Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tiểu luận môn lênin về đảng và xây dựng dảng_những nguyên lý về đảng kiểu mới...

Tài liệu Tiểu luận môn lênin về đảng và xây dựng dảng_những nguyên lý về đảng kiểu mới

.DOC
28
3719
147

Mô tả:

Tiểu luận môn lênin về đảng và xây dựng dảng_những nguyên lý về đảng kiểu mới
Häc viÖn chÝnh trÞ-hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh Häc viÖn x©y dùng ®¶ng TIÓU LUËN MÔN : LÊNIN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG DẢNG §Ò tµi: Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân qua một số tác phẩm của Lênin và sự vận dụng của ĐCSVN Häc viªn Líp : : Chuyªn ngµnh : Xây dựng ĐCSVN ~ Hà Nội, 02/2012 ~ Häc viÖn chÝnh trÞ-hµnh chÝnh quèc gia hå chÝ minh Häc viÖn x©y dùng ®¶ng TIÓU LUËN MÔN : LÊNIN VỀ ĐẢNG VÀ XÂY DỰNG DẢNG §Ò tµi: Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân qua một số tác phẩm của Lênin và sự vận dụng của ĐCSVN Häc viªn Líp : : Chuyªn ngµnh : Xây dựng ĐCSVN ~ Hà Nội, 02/2012 ~ MỤC LỤC Trang 5 6 LỜI MỞ ĐẦU NéI DUNG I. LÊNIN KẾ THỪA TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN, SÁNG TẠO HỌC THUYẾT VỀ CHÍNH 6 ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 6 2. Lênin kế thừa, phát triển những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về 8 1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản Đảng cộng sản đưa ra các nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công 2 nhân II. VẬN DỤNG NHỮNG NGUYÊN LÝ VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA LÊNIN TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT 15 NAM 1. Đảng cộng sản VN là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước 2. Đảng Cộng sản việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam 3. Đảng cộng sản VN phải lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin “Làm cốt” 4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản 16 17 19 20 5. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng lãnh đạo, dân làm chủ, phải thường xuyên chăm 23 lo, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa đảng với dân 6. Đảng phải thường xuyên chăm lo, xây dựng và chỉnh đốn đảng 24 III. Ý NGHĨA VIỆC VẬN DỤNG NHỮNG NGUYÊN LÝ VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA LÊNIN TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG 25 CỘNG SẢN VIỆT NAM HIỆN NAY KẾT LUẬN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 3 28 29 Lêi më ®Çu Cũng như trên nhiều lĩnh vực khác, trên lĩnh vực xây dựng đảng, Lênin đã có những cống hiến vô cùng to lớn về mặt lý luận và về mặt hoạt động thực tiễn. Lênin đã sáng lập và rèn luyện Đảng Bonsevich Nga thành một đảng vô sản vững mạnh, đảng đã lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng tháng Mười vĩ đại, thiết lập nền chuyên chính vô sản đầu tiên trên thế giới, mở đầu thời đại quá độ của loài người từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Dưới ánh sáng học thuyết về Đảng của Lênin, các đảng cộng sản và công nhân ở hàng loạt nước trên thế giới đã ra đời và trưởng thành mau chóng. Quá trình phát triển và trưởng thành của Đảng ta đã chứng minh một cách sâu sắc sự đúng đắn những nguyên lý của Lênin về xây dựng Đảng. Chính nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam mà Đảng ta đã thành một đảng vô sản dồi dào sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, đưa cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghiên cứu thấu đáu những nguyên lý về xây dựng đảng của Lênin và quá trình Đảng ta vận dụng những nguyên lý đó vào thực tiễn Việt Nam là một yêu cầu lớn để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng Đảng. Hiện nay trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị của học thuyết Mác - Lênin về Đảng, thì việc nghiên cứu thực chất các nguyên lý của học thuyết Mác – Lênin càng có ý nghĩa to lớn, giúp chúng ta những cơ sở lý luận để quán triệt và vận dụng sáng 4 tạo đường lối, chính sách xây dựng đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách mạng, người lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt nam vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. NỘI DUNG I. LÊNIN KẾ THỪA TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC VÀ PH.ĂNGGHEN, SÁNG TẠO HỌC THUYẾT VỀ CHÍNH ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN 1. Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản: Sự ra đời của Đảng Cộng Sản - chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân cũng không nằm ngoài quy luật chung. Nghĩa là đều bắt nguồn từ những mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản mà trước hết và chủ yếu là những mâu thuẫn về lợi ích vật chất. Những mâu thuẫn này là nguồn gốc của cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản. Theo dòng lịch sử, cuộc đấu tranh dần dần phát triển từ tự phát đến tự giác, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất tập trung để hướng mọi nỗ lực của giai cấp vào mục tiêu cao nhất là đấu tranh chống lại giai cấp tư sản, giành và bảo vệ quyền lợi của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ bản về chính đảng cộng sản. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản, sáng tạo ra xã hội mới không còn người bóc lột người – xã hội cộng sản – mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng đó còn được rút ra từ sự phân tích một cách biện chứng những điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình phát triển của xã hội loài người nói chung và giai cấp công nhân nói riêng. 5 C.Mác và Ph.Ăngghen đã thảo ra “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” và sáng lập nên tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới mang tên “ Đồng minh những người cộng sản”. Hai ông tổ chức lãnh đạo Quốc tế I. Sau khi Mác mất, Ăngghen đã tiếp tục sáng lập và lãnh đạo quốc tế II. Hai ông đã chỉ ra rằng giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất trong xã hội. Nhưng giai cấp công nhân có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra chính đảng độc lập của nó. Ph.Ăngghen viết: “ Để cho giai cấp công nhân có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút quyết định thì điều cấn thiết là C.Mác và tôi đã bảo vệ quan điểm này từ 1847 – phải tổ chức được một đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các đảng khác và đối lập với đảng đó, nhận thức rõ mình là đảng của giai cấp” 1. Đây là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng xã hội thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng của nó là tiêu diệt giai cấp. Hai ông cho rằng đảng là của giai cấp công nhân, đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Nhưng đảng không chỉ đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân mà đại biểu cho quyền lợi của nhân dân lao động. Bởi vì giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng mình nếu đồng thời giải phóng cho các tầng lớp nhân dân lao động khác trong xã hội thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Đảng của giai cấp công nhân phải được vũ trang bằng lý luận tiên tiến, có trình độ giác ngộ cao. Hai ông chủ trương thành lập đảng trên cơ sở kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân và hai ông là một trong những người đầu tiên đã thực hiện sự kết hợp ấy. Đảng của giai cấp công nhân được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Hai ông đưa ra điều kiện, tiêu chuẩn kết nạp đảng viên và việc xem xét kết nạp người xuất thân không từ giai cấp công nhân vào đảng; Liên hệ chặt chẽ với nhân dân là sức mạnh to lớn của đảng; đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, bè phái, tự phê bình và phê bình là quy luật phát 1 C.Mác và Ph.Ăng ghen: toàn tập, Nxb chính trị, M.1978, t 4, tr 35 (tiếng nga) 6 triển của đảng. Các chi bộ là nền tảng của đảng, hạt nhân chính trị trong các hiệp hội công nhân và trong công xưởng nhà máy. Do điều kiện lịch sử, hai ông chưa bàn nhiều về những vấn đề này, song qua các tác phẩm và nhất là 72 ngày công xã pari, hai ông đã đưa ra một số tư tưởng về đảng cộng sản cầm quyền nêu trên. 2. Lênin kế thừa, phát triển những tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản đưa ra các nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: 2.1 Hoàn cảnh lịch sử cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Đây là thời kỳ chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc – giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản. Giai cấp tư sản bộc lộ hoàn toàn sự phản động của nó. Mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với với giai cấp tư sản, giữa giai cấp tư sản với nhân dân các nước thuộc địa…trở nên gay gắt. Thời cơ nổ ra cách mạng vô sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân đã đến gần và chín muồi, song các đảng của quốc tế thứ hai sau khi Ph.