình dạy học lịch sử đặc biệt là biện
pháp thiết kế và sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
3.2.
Phạm vi nghiên cứu
Xác định đối tượng nghiên cứu nói trên, đề tài không nghiên cứu toàn bộ các
đồ dùng trực quan mà tập trung nghiên cứu sâu lí luận về việc thiết kế và sử
dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
Phạm vi thực nghiệm sư phạm tại trường THCS Nguyễn Phong Sắc (44 Đại
La, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội).
4.
Mục đích ngiên cứu
Nghiên cứu những phương pháp, quy trình thiết kế và sửa dụng mô hình trực
quan để tổ chức cho HS tự lực nghiên cứu tài liệu thông qua các giờ dạy trên
lớp, tổ chức kiểm tra đánh giá mức độ lĩnh hội kiến thức của HS thông qua
việc sử dụng mô hình trực quan nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới PPDH.
5.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Bài khoá luận thực hiện 4 nhiệm vụ
-
Nghiên cứu những lí luận và thực tiễn giáo dục phổ thông về việc thiết
kế và sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
-
Thiết kế mô hình trực quan nhằm phát huy tính tích cực của HS.
-
Xác định những yêu cầu chung, đề xuất biện pháp thiết kế và sử dụng
mô hình trực quan cho GV và HS.
-
Thực nghiệm sư phạm trường THCS Nguyễn Phong Sắc nhằm kiểm tra
tính khả thi của đề tài.
6
6.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn về thiết kế và sử dụng mô hình trực
quan. Tiến hành thiết kế xây dựng, thực nghiệm sử dụng và khảo sát để đánh
giá hiệu quả của việc sử dụng mô hình trực quan trong dạy học Lịch sử.
7.
Giả thiết khoa học
Nếu thiết kế và sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử phù hợp sẽ góp phần
nâng cao chất lượng dạy học lịch sử, phát huy tính tích cực sáng tạo cho HS
theo yêu cầu, mục tiêu đào tạo.
8.
Đóng góp của khoá luận
Thiết kế và sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử nhằm phát huy tính tích
cực sáng tạo của GV và HS trong việc dạy và học tập môn lịch sử.
Đồng thời, khoá luận còn là nội dung làm tài liệu nghiên cứu và học tập của
GV và HS nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của người dạy và
học môn lịch sử.
9.
Cấu trúc bài khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo nội dung khoá
luận gồm có 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc sử dụng mô hình trong dạy học
Lịch sử.
Chương 2: Thiết kế mô hình trong dạy học Lịch sử (qua ví dụ Mô hình Địa
đạo Củ Chi).
Chương 3: Sử dụng mô hình trong dạy học Lịch sử (qua ví dụ Mô hình Địa
đạo Củ Chi).
7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG MÔ HÌNH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
1.1.
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Xuất phát từ đặc điểm tri thức lịch sử
Kiến thức lịch sử không lặp lại về cả thời gian và không gian. Chính điều này
đặt ra yêu cầu khi trình bày một sự kiện, hiện tượng nào đó trong lịch sử phải
xem xét tính cụ thể.
Kiến thức lịch sử mang tính cụ thể cũng là đặc điểm nổi bật của kiến thức lịch
sử. Chính đặc điểm này đòi hỏi việc trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử
càng cụ thể, sinh động bao nhiêu lại càng hấp dẫn bấy nhiêu. Do vậy nếu chỉ
thực hiện hoạt động dạy học chỉ bằng hình thức chữ viết thì rất khó để HS có
thể hình dung ra các sự kiện, nhân vật trong lịch sử. Chính vì vậy, việc sử
dụng đồ dùng dạy học trực quan sinh động, xây dựng mô hình, sa bàn trong
hoạt động dạy học có ý nghĩa rất lớn đối với nhận thức của HS trong bài học
cũng như đối với các sự kiện, nhân vật trong quá khứ.
1.1.2. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS
Hứng thú học tập lịch sử của HS được hình thành do tác động của nhiều yếu
tố trong đó có sự tác động quan trọng nhất từ nội dung và PPDH. Để tạo hứng
thú học tập lịch sử cho HS cần tiến hành trên tất cả các mặt nội dung và
PPDH. Một trong những phương pháp tạo được hứng thú đối với HS trong
việc dạy học lịch sử được sử dụng một cách hiệu quả đó chính là việc sử dụng
đồ dùng trực quan sinh động.
Việc sử dụng đồ dùng trực quan sinh động giúp HS có thể hình dung cụ thể
nhất về những sự kiện lịch sử đã diễn ra trong quá khứ, tạo hứng thú cho HS
từ đó giúp HS có thể nhanh chóng tiếp thu bài, nhớ bài lâu hơn, kích thích các
8
em tích cực, say mê học tập để tiếp thu những kiến thức mới trong môn lịch
sử.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của việc học tập, tiếp thu kiến thức lịch sử của
học sinh THCS. Các em phải được rèn luyện ở mức độ cao hơn khả năng tự
học, tự nhận thức và hành động cũng như có những tìm tòi trong tư duy, sáng
tạo.
So sánh kiểu dạy học truyền thống và phương pháp dạy học nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh thông qua việc tiếp cận, làm việc với đồ dung trực
quan chúng ta thấy rõ những điều kiện khác biệt cơ bản trong quá trình dạy và
học [3].
KIỂU DẠY HỌC
PPDH PHÁT HUY TÍNH TÍCH
TRUYỀN THỐNG
CỰC CỦA HỌC SINH
1. Cung cấp nhiều sự kiện được
xem là tiêu chí cho chất lượng
giáo dục.
2. GV là nguồn kiến thức duy
nhất, phần lớn thời gian trên
lớp dành cho GV thuyết trình,
giảng giải, HS thụ động tiếp thu
kiến thức thông qua nghe và
ghi lại lời của giáo viên.
3. HS chỉ làm việc một mình trên
lớp, ở nhà hoặc với GV khi
kiểm tra.
4. Nguồn kiến thức thu nhận được
của HS rất hạn hẹp, thường giới
9
1. Cung cấp những kiến thức cơ
bản được lựa chọn phù hợp
với yêu cầu, trình độ của HS,
nhằm mục tiêu đào tạo.
2. Ngoài bài giảng của GV ở
trên lớp, HS được tiếp thu
nhiều nguồn kiến thức khác,
vốn kiến thức đã học, kiến
thức của bạn bè, SGK, tài liệu
tham khảo, thực tế cuộc sống.
3. HS ngoài việc tự nghiên cứu
còn trao đổi, thảo luận với các
bạn trong tổ, trong lớp, trao
đổi ngoài giờ. HS đề xuất ý
hạn ở các bài giảng của GV,
kiến, thắc mắc, trao đổi với
SGK.
GV.
5. Hình thức tổ chức dạy học chủ
yếu ở trên lớp.
4. Nguồn kiến thức của HS thu
nhận rất phong phú, đa dạng:
lời nói, tài liệu viết, đồ dùng
trực quan, di tích lịch sử,
phòng truyền thống, nhân
chứng lịch sử,…
5. Dạy ở trên lớp, ở bảo tàng,
thực địa, các hoạt động ngoại
khóa,…
Như vậy qua so sánh hai kiểu dạy học trên thì ta thấy phương pháp phát huy
tính tích cực của HS sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên nó đòi hỏi GV và
HS phải được “Tích cực hóa” trong quá trình dạy- học, phải chủ động sáng
tạo. Muốn đạt được điều đó GV cần áp dụng nhiều PPDH trong đó có phương
pháp sử dụng đồ dùng trực quan. Cần phải tiếp thu những điểm cơ bản có tính
nguyên tắc của cách dạy truyền thống song phải luôn luôn đổi mới, làm một
cuộc cách mạng cho người dạy và người học để khắc phục sự bảo thủ, thụ
động như: GV chỉ chuẩn bị phần giảng những điều HS dễ nhớ, HS chỉ chú
trọng ghi lời giảng của GV và kiến thức trong sách để trình bày, ghi lại khi
kiểm tra.
1.1.3. Xuất phát từ quan điểm đổi mới dạy học, phát huy tính tích cực,
sáng tạo của học sinh
Tính tích cực chủ động và sáng tạo là gì?
10
Tính tích cực là một đặc điểm vốn có của con người. Con người không chỉ là
khách thể mà còn là chủ thể của các quan hệ xã hội, thể hiện ở chỗ tích cực
tiếp thu có chọn lọc tất cả những tác động bên ngoài để sáng tạo và xây dựng
nhân cách riêng của mình. Nguồn gốc của tính tích cực là nhu cầu. Con người
sinh ra cùng với một loạt nhu cầu bẩm sinh khác nhau, thí dụ nhu cầu ăn,
uống... và sau đó xuất hiện nhu cầu xã hội... Những nhu cầu này không bao
giờ cạn và luôn trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động. Khi nhu cầu
nhận thức xuất hiện thì nó sẽ thúc đẩy hoạt động học tập.
Lí luận dạy học cũng chỉ ra rằng, muốn xây dựng động lực của quá trình dạy
học có hai điều quan trọng cần phải lưu ý:
- Phải biến yêu cầu của chương trình dạy học thành nhu cầu nhận thức của
người học bằng cách tạo dựng các tình huống nhận thức, đưa HS tới đỉnh
điểm của những mâu thuẫn chứa đựng những khó khăn vừa sức đối với HS.
Phải giáo dục tính tích cực, tự giác học tập và tạo điều kiện cho những cố
gắng vươn tới của HS bằng khả năng của mình. Trong quá trình lĩnh hội kiến
thức, kĩ năng kĩ xảo ở HS, tính tích cực được thể hiện từ cấp độ thấp nhất đến
cấp độ cao nhất như sau :
-
Bắt chước: tính tích cực thể hiện ở sự cố gắng làm theo mẫu hành động,
thao tác, cử chỉ hành vi hay nhắc lại những gì trải qua...
