Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
Tiểu luận: TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
ĐỀ TÀI:
LÝ
LÝTHUYẾT
THUYẾTBỘ
BỘBA
BABẤT
BẤT
KHẢ
KHẢTHI
THI
GVHD: PGS TS. NGUYỄN THỊ LIÊN HOA
NHÓM THỰC HIỆN : NHÓM 3
LỚP
: NGÂN HÀNG ĐÊM 3
KHÓA
: 19
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2010
DANH SÁCH NHÓM 3
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 1
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
LỚP NGÂN HÀNG ĐÊM 3 – K19
STT
Họ và tên
Ghi chú
1
Nguyễn Hạ Vũ
Nhóm trưởng
2 Nguyễn Trần Nhật Thuyên
3
Nguyễn Thị Hồng Vân
4
Phùng Thị Ngọc Thương
5
Vũ Kim Tố Quỳnh
6
Cao Thị Xuân Tâm
7
Mai Ngọc Trí
8
Lê Thị Thùy Trâm
9
Phan Như Hiếu
10
Trương Thị Thanh Mai
11
Đoàn Minh Nhựt
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 2
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
Tp Hồ Chí Minh
11/2010
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU: .........................................................................................Trang 1
Phần 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT“BỘ BA BẤT KHẢ THI” Trang 2
1.1 Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi” .............................................................Trang 2
1.2 Tại sao lại có “Bộ ba bất khả thi”? .....................................................Trang 3
Phần 2: ĐO LƯỜNG CÁC YẾU TỐ TRONG “BỘ BA BẤT KHẢ THI”
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 3
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
.................................................................................................................. Trang 5
2.1 Xây dựng các công cụ đo lường bộ ba bất khả thi..............................Trang 5
2.1.1 Chính sách tiền tệ độc lập...............................................................Trang 5
2.1.2 Tỷ giá hối đoái cố định:..................................................................Trang 5
2.1.3 Dòng vốn di chuyển tự do – Chỉ số KAOPEN:...............................Trang 6
2.2 Mối liên hệ tuyến tính của các chỉ số \..............................................Trang 6
Phần 3: THEO DÕI CÁC CHỈ SỐ:.......................................................Trang 14
3.1 Các biến trên các nhóm quốc gia:.......................................................Trang 14
3.2 Các mẫu trong một bảng cân đối: .......................................................Trang 18
3.3 Xác định sự phá vỡ cấu trúc:...............................................................Trang 22
Phần 4: THỰC TẾ VIỆC VẬN DỤNG “BỘ BA BẤT KHẢ THI VÀO THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA VN TỪ NĂM 2007 ĐẾN NĂM 2010:
.................................................................................................................. Trang 26
4.1 Chính sách tiền tệ của Việt nam từ năm 2007 đến năm 2010:.............Trang 26
4.1.1 Chính sách tiền tệ của Việt nam năm 2007 - 2009..........................Trang 26
4.1.2 Chính sách tiền tệ của Việt nam năm 2009-08/2010......................Trang 28
4.2 Mô hình đánh giá Diamond giai đoạn 2005 – tháng 08/2010:.............Trang 29
4.3 Bài học kinh nghiệm:..........................................................................Trang 30
PHẦN KẾT LUẬN:................................................................................Trang 33
TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................Trang 34
LỜI MỞ ĐẦU
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi phát triển một phương pháp cho phép
chúng tôi mô tả một cách trực quan sự lựa chọn mà quốc gia đã thực hiện đối với “bộ
3 bất khả thi” trong giai đoạn hậu Bretton Woods. Bài nghiên cứu bàn đến khía cạnh
linh hoạt của “bộ 3 bất khả thi”, phác thảo các chỉ số mới để đo lường mức độ linh
hoạt của tỷ giá hối đoái, độc lập của chính sách tiền tệ, và mở cửa tài khoản vốn, có
tính đến sự phát triển đáng kể gần đây tích lũy dự trữ quốc tế. Sự phát triển các chỉ số
của “bộ 3 bất khả thi” mô tả rằng từ sau những năm 1990, các nước công nghiệp đã
tăng tốc độ mở cửa tài chính, nhưng giảm mức độ độc lập trong chính sách tiền tệ
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 4
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
trong khi tăng mạnh sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Đỉnh điểm của quá trình này là sự
ra đời của đồng euro vào cuối những năm 1990. Ngược lại, ở nhóm các nước đang
phát triển thì ưu tiên chính của họ là theo đuổi sự ổn định tỷ giá từ sau những năm
1990, mặc dù nhiều nước hướng đến sự linh hoạt hơn của tỷ giá hối đoái từ đầu những
năm 1970 trở đi. Từ năm 2000, các chỉ số của các biến trong “bộ 3 bất khả thi” có xu
hướng đạt mức trung bình đặc trưng cho sự thả nổi có quản lý, sử dụng nguồn dự trữ
quốc tế khá lớn như sự hỗ trợ, do đó giữ lại một mức độ tự chủ trong tiền tệ. Sử dụng
các chỉ số này, chúng tôi cũng kiểm tra mối quan hệ tuyến tính của ba khía cạnh của
“bộ 3 bất khả thi”: tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá, và độ mở tài chính. Chúng tôi tin
rằng tổng hợp chỉ số của ba biến số mục tiêu chính sách trong “bộ 3 bất khả thi” là một
hằng số, chứng thực quan điểm cho rằng sự gia tăng trong một biến “bộ 3 bất khả thi”
nên được đánh đổi với một lượng giảm tương ứng của hai biến còn lại.
Phần 1
TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT “ BỘ BA BẤT KHẢ THI”
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Lý thuyết bộ ba bất khả thi - The Impossible Trinity (hay Inconsistent Trinity
hoặc Triangle of Impossibility) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết phát biểu
rằng: một quốc gia không thể đồng thời thực hiện cùng một lúc 3 mục tiêu chính sách
vĩ mô:
Ổn định tỷ giá
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 5
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Tự do hóa dòng vốn
Chính sách tiền tệ độc lập
“Bạn không thể có đồng thời tất cả: một quốc gia chỉ có thể chọn tối đa 2 trong
3. Nó có thể chọn một chính sách ổn định tỷ giá nhưng phải hi sinh tự do hóa dòng
vốn tức là tiếp tục kiếm soát vốn (giống như Trung Quốc ngày nay), nó có thể chọn
một chính sách tự do hóa dòng vốn nhưng vẫn tự chủ về tiền tệ, song phải để tỷ giá
thả nổi (giống như Anh hoặc Canada), hoặc nó có thể chọn kiểm soát vốn và ổn định
chính sách tiền tệ , nhưng phải thả nổi lãi suất để chống lạm phát hoặc suy thoái
(giống như Achentina hoặc hầu hết Châu Âu)"-- trích lời đề tặng Robert Mundell Paul Krugman, 1999.
Đây là mô hình lý thuyết rất phổ biến, gọi là mô hình Mundell- Fleming được
Robert Mundell và Marcus Fleming phát triển trong những năm 1960. Và vào những
năm 1980 khi vấn đề kiểm soát vốn bị thất bại ở nhiều quốc gia cùng với mâu thuẫn
giữa việc neo giữ tỷ giá và chính sách tiền tệ độc lập ngày càng rõ ràng thì Lý thuyết
bộ ba bất khả thi đã trở thành nền tảng cho kinh tế học vĩ mô của nền kinh tế mở.
Một kiểu khác của lý thuyết bộ ba bất khả thi rất được chú ý - với một chính
sách ổn định tỷ giá hoàn hảo, với một tài khoản vốn mở (không bị kiểm soát) hoàn
hảo, nhưng một quốc gia vẫn hoàn toàn không thể tự chủ chính sách tiền tệ. Những ví
dụ lặp lại trên thế giới cho thấy ở những nơi và thời điểm mà tài khoản vốn bắt đầu
được tự do , thì cùng lúc xuất hiện một chính sách tỷ giá cứng nhắc hơn và sự tự chủ
về chính sách tiền tệ cũng giảm đi.
Song song với sự phát triển thương mại và dịch vụ trong thế giới hiện đại, kiểm
soát vốn rất dễ bị lãng quên. Do vậy rất khó để một quốc gia có được một hệ thống
kiểm soát vốn thật sự hiệu quả. Lý thuyết bộ ba bất khả thi khẳng định rằng: trong điều
kiện ngày nay, một quốc gia phải lựa chọn giữa việc giảm thiểu sự thay đổi tỷ giá
hoặc điều hành một chính sách tiền tệ độc lập ổn định. Nó không thể có đồng thời cả
hai.
1.2
Tại sao lại có "bộ ba bất khả thi"?
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 6
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Trong nền kinh tế mở cửa với thế giới bên ngoài, ba yếu tố gồm: (1) dòng vốn
chảy vào và chảy ra; (2) tỷ giá hối đoái; và (3) chính sách tiền tệ luôn có liên hệ mật
thiết với nhau.
Khi dòng vốn ra vào (tài khoản vốn) được tự do, nếu muốn giữ tỷ giá hối đoái
ổn định thì ngân hàng trung ương buộc phải tung đồng nội tệ mua đồng ngoại tệ trong
trường hợp dòng tiền đi vào quá nhiều; ngược lại, một lượng ngoại tệ dự trữ sẽ phải
bán bớt ra để thu về đồng nội tệ khi dòng vốn đảo chiều.
Trong bối cảnh như vậy, tính độc lập của chính sách tiền tệ hay nói cách khác
điều hành chính sách tiền tệ vì mục tiêu lạm phát sẽ không thể đảm bảo vì cung tiền
không phải dựa vào diễn biến giá cả trong nền kinh tế mà do tỷ giá hay dòng tiền vào
ra quyết định.
Ngược lại, nếu ngân hàng trung ương muốn có một chính sách tiền tệ độc lập vì
mục tiêu lạm phát thì buộc phải từ bỏ mục tiêu cố định tỷ giá khi tài khoản vốn đã
được tự do.
Như vậy, không thể có chính sách tiền tệ độc lập trong điều kiện cố định hay
coi như cố định tỷ giá hối đoái và tài khoản vốn được tự do. Hay nói cách khác, không
thể giữ được ba góc của một chiếc khăn khỏi bung lên trong một chiều lộng gió chỉ
bằng hai hòn đá.
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 7
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 8
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Phần 2
ĐO LƯỜNG CÁC YẾU TỐ TRONG “BỘ BA BẤT KHẢ THI”
2.1.
Công thức đo lường bộ ba bất khả thi.
2.1.1 Sự độc lập trong chính sách tiền tệ (MI)
Mức độ độc lập tiền tệ được đo lường trong mối tương quan đảo nghịch giữa lãi
suất hàng tháng của quốc gia đang xem xét và quốc gia cơ bản (nước tham chiếu). Sử
dụng tỷ giá thị trường tiền tệ.
Chỉ số để xác định sự độc lập của tiền tệ là:
Với i là nước sở tại và j là nước cơ bản (định danh) . Với công thức này, giá trị
tối đa và tối thiểu mong đợi là 1 và 0. Chỉ số này càng cao, tức là chính sách tiền tệ
càng độc lập;
Ở đây, những quốc gia cơ bản là những nước có chính sách tiền tệ có liên quan
mật thiết với nước sở tại, theo định nghĩa ở Shambaugh (2004). Những quốc gia cơ sở
như Úc, Bỉ, Pháp, Đức, Ấn Độ, Malaysia, Nam Phi, Mỹ, Anh. Shambaugh sử dụng
những dữ liệu sẵn có của các nước cơ bản hoặc lấy từ báo cáo thường niên của IMF về
thoả thuận và hạn chế trong tỷ giá (Annual Report on Exchange Arrangements and
Exchange Restrictions (AREAER)) và CIA Factbook
2.1.2 Sự ổn định tỷ giá - ERS
Để đo lường tính ổn định trong tỷ giá, độ lệch chuẩn hàng năm của tỷ giá hối
đoái mỗi tháng giữa nước sở tại và nước cơ bản được tính toán và tiêu chuẩn hoá từ
giái trị 0 đến 1 theo công thức:
1
ERS =
1+
Độ lệch chuẩn TGHĐ
|d log Et/ dt | + 0.01
|d log Et/ dt | là giá trị thực của tỷ lệ giảm giá hàng năm tính bằng tỷ giá hối
đoái tại tháng 12 mỗi năm. Chỉ số này càng cao thể hiện sự thay đổi ổn định trong tỷ
giá so với đồng tiền của nước cơ sở.
.
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 9
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
2.1.3 Mở cửa/hội nhập tài chính (KAOPEN)
Không còn nghi ngờ gì nữa, thật khó khăn để đo lường mức độ kiểm soát tài
khoản vốn. Mặc dù đã tồn tại nhiều thước đo để mô tả mức độ và cường độ kiểm soát
tài khoản vốn, nhưng quan điểm chung là các thước đo này không thể hiện hết sự phức
tạp của việc kiểm soát tài chính trong thực tế. Tuy nhiên, đối với thước đo mức độ mở
cửa/hội nhập tài chính, chúng tôi sử dụng chỉ số tự do/ mở cửa tài khoản tài chính, hay
KAOPEN, xây dựng bở Chinn và Ito (2006, 2008). KAOPEN dựa trên các thông tin
đánh giá về các hạn chế trong báo cáo thường niên của IMF về thoả thuận và hạn chế
trong tỷ giá (AREAER). Đặc biệt, KAOPEN là thành phần đầu tiên được tiêu chuẩn
hoá của các biến cho thấy sự hiện diện của nhiều tỷ giá hối đoái, những hạn chế trong
giao dịch trên các tài khoản vãng lai, giao dịch trong các tài khoản vốn và đòi hỏi giảm
bớt các thủ tục xuất khẩu. Vì KAOPEN dựa trên những hạn chế được báo cáo, nó là
chỉ số (lý thuyết) de jure của việc mở cửa tài khoản vốn trái ngược các thước đo thực
tế (de facto) của Lane và Milesi – Ferrtti (2006). Lựa chọn một chỉ số de jure đo lường
việc mở cửa tài khoản vốn được thúc đẩy bởi động cơ xác định các định hướng chính
sách của các nước; các thước đo de facto kết hợp những biến động trong kinh tế vĩ mô
và các quyết định chính sách liên quan đến sự kiểm soát tài chính.
Chỉ số Chinn – Ito được tiêu chuẩn hoá giữa 0 và 1. Chỉ số này cao nghĩa là
quốc gia này càng mở cửa cho các giao dịch vốn quốc tế. Chỉ số này có sẵn cho 171
quốc gia trong thời kỳ 1970 -2006, chúng tôi đã loại trừ trường hợp của Mỹ trong
những phân tích thống kê. Phụ lục này trình bày sẵn các dữ liệu chi tiết hơn.
2.2
Mối liên hệ tuyến tính của các chỉ số:
Những phân tích trước đó là khá hữu ích cho việc theo dõi sự phát triển của
định hướng chính sách kinh tế vĩ mô quốc tế, nhưng chúng đã không chứng minh được
là liệu 3 mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô có ràng buộc như theo lý lẽ của bộ ba bất
khả thi không. Điều đó quan trọng với chúng tôi để cung cấp bằng chứng rằng các
nước đã phải đối mặt với sự đánh đổi của các yếu tố của bộ ba bất khả thi . Một thách
thức phải đối mặt với một sự kiểm nghiệm toàn diện sự đánh đổi của bộ ba bất khả thi
là việc khuôn khổ của bộ ba không áp đặt bất kỳ hình thức chức năng rõ ràng của bản
chất sự đánh đổi giữa ba biến của bộ ba bất khả thi. Để mô tả cho vấn đề này, chúng ta
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 10
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
phải lưu ý rằng do sự khan hiếm các nguồn lực của các yếu tố của bộ ba bất khả thi
hàm ý rằng việc tăng lên của một biến trong bộ ba, như: sự tự do hóa tài chính cao
hơn thì làm giảm tính ổn định của tỷ giá hoặc làm giảm tính độc lập tiền tệ hoặc sự
điều chỉnh kết hợp của hai 2 chính sách đó 1. Sau đó, chúng tôi kiểm tra giá trị cơ bản
nhất của bộ ba bất khả thi là – Sự đánh đổi tuyến tính. Cụ thể là, chúng tôi kiểm tra
xem tổng giá trị các chỉ số của ba biến trong bộ ba bất khả thi có phải là một hằng sô
hay không. Điều này làm giảm việc kiểm tra tính chính xác của công thức hồi quy
tuyến tính này.
1= aj M Ii,t +bjERSi,t +cjKAOPENi,t +ε,
với J có thể là cả IDC, ERM, hoặc
LDC.(1)
Bởi vì chúng ta đã nêu những khác nhau giữa các nhóm quốc gia đã trải qua
những con đường phát triển khác nhau, chúng tôi cho phép các hệ số các biến ở các
nhóm quốc gia khác nhau có giá trị khác nhau - đối với các nước công nghiệp, các
nước nằm trong Thị trường tiền tệ chung Châu âu (ERM), và các nước đang phát triển
- bằng cách cho phép tương tác giữa các biến giải thích và các biến giả của những mẫu
nhỏ này 2. Phép hồi quy được chạy trên toàn khoảng thời gian nghiên cứu, cũng như
trong khoảng thời gian nhỏ hơn được xác định trong các tiểu mục trước. Kết quả được
trình bày ở bảng 2.