Ăngghen mất không đủ sức mạnh, tư cách và uy tín lãnh đạo cách mạng vô sản. Nhiêm vụ cấp bách và nặng nề đặt ra là kế thừa, phát triển, sáng tạo những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về Đảng cộng sản xây dựng nên các nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, và áp dụng vào thực tiễn xây dựng đảng kiểu mới đủ sức lãnh đạo cách mạng vô sản giành thắng lợi. Lênin đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đó, đã đưa ra các nguyên lý đảng kiểu mới, trực tiếp áp dụng, xây dựng đảng công nhân Dân chủ - Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng tháng Mười giành thắng lợi to lớn, lập nên Nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới, mở ra thời kỳ mới trong lịch sử phát triển nhân loại. Đó là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. 2.2 Những nguyên lý đảng kiểu mới của giai cấp công nhân: 7 Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng Chủ nghĩa Mác – Lênin là hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng mình, chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Lênin đã chứng minh rằng, không có lý luận cách mạng thì sẽ không có phong trào cách mạng và khi lý luận cách mạng đã thâm nhập vào quần chúng thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn. Lênin viết: Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và Chủ nghĩa xã hội Pháp. Người nhấn mạnh: chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác: Lý luận đó là lý luận đầu tiên đã biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học…Lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của một đảng xã hội chủ nghĩa cách mạng, nhiệm vụ đó là: Tổ chức cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản và lãnh đạo cuộc đấu tranh đó và mục đích cuối cùng là giai cấp vô sản giành lấy chính quyền và tổ chức xã hội, xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Đảng là một bộ phận của giai cấp, nhưng phải phân biệt đảng với toàn bộ giai cấp. Theo Lênin đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ, có giác ngộ nhất của giai cấp, đảng là người đưa yếu tố tự giác vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo dục, động 8 viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Lênin chỉ ra rằng: “Không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp” 1. Vai trò tiên phong của đảng được thể hiện trước hết trên lĩnh vực lý luận: “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”2. Đòi hỏi đầu tiên về tư cách người đảng viên phải là giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa Mác – Lê nin, nắm được đường lối, chính sách của đảng. Đảng phải được tổ chức chặt chẽ để đảm bảo là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh, đó là tổ chức của những người giác ngộ cao về mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân, triệt để cách mạng, kiên quyết đấu tranh cho lý tưởng đó. Thứ ba, khi có chính quyền, đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp. Do đó, trong hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ có đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đảng tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản” 3. Lênin nhấn mạnh, về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn nghi ngờ gì nữa. Đảng lãnh đạo về chính trị trên mọi mặt hoạt động của nhà nước và các tổ chức quần chúng bằng đường lối và chính sách của đảng. Thông qua các tổ chức đảng cùng với đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và trong các tổ chức quần chúng, mà mọi định hướng chính trị, đường lối, 1 V.I.Lê nin tòan tập, Nxb Tiến bộ, M.1979, t 8, tr 289 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến Bộ, M. 1976, t.6, tr 32 3 Sđd, t 8, tr.289 2 9 chủ trương của đảng được cụ thể hóa thành những chính sách, những quy định pháp lý. Đảng ý thức rõ rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của đảng luôn gắn liền với việc phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các tổ chức quần chúng. Đảng phê phán thói chuyên quyền, độc đoán, bao biện, làm thay công việc của nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị xã hội. Thứ tư, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức sinh hoạt và hoạt động của đảng Khi giải thích về tư cách của người đảng viên, Lênin đòi hỏi người đảng viên phải hoạt động trong một tổ chức đảng, Người đã khẳng định: “…chúng ta không thể đưa ra một định nghĩa nào khác về đảng viên, nếu không muốn rời bỏ nguyên tắc của chế độ tập trung. Nếu công nhận một người không vào một tổ chức nào của đảng là đảng viên, thì như thế nghĩa là chống lại bất cứ sự kiểm soát nào của đảng” 1. Trong tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi” (4-1904), Lênin tiếp tục khẳng định rằng: “…chế độ tập trung, quy định, về mặt nguyên tắc, phương thức giải quyết mọi vấn đề cá biệt và chi tiết về tổ chức” chế độ này “duy nhất mang tính nguyên tắc, cần phải quán triệt trong toàn bộ điều lệ” 2. Sau này (4-1906), V.I. Lênin giải thích rõ thêm: “Tất cả chúng tôi đều đồng ý về nguyên tắc tập trung dân chủ, về việc bảo đảm quyền của bất cứ thiểu số nào và của bất cứ phái đối lập trung thực nào, về quyền tự trị của mỗi tổ chức đảng, về sự thừa nhận rằng tất cả các cán bộ phụ trách của đảng đều phải được bầu ra, phải báo cáo công tác và có thể bị bãi miễn” 3. Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng và lợi ích cơ bản của những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và mọi khả năng sáng tạo của những chiến sĩ tiên phong trong Đảng. Đó là điều 1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, M.1979, t.8, tr.53 V.I.Lênin: Sđd, tr265-266 3 V.I.Lênin: Sđd, t.12, tr 474-475 2 10 kiện cơ bản bảo đảm cho đảng có trí tuệ cao nhất để làm tròn được vai trò người lãnh đạo toàn xã hội. Dân chủ trong đảng phải có sự chỉ đạo tập trung để đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong đảng. tập trung dân chủ đối lập với tập trung quan liêu, gia trưởng độc đoán và dân chủ hình thức, dân chủ không có lãnh đạo. Tập trung dân chủ là một tiêu chí để phân biệt đảng cách mạng với đảng cơ hội cải lương. Thứ năm, Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp vô sản, từ sự kết cấu chặt chẽ của Đảng. Đảng chỉ thu nhận vào đội ngũ của mình những đại biểu ưu tú của giai cấp vô sản và nhân dân lao động tự nguyện xin gia nhập Đảng. Đó là những người có cùng tư tưởng, mục đích và lợi ích. Trong nhiều tác phẩm của mình, Lênin đã lý giải một cách toàn diện, sâu sắc tính tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ đảng. Theo Lênin, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, đảng “phải có một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ, tuyệt đối” 1. Đồng thời Người chỉ rõ, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ yếu, vô địch và vô tận của đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Người coi mục tiêu của công tác xây dựng và củng cố đảng là nhằm xây dựng và củng cố sự thống nhất đội ngũ đảng. Trong điều kiện có chính quyền, Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất của đảng. Thực tế ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ sự thống nhất đội ngũ đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi, là nhân tố để đoàn kết toàn dân, quyết định sự vững mạnh cuả Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền tảng chính trị, xã hội của nó. Người còn chỉ rõ, khi đã có chính quyền, nếu để xảy ra chia rẽ thì không chỉ là nguy hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm, nhất là nếu trong nước đó, giai cấp vô sản chỉ là thiểu số nhỏ bé trong dân cư. 1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, M.1978, t.36, tr245 11 Để bảo đảm sự thống nhất trong đảng luôn luôn được củng cố và phát triển, Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Lênin chỉ ra rằng: “Thái độ của một chính đảng trước những sai lầm của mình là một trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xét xem đảng ấy có nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy – đó là dấu hiệu chứng tỏ một đảng nghiêm túc, đó là đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp rồi đến quần chúng”1. Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính đảng, tính nguyên tắc cao; phải bảo đảm tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng. Tự phê bình và phê bình phải là một nội dung thường xuyên của sinh hoạt Đảng. Thứ sáu, Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương, đường lối của đảng không trở thành hiện thực. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là sự nghiệp hoàn toàn mới mẻ và vô cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu đảng tổ chức và phát huy được tính sáng tạo cách mạng của quần chúng. Lênin chỉ ra rằng, những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tính sáng tạo sinh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã hội mới. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu 1 V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1978, t.41, tr51 12 không dung hợp được với tinh thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân. Khi Đảng Bonsevich Nga đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất thuận lơi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng; đồng thời, trong đảng cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện có thể rơi vào tình trạng thoái hóa, biến chất, xa rời quần chúng. Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà Đảng cầm quyền cần chú ý đề phòng, khắc phục. Thứ bảy, Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào đảng, phải thường xuyên đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò ấy nếu trong đảng chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào đảng là biện pháp quan trọng để cải thiện thành phần, chất lượng của đảng là điều kiện vô cùng trọng yếu để nâng cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở mỗi thời kỳ của cách mạng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều không tránh khỏi có một số người không còn giữ được vai trò tiên phong. Có người do trình dộ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, có người do không kiên định về chính trị, thiếu ý thức tổ chức kỹ luật, thoái hóa biến chất trở thành những kẻ quan liêu, tham nhũng, ức hiếp quần chúng…Đặc biệt là trong điều kiện đảng có chính quyền không tránh khỏi có những phần tử cơ hội tìm mọi cách luồn lọt chui vào đảng với mưu đồ đặc quyền, đặc lợi, phá hoại sự thống nhất đội ngũ đảng, làm niềm tin của quần chúng đối với đảng bị giảm sút. Từ những thực tiễn của Đảng cộng sản Nga sau những năm có chính quyền, trước khi qua đời, Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Cần phải đuổi ra khỏi đảng những kẻ gian xảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu háo, không trung thực, nhu nhược…” 1. 1 V.I.Lê nin: Toàn tập, Nxb.Tiến bộ, M.1978, t44,tr 154 13 Thứ tám, Tính quốc tế của Đảng Cộng sản: Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân. Tính quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động theo những nguyên lý của học thuyết Mác-Lê nin về đảng, ở đường lối chiến lược, sách lược đối nội và đối ngoại của đảng, ở chỗ đảng luôn luôn quan tâm giáo dục đội ngũ đảng viên và nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng. Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hướng sô vanh nước lớn hoặc chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. II. VẬN DỤNG NHỮNG NGUYÊN LÝ VỀ ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA LÊNIN TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM Học thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, cũng như toàn bộ Chủ nghĩa Mác-Lênin với thuộc tính cách mạng và khoa học của nó đòi hỏi các chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải xuất phát từ điều kiện cụ thể của dân tộc, giai cấp, thực tiễn chính trị và xã hội của đất nước mình và vận dụng sáng tạo. Đây là học thuyết mở, cần được nạp thêm năng lượng mới từ thực tiễn cách mạng để làm cho học thuyết Mác - Lênin càng phát triển và sống mãi. Là người trung thành và kiên trì đi theo Chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí minh chỉ rõ: “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học cái tinh thần xử lý mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ Nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế ở nước ta”1 1. Đảng cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp Chủ nghĩa MácLênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước 1 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chi1ng trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t.9, tr 292 14 Khi nghiên cứu tình hình ở các nước tư bản, Lênin đã nêu ra luận điểm: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân. Bám sát đặc điểm tình hình Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, Hồ Chí minh cho rằng nếu kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp công nhân còn nhỏ bé, phong trào công nhân còn non yếu. Trong khi đó phong trào yêu nước rất mãnh liệt của nhân dân, bất luận là giai cấp, tầng lớp nào, vì vậy phải kết hợp với phong trào yêu nước của đông đảo quần chúng. Mặt khác bản thân phong trào công nhân Việt Nam cũng không thể phát triển, không thể xứng đáng với vai trò hạt nhân quy tụ các giai cấp, tầng lớp đứng lên đấu tranh nếu không “tự mình trở thành dân tộc”. Đảng ra đời ngày 3-2-1930 là kết quả của sự kết hợp Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Tổng kết kinh nghiệm 30 năm xây dựng Đảng, Hồ Chí Minh viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”1. Chính từ nhận thức đó, trong quá trình chuẩn bị thành lập Đảng, Hồ Chí Minh đã định hướng đúng đắn cho sự vận động của hai quá trình: Một là, đưa phong trào yêu nước chuyển dần từ lập trường quốc gia sang khuynh hướng Mácxit, rồi từ khuynh hướng Mácxít chuyển sang lập