-
Tìm hiểu và khám phá : tính tích cực thể hiện ở sự chủ động hoặc ý
muốn hiểu thấu đáo vấn đề nào đó để sau đó có thể tự giải quyết vấn đề...
-
Sáng tạo: tính tích cực thể hiện ở khả năng linh hoạt và hiệu quả trong
giải quyết vấn đề...
Trong quá trình dạy học, GV là chủ thể tổ chức, điều khiển và HS là chủ thể
hoạt động học tích cực chủ động và sáng tạo. GV phải cải tiến không ngừng
PPDH và giúp HS cải tiến phương pháp học. Những tri thức đã học sẽ tạo ra
11
một trình độ ở người học, GV phải dựa vào trình độ này để hướng dẫn HS
nâng cao lên một trình độ mới.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học
chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên
để dạy học theo phương pháp tích cực thì GV nỗ lực nhiều so với dạy theo
phương pháp truyền thống.
Đổi mới PPDH thực chất không phải là sự thay thế các PPDH cũ bằng một
loạt các PPDH mới. Về mặt bản chất, đổi mới PPDH là đổi mới cách tiến
hành các phương pháp, đổi mới các phương tiện và hình thức triển khai
phương pháp trên cơ sở khai thác triệt để ưu điểm của các phương pháp cũ và
vận dụng linh hoạt một số phương pháp mới nhằm phát huy tối đa tính tích
cực, chủ động và sáng tạo của người học. Như vậy, mục đích cuối cùng của
đổi mới PPDH là làm thế nào để HS phải thực sự tích cực, chủ động, tự giác,
luôn trăn trở tìm tòi, suy nghĩ và sáng tạo trong quá trình lĩnh hội tri thức và
lĩnh hội cả cách thức để có được tri thức ấy nhằm phát triển và hoàn thiện
nhân cách của mình. Những PPDH thường được sử dụng trước đây mà người
ta vẫn gọi là PPDH truyền thống, thí dụ phương pháp thuyết trình, phương
pháp hỏi- đáp, vẫn đang được thực hiện trong tất cả các giờ dạy của GV hiện
nay. Nhưng nếu các phương pháp này vẫn được tiến hành theo cái cách mà ở
những thập niên trước sử dụng thì chắc chắn nó trở nên kém hiệu quả. GV
nên tập trung vào việc tổ chức quá trình lĩnh hội kiến thức. Phương pháp
thuyết trình sẽ trở nên tích cực khi GV thuyết trình trong một lượng thời gian
phù hợp và biết kết hợp một cách nhuần nhuyễn, hợp lí và khoa học với các
phương pháp khác để làm sao HS thích thú và hào hứng hoạt động.
Những phương pháp có thể kết hợp với thuyết trình như: phương pháp minh
hoạ bằng sơ đồ biểu bảng hay vật thật, phương pháp hỏi- đáp với các câu hỏi
12
kích thích được tư duy người học, phương pháp nêu vấn đề, phương pháp tình
huống,... Tuy nhiên nếu những PPDH này không được tiến hành theo đúng ý
nghĩa và chức năng của nó thì chúng cũng không được gọi là PPDH tích cực.
Như vậy, đổi mới PPDH không phải là sự thay thế các phương pháp quen
thuộc hiện có bằng những phương pháp mới lạ. Thực chất chúng ta phải hiểu
lại cho đúng cách làm, cách tiến hành các PPDH, và cách linh hoạt sáng tạo
trong sử dụng nó ở những hoàn cảnh và tình huống khác nhau để những
PPDH có tác động tích cực đến người học. Ngoài ra, cùng với sự phát triển
của phương tiện dạy học, một số PPDH hiện đại cần được bổ sung vào PPDH
của GV.
Xuất phát từ những quan điểm đổi mới trên, việc thiết kế và sử dụng mô hình
trực quan trong dạy học Lịch sử có thể đáp ứng được những yêu cầu về xây
dựng chương trình, nội dung trong mỗi bài học cho HS mà không bị lặp lại
hay gây nhàm chán. Từ đó có thể phát huy được tính tích cực sáng tạo cho HS
trong việc học tập môn lịch sử.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng đồ dùng trực quan trong dạy học
Lịch sử
Dạy học lịch sử có một hệ thống gồm nhiều phương pháp khác nhau, có quan
hệ hữu cơ, không tách rời nhau, trong đó phương pháp trực quan có một vai
trò rất quan trọng trong việc tạo biểu tượng lịch sử cho HS. Đồ dùng trực
quan được sử dụng tốt sẽ huy động được sự tham gia của nhiều giác quan của
người học, sẽ kết hợp hai hệ thống tín hiệu: tai nghe, mắt nhìn thấy tạo điều
kiện cho HS dễ hiểu, nhớ lâu, gây được những mối liên hệ phong phú, gây
hứng thú, phát triển ở HS năng lực chú ý, quan sát, qua đó phát huy được tính
tích cực chủ động học tập cho HS.
Về mặt lí luận dạy học, nguyên tắc trực quan là một trong những nguyên
tắc cơ bản, nhằm tạo biểu tượng cho HS, trên cơ sở đó hình thành khái niệm
13
- Xem thêm -