1
Xem Obstfeld, Shambaugh, and Taylor (2005) cho những thảo luận sâu hơn về vấn đề bộ 3 bất khả thi
Theo đó, những chi phí điều chỉnh cân bằng kinh tế vĩ mô dự trữ tối ưu đã xảy ra trong trường hợp không có dự
trữ với chi phí cơ hội của việc tích lũy dự trữ ấy (Frenkel và Jovanovic, 1981).
2
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 11
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Thứ hai, các hệ số được ước tính trong mô hình hồi quy trên sẽ cho chúng ta
một số đánh giá gần đúng về trọng số của các quốc gia dựa trên ba mục tiêu chính
sách. Tuy nhiên, các hệ số được ước lượng ở trên, một mình nó sẽ không cung cấp đủ
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 12
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
thông tin về "bao nhiêu” các lựa chọn chính sách mà các quốc gia có thực sự thực
hiện. Do đó, nhìn vào những dự đoán bằng cách sử dụng các hệ số được ước tính và
giá trị thực sự cho các biến (như là aˆMI , bˆERS , và cˆKAOPEN) sẽ có nhiều thông
tin hơn.
Thứ ba, bằng cách so sánh các giá trị được dự đoán dựa trên mô hình hồi quy
trên, tức là, aˆMI + bˆERS + cˆKAOPEN, trong một khoảng thời gian, chúng ta có thể
nhận được một số kết luận về cách mà các chỉ số bộ ba này “ràng buộc” với nhau. Nếu
bộ ba này được tìm thấy là có sự ràng buộc tuyến tính, các giá trị của các chỉ số được
dự đoán sẽ di chuyển xung quanh giá trị 1, và các sai số dự báo sẽ chỉ ra rằng có bao
nhiêu trường hợp các lựa chọn trong ba lựa chọn chính sách đã không được "sử dụng
hoàn toàn" hay bộ ba bất khả thi "không có ràng buộc nhau" đến mức độ nào.
Bảng 2 trình bày kết quả hồi quy. Các kết quả từ các hồi quy với đầy đủ các dữ
liệu mẫu được báo cáo trong cột đầu tiên, và những kết quả khác của các giai đoạn
mẫu nhỏ khác trong những cột sau đó. Trước hết, chỉ số R-bình phương điều chỉnh cho
mô hình mẫu đầy đủ cũng như cho các giai đoạn mẫu nhỏ khác được tìm ra là trên
94%, điều này cho biết rằng các mục tiêu chính sách là có mối quan hệ tuyến tính với
nhau, có nghĩa là: các quốc gia có đối mặt với sự đánh đổi giữa sự lựa chọn ba chính
sách. Qua các giai đoạn khác nhau, các hệ số ước tính thay đổi, cho thấy rằng do các
mục tiêu của chính phủ thay đổi, và cả do sự thay đổi bản chất tự nhiên của các nền
kinh tế.
Trong bảng 7 mô tả sự phù hợp ở góc độ khác. Trong các bảng trên cùng, các
đường đậm nét cho thấy trung bình của các giá trị dự đoán (ví dụ như, aˆMI + bˆERS +
cˆKAOPEN) dựa trên mô hình mẫu đầy đủ trong cột đầu tiên của bảng 2 của nhóm các
nước công nghiệp (bên trái) và nhóm các nước đang phát triển (bên phải). Khi kết hợp
với các biến thời gian của các dự đoán, trung vị của các giá trị dự đoán trong các mẫu
nhỏ với độ tin cậy 95% (được thể hiện ở vùng bóng mờ) được tính bằng cách sử dụng
khoảng quan sát có thời gian năm năm. Các bảng còn cho thấy việc sử dụng các hệ số
và giá trị thực của hai trong ba chỉ số - như aˆMI + bˆERS (đường màu nâu), aˆMI +
cˆKAOPEN (đường xanh dương), bˆERS + cˆKAOPEN (dđường màu cam).
Từ các đồ thị này, chúng ta có thể thấy đầu tiên là các giá trị được dự đoán dựa
trên mô hình, xoay quanh giá trị 1 gần với cả hai mẫu con. Đối với nhóm các nước
công nghiệp, giá trị trung bình của các dự đoán được thống kê dưới giá trị 1 trong
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 13
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
những năm cuối thập niên 1970, những năm đầu và cuối thập niên 1980. Tuy nhiên,
kể từ đầu thập niên 1990, người ta không thể phủ nhận giả thuyết H 0 nghĩa là trung
bình của các giá trị dự đoán là 1, từ đó chỉ ra rằng các chỉ số bộ ba bất khả thi có “mối
ràng buộc” với nhau đối với nhóm các nước công nghiệp. Đối với các nước đang phát
triển, mô hình ở dưới mức dự đoán từ hết thập niên 1970 đến suốt đầu thập thập niên
1990. Tuy nhiên không giống với các nước công nghiệp là mức trung bình của các chỉ
số dự đoán được thống kê nhỏ hơn giá trị 1 kể từ năm 2000. Tại mức tối thiểu, trung
bình của các giá trị dự đoán sẽ không bao giờ đạt được tới giá trị lớn hơn 1 theo khía
cạnh thống kê, ngụ ý rằng, mặc dù trong một vài năm khi bộ ba bất khả thi không có
mối ràng buộc với nhau, bộ ba chính sách kinh tế vĩ mô vẫn có mối liên kết tuyết tính
với nhau.
Trong các bảng đầu cũng chỉ ra rằng, trong nhóm các nước công nghiệp, chính
sách kết hợp giữa ổn định tỷ giá và mở cửa tài chính có xu hướng tăng lên kể từ sau
thập niên 1990, trong khi sự kết hợp giữa chính sách tiền tệ độc lập và ổn định tỷ giá
từ có xu hướng giảm xuống qua các năm. Trong nhóm các nước đang phát triển, chính
sách kết hợp giữa ổn định tỷ giá và mở cửa tài chính ít biến động hơn qua các năm,
hầu như phản ánh những ảnh hưởng cay đắng của các cuộc khủng hoảng tiền tệ. Chính
sách kết hợp giữa chính sách độc lập tiền tệ và mở cửa tài chính hoặc giữa độc lập tiền
tệ và ổn định tỷ giá chiếm ưu thế hơn, nhưng chủ yếu bởi vì ưa thích ưu thế hơn trong
việc chọn chính sách độc lập tỷ giá qua các thời kỳ.
Ở các hình bên dưới, chúng ta có thể quan sát phần ảnh hưởng của các định
hướng chính sách riêng lẽ cho (ví dụ như aMI , bˆERS , and cˆKAOPEN) đối với nhóm
các nước công nghiệp và nhóm các nước đang phát triển. Ở hình này thể hiện một bức
tranh thống nhất với hình 5 và hình 6. Trong khi các nước kém phát triển duy trình ở
mức cao, mặc dù có sự linh hoạt mức độ linh độc lập trong chính sách tiền tệ cũng như
duy trì một mức thấp nhưng giữ nguyên với mức độ ổn định của tỷ giá, các nước này
dần dần đã tăng mức độ mở rộng tài khoản vốn bắt đầu từ thập niên 1990. Tuy nhiên,
nỗ lực để đạt được ba mục tiêu chính sách cùng một lức chỉ đạt được khi các nước đã
tích lũy ở mức độ cao dự trữ ngoại hối, nó cho phép họ có thể can thiệp vào thị trường
ngoại hối, phù hợp với thực tế là các nước đang phát triển tăng dự trữ ngoại hối sau
cuộc khủng hoảng Châu Á năm 1997 – 1998. Tuy nhiên, với khái niệm về dự đoán bộ
ba bất khả thi, với điều kiện môi trường này làm gia tăng trong chi phí của các cuộc
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 14
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
can thiệp nhất là khi mà khối lượng thực tế của các giao dịch quốc tế các tài sản tài
chính gia tăng và khi không có sự thay đổi trong ba chính sách. Điều này dường như
giải thích cho sự sụt giảm trong mức độ độc lập tiền tệ từ sau năm 2000 của các nhóm
các quốc gia (the emerging market country (EMG) group and the non-emerging
market developing country group (Non-EMG LDC) ).
Thực nghiệm các nước công nghiệp cho thấy sự tương phản rõ rệt. Cho dù
chính sách tiền tệ độc lập là ưu tiền hàng đầu của các nước công nghiệp phát triển cho
đến thập niên 1990, điều đó tạo ra sự hội nhập tài chính vào những năm đầu thập niện
1990 khi nhiều nước công nghiệp tự do hóa những thị trường tài chính. Nổ lực của tự
do hóa tài chính ứng với mức độ sụt giảm của chính sách tiền tệ độc lập, sự sụt giảm
này được tiếp tục và trở thành chính sách được ưu tiên thập nhất trong thập niên 2000.
Những thay đổi như thế trong tỷ trọng tương đối của ba yếu tố không đòi hỏi các nước
này tích trữ dự trữ ngoại hối như là trường hợp các nước đang phát triển.
Chúng tôi cũng nhắc lại thử nghiệm dùng các mô hình hồi quy cho mỗi thời kỳ
nhỏ (ngoại trừ các năm có hiện tượng phá vỡ cấu trúc). Kết quả cũng giống như ở hình
7. Ngoài ra, bằng cách sử dụng các dự đoán áp dụng trên mô hình của từng giai đoạn
nhỏ. Chúng tôi thử nghiệm và tìm hiểu xem rằng nếu có bất kỳ điểm gẩy cấu trúc
trong các giá trị dự báo theo cùng một cách như trong tiểu mục trước hay không. Thật
thú vị, chúng tôi tìm ra rằng đối với cả hai nhóm các nước công nghiệp và nhóm các
nước đang phát triển, vào những năm thập niên 1990 được tìm thấy là có sự phá vỡ
cấu trúc rõ ràng nhất. Cũng như kết quả của các thử nghiệm có liên quan, vào những
năm 1990, hoặc là năm bắt đầu những làn song toàn cầu hóa, như là một sự kiện quan
trọng nhất có ảnh hưởng đến kiến trúc tài chính quốc tế.
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 15
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 16
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 17
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Phần 3
THEO DÕI CÁC CHỈ SỐ
3.1
Sự khác biệt giữa các nhóm quốc gia:
So sánh những chỉ số này cung cấp cái nhìn sâu sắc thú vị là kiến trúc tài chính
quốc tế đã phát triển theo thời gian như thế nào. Với mục đích này, “biểu đồ kim
cương” là hữu dụng nhất. Hình 3 tóm tắt xu hướng của những nước công nghiệp hóa,
bao gồm 12 nước sử dụng đồng EURO, những nước có thị trường mới nổi và những
nước thị trường không có thị trường mới nổi. Nó cho thấy những nước công nghiệp
chuyển đổi theo xu hướng tự do hóa tài chính nhiều hơn qua các năm. Chúng ta cũng
có thể thấy rằng những nước công nghiệp hóa cũng ổn định tỉ giá hối đoái, nhưng kết
quả này được thúc đẩy chủ yếu bởi những nước chấp nhận đồng EURO. Một khi
những nước sử dụng đồng EURO được loại ra, những nước công nghiệp hóa còn lại
không thấy dấu hiệu đánh mất sự độc lập tiền tệ. Sơ đồ cũng làm nổi bật vấn đề là
những nước đang phát triển chuyển đổi theo xu hướng tỉ giá hối đoái linh hoạt hơn và
hội nhập tài chính sâu hơn. Cả hai xu hướng này thể hiện rõ ràng đối với nhóm những
nước thị trường mới nổi hơn là những nước đang phát triển không có thị trường mới
nổi. Thêm vào đó, nhóm những nước có thị trường mới nổi thực hiện rõ ràng việc gia
tăng mức dự trữ ngoại hối. Trong khi thị trường các nước đang phát triển không có thị
trường mới nổi thì cũng thực hiện sự gia tăng trong dự trữ ngoại hối, sự thay đổi trong
dự trự ngoại hối của họ đã được điều chỉnh nhiều hơn nữa. Ngược lại ở các nước công
nghiệp phát triển họ đã giảm tỷ lệ dự trữ này.
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 18
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Hình 4 có sự so sánh giữa các nước đang phát triển thuộc các nhóm vùng địa lý
khác nhau. Các nước đang phát triển ở Châu Á và Châu Mỹ La Tinh (LATAM) đã có
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 19
Lý thuyết “Bộ ba bất khả thi”
Nhóm 3 - Lớp NH Đêm 3 –K19
Trang 20
- Xem thêm -