trường cộng sản; Hai là, đưa phong trào công nhân chuyển dần từ trình độ tự phát sang trình độ tự giác. Nhân tố đóng vai trò quyết định bảo đảm sự chuyển biến về chất của phong trào công nhân và phong trào yêu nước là Chủ nghĩa Mác - Lênin, thông qua vai trò truyền bá có hệ thống của Hồ Chí Minh. Từ Chủ nghĩa yêu nước đến với Chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, đó cũng chính là con đường mà Hồ Chí Minh đã trải nghiệm và cũng là con đường tiến triển của dân tộc ta đầu thế kỷ XX. 1 Sđd, t 10, tr 8 15 Luận điểm này có ý nghĩa rất to lớn. Đảng cộng sản Việt Nam ngay từ khi mới ra đời đã gắn bó với dân tộc, hòa mình cùng dân tộc, sinh tồn với sứ mệnh của dân tộc. Không phải mọi người yêu nước đều là cộng sản nhưng đã là cộng sản thì phải có tinh thần yêu nước, phấn đấu cho độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 2. Đảng Cộng sản việt Nam – Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam Bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh đã có một luận điểm quan trọng: Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là Đảng của dân tộc Việt nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951), Người khẳng định: “Trong giai đoạn này, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động và của dân tộc là một. Chính vì Đảng lao động Việt nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam” 1. Khi miền Bắc chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, năm 1961, Người nhắc lại luận điểm này: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị” 2. Nói Đảng của giai cấp, đồng thời là Đảng của dân tộc song không có nghĩa là “Đảng toàn dân”, không mang bản chất giai cấp, mà đó là Đảng mang bản chất giai cấp công nhân. Sở dĩ có đặc trưng đó là vì, khác hẳn các đảng của giai cấp bóc lột, giai cấp công nhân có lợi ích thống nhất với lợi ích của các tầng lớp cần lao và lợi ích của toàn dân tộc. Bản chất giai cấp công nhân của đảng không chỉ ở số lượng đảng viên xuất thân từ công nhân, mà cơ bản là nền tảng tư tưởng của đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin; mục tiêu, đường lối của đảng thực sự vì độc lập dân tộc và Chủ Nghĩa xã hội, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải 1 2 Sđd, t.6, tr 175 Sđd, t 10, tr 467 16 phóng xã hội, giải phóng con người; ở vấn đề đảng nghiêm túc tuân thủ nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Đảng không chỉ kết nạp những người ưu tú trong giai cấp công nhân, mà còn kết nạp cả những người ưu tú trong giai cấp nông dân, trong đội ngũ trí thức và các thành phần khác đã được giác ngộ, tự giác đứng trên lập trường giai cấp công nhân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII nhấn mạnh: “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng ta đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó, nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản, thiết thân của mình” 1. Đó cũng là vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng với tình hình hiện nay trong công tác xây dựng đảng, tránh bệnh tả khuynh (cô độc, biệt phái) hoặc hữu khuynh (xóa nhòa bản chất giai cấp công nhân của Đảng). Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(8, 130) 3. Đảng cộng sản Việt Nam phải lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin “Làm cốt” Ngay trong quá trình vận động chuẩn bị thành lập Đảng, trong Đường Cách mệnh, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có 1 ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu tòn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, HN,1991, tr 128 17 chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam” 2. Dẫn đường cho mọi hoạt động của giai cấp đều cần thiết phải có một học thuyết cách mạng. Song, theo Hồ Chí Minh, “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin” 2. Nếu không có lý luận dẫn đường, Đảng chỉ là một tập hợp ngẫu nhiên, rời rạc, thiếu thống nhất và không có sức mạnh. Chủ nghĩa Mác –Lênin là học thuyết cách mệnh nhất vì nó chỉ ra cho Đảng mục tiêu, con đường thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động và giải phóng dân tộc, xóa bỏ áp bức bất công, xây dựng một chế độ xã hội mới tốt đẹp. Lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin làm cốt không có nghĩa là giáo điều máy móc theo từng câu, từng chữ mà chính là nắm vững tinh thần của Chủ nghĩa Mác – Lênin, trong đó linh hồn sống là phép biện chứng duy vật. Đồng thời phải thâu tóm tinh hoa văn hóa của dân tộc và nhân loại, tham khảo kinh nhiệm của các đảng anh em, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để hoạch định đường lối đúng đắn. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt nam viết: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn đất nước để đề ra cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng của nhân dân” Trong tình hình hiện nay, một mặt phải kiên trì chủ nghĩa Mác – Lê nin. Mặt khác phải không ngừng sáng tạo lý luận. Không kiên trì Chủ nghĩa Mác – Lênin sẽ rơi vào chủ nghĩa xét lại, cơ hội, rốt cuộc cũng không có sáng tạo lý luận đích thực. Ngược lại, không sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin trong tình hình mới sẽ làm mất đi sức sống của nó mà thời đại mới đang yêu cầu. 4. Đảng Cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo những nguyên tắc đảng kiểu mới của giai cấp vô sản 1 2 Hồ Chí Ninh toàn tập,Nxb chính trị quốc gia, HN,1995, t 2, tr 268 Sđd, t 2, tr 268 18 Hồ Chí Minh đã khái quát những yêu cầu xây dựng đảng kiểu mới thành các nguyên tắc sau: Thứ nhất, tập trung dân chủ. Đây là nguyên tắc rường cột để xây dựng đảng cộng sản thành một tổ chức chiến đấu chặt chẽ, vừa phát huy sức mạnh của mỗi người, vừa phát huy sự nghiệp của tất cả những ai đã tự nguyện gắn bó với nhau thành một tổ chức. Tại văn kiện Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành TW khóa VIII Đảng ta khẳng định: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chúc sinh hoạt và hoạt động của đảng” 1. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc này được phản ánh sâu sắc trong Điều lệ Đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh đây là nguyên tắc tổ chức của đảng. Dân chủ và tập trung có quan hệ gắn bó và thống nhất với nhau, là hai mặt của một vấn đề. Dân chủ không đối lập với tập trung, mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tự do tùy tiện, vô tổ chức. Dân chủ là để đi đến tập trung, là cơ sở của tập trung. Tập trung chỉ có thể đạt được trên cơ sở phát huy dân chủ thực sự trong đảng. Để bảo đảm tập trung, Người nhấn mạnh phải thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Do đó, thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, mọi đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của đảng. Từ đó làm cho “Đảng ta tuy nhiều người nhưng khi tiến hành đánh thì chỉ như một người” 2. Để bảo đảm dân chủ, Người yêu cầu tư tưởng phải tự do. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó một quyền lợi mà cũng chính là nghĩa vụ của mỗi người. Thứ hai, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. 1 2 ĐCSVN: Văn kiện HN lần thứ 6 BCHTW khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia,H.1999, tr 25 Sđd, t 5, tr 553 19 Hồ Chí Minh cho rằng đây là nguyên tắc lãnh đạo của Đảng. Sở dĩ phải bảo đảm tập thể lãnh đạo vì một người dù tài giỏi đến mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của một vấn đề, càng không thể thấy hết được mọi việc, hiểu hết được mọi chuyện. Nhiều người thì nhiều kiến thức, người thấy mặt này, người thấy mặt kia, do đó hiểu được mọi mặt, mọi vấn đề. Sở dĩ cá nhân phụ trách là vì nếu không sẽ dẫn đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ rồi hỏng việc. Vì thế, bất kỳ công việc gì sau khi đã được tập thể bàn bạc kỹ lưỡng, kế hoạch rõ ràng thì cần giao cho một người phụ trách, nếu giao cho một nhóm người thì cũng cần có một người phụ trách chính, như thế công việc mới chạy, mới tránh được thói dựa dẫm, đùn đẩy trách nhiệm. Do đó, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn đi đôi với nhau. Thứ ba, tự phê bình và phê bình Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển của đảng. Người thường đặt tự phê bình lên trước phê bình. Bởi vì Người cho rằng, mỗi đảng viên trước hết phải thấy rõ mình, để phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, giống như phải tự soi gương rửa mặt hàng ngày. Hơn nữa phải tự phê bình tốt thì mới phê bình người khác tốt được. Người xem tự phê bình và phê bình là vũ khí để rèn luyện đảng viên, nhằm làm cho mỗi người tốt hơn, tiến bộ hơn và tăng cường đoàn kết nội bộ. Người chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn chân chính”. Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này đòi hỏi mỗi người phải trung thực, chân thành với bản thân mình cũng như với người khác, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau. Người phê phán những thái độ lệch lạc, sai trái, thường xảy ra trong tự phê bình và phê bình như thiếu trung thực, che giấu khuyết điểm của 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan