LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc, các nhu cầu về khai thác tài nguyên thiên nhiên, sử
dụng năng lƣợng ngày càng tăng. Sự phát triển kinh tế xã
hội với sự xuất hiện hàng loạt các nhà máy xí nghiệp, các
công trình xây dựng… đã tác động mạnh mẽ đến hệ sinh
thái, môi trƣờng xung quanh cũng nhƣ điều kiện sống của
con ngƣời. Tài nguyên có xu thế cạn kiệt dần, tình trạng ô
nhiễm môi trƣờng ngày càng gia tăng. Sự biến đổi theo
chiều hƣớng xấu của môi trƣờng ảnh hƣởng ngƣợc trở lại
đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi một nƣớc. Và
cùng với quá trình công nghiệp hóa, tốc độ đô thị hóa ngày
càng gia tăng. Nhu cầu tài nguyên và năng lƣợng phục vụ
cho ngƣời dân ngày càng lớn, các hoạt động kinh tế xã hội
tạo nên rất nhiều chất thải gây ô nhiễm môi trƣờng. Vì vậy
vấn đề quản lý và bảo vệ môi trƣờng, tài nguyên thiên
1
nhiên đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhân loại.
Và một trong số tài nguyên mà nhân loại đang đề cập cấp
bách nhất hiện nay chính là nguồn tài nguyên nƣớc.
Xuất phát từ vấn đề trên em chọn đề tài “Bảo vệ
nguồn tài nguyên nước ” làm đề tài để nghiên cứu.
2
NỘI DUNG
I. Đặc điểm chung của tài nguyên nước ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nguồn tài nguyên nƣớc xếp
vào loại trung bình khá trên thế giới nhƣng có nhiều yếu tố
không bền vững. Nƣớc ta có khoảng 830 tỷ m3 nƣớc mặt,
trong đó chỉ có 310 tỷ m3 đƣợc tạo ra do mƣa rơi trong lãnh
thổ, chiếm 37%; còn 63% do lƣợng mƣa ngoài lãnh thổ
chảy vào. Tổng trữ lƣợng tiềm tàng nƣớc dƣới đất có khả
năng khai thác, chƣa kể phần hải đảo tính 60 tỷ m3/năm.
Nếu kể cả nƣớc mặt và nƣớc dƣới đất trên phạm vi lãnh thổ
thì bình quân đầu ngƣời đạt 4.400 m3/ngƣời/năm, so với thế
giới là 7.400 m3/ngƣời/năm.
Lƣợng nƣớc sản sinh từ ngoài lãnh thổ chiếm gần 2/3
tổng lƣợng nƣớc có đƣợc. Sự phân bố của cả nƣớc mặt lẫn
nƣớc dƣới đất không đều. Theo không gian, nơi có lƣợng
mƣa nhiều nhất là Bạch Mã 8.000mm/năm; Bắc Qang, Bà
3
Nà khoảng 5.000mm/ năm, trong khi cửa Phan Rí chỉ đạt
xấp xỉ 400mm/năm. Theo thời gian, mủa lũ chỉ kéo dài từ
3-5 tháng, nhƣng chiếm tới 70 – 80% lƣợng nƣớc cả năm.
Mùa lũ, lƣợng mƣa lớn nhất đạt trên 1.500mm/ ngày, song
mùa cạn nhiều tháng lại không có mƣa.
Sự không thuận lợi của tài nguyên nƣớc trong sử dụng
và khai thác. Nƣớc ta có khoảng 2.360 con sông có chiều
dài hơn 10km. Trong số 13 lƣu vực chính và nhánh có diện
tích lớn hơn 10.000km2 thì đến 10/13 sông có quan hệ với
nƣớc láng giềng, trong đó 3/13 sông thƣợng nguồn ở Việt
Nam, hạ nguồn chảy sang nƣớc láng giềng; 7 sông thƣợng
nguồn ở nƣớc láng giềng, hạ nguồn ở Việt Nam. Điều này
cho thấy Việt Nam không những bị ràng buộc nguồn lợi về
nƣớc của quốc gia thứ hai, thứ ba chia sẻ, mà thƣờng bị
động.
4
Sự cạn kiệt tài nguyên nƣớc ngày càng tăng. Dân số
tăng, chỉ số lƣợng nƣớc trên đầu ngƣời giảm. Mặt khác, nạn
phá rừng ngày một tăng cao để trồng cà phê, phá rừng để
lấy gỗ để lấy gỗ, lấy củi, lấy đất làm nƣơng rẫy,… khó
kiểm soát đã làm nhiều sông, suối khô kiệt về mùa cạn; làm
tăng tốc độ xói mòn đất, tăng tính trầm trọng của lũ lụt về
mùa mƣa. Ô nhiễm nƣớc ngày một trầm trọng do tốc độ đô
thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày một tăng nhanh
trong khi nƣớc thải, rác thải chƣa đƣợc kiểm soát chặt chẽ.
Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón hóa học
ngày một tăng, khó kiểm soát, ô nhiễm nƣớc do nƣớc thải,
chất thải của các ao nuôi thủy sản xả trực tiếp không qua xử
lý vào nguồn nƣớc.
Tình trạng ô nhiễm nƣớc do nƣớc thải sinh hoạt và
nƣớc thải công nghiệp đã trở thành vấn đề quan trọng tại
nhiều thành phố, thị xã, đặc biệt là tại các thành phố lớn
5
nhƣ Hồ Chí Minh, Hải Phong, Hà Nội, vaft ại các khu công
nghiệp. Ô nhiễm nƣớc do hoạt động nông nghiệp cũng là
vấn đề nghiêm trọng tại nhiều vùng nông thôn, đặc biệt tại
châu thổ sông hồng và sông Cửu Long. Hiện tƣợng nhiễm
mặn, hay chua do quá trinhg tự nhiên và do hoạt động của
cong ngƣời đang là vấn đề nghiêm trọng ở vùng châu thổ
sông Cửu Long.
II. Thực trạng tài nguyên nước ở Việt Nam hiện nay
1. Tình hình khai thác và sử dụng nước
Việt Nam là nƣớc Đông Nam Á có chi phí nhiều nhất
cho thủy lợi. Cả nƣớc hiện có 75 hệ thống thủy nông, với
659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3.500 hồ, đập nhỏ, 1.000 cống
tiêu, trên 2.000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10.000 máy bơm
các loại, có khả năng cung cấp 60 - 70 tỷ m3/năm. Tuy
nhiên, nhiều hệ thống thuỷ nông đã xuống cấp nghiêm
trọng, chỉ đáp ứng đƣợc 50 - 60% công suất thiết kế.
6
Lƣợng nƣớc sử dụng hàng năm cho nông nghiệp
khoảng 93 tỷ m3, cho công nghiệp là 17,3 tỷ m3, cho dịch
vụ là 2 tỷ m3, cho sinh hoạt là 3,09 tỷ m3. Dự tính tới năm
2030 dân số cả nƣớc đạt 129 triệu trong đó dân thành phố
lên 60 triệu, kinh tế tăng trƣởng 10 lần, GDP đầu ngƣời
tăng 7 lần, diện tích tƣới tăng 3,4%/năm, chuẩn cấp nƣớc
tăng gấp đôi, 150 lít/ngày/ngƣời, 100% dân đƣợc cấp nƣớc
sạch vào năm 2020. Cơ cấu dùng nƣớc sẽ thay đổi theo xu
hƣớng nông nghiệp 75%, công nghiệp 16%, tiêu dùng 9%.
Nhu cầu nƣớc dùng sẽ tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10
tổng lƣợng nƣớc sông ngòi, 1/3 lƣợng nƣớc nội địa, 1/3
lƣợng dòng chảy ổn định.
Nƣớc ta có trên 700 đô thị từ cấp I đến cấp V, nhu cầu
cấp nƣớc sinh hoạt trong các đô thị ngày càng gia tăng.
Hiện nay, tiêu chuẩn cấp nƣớc đô thị là 150 đến 200l/ngƣời
dân. Trong số gần 2 triệu m3 nƣớc cấp cho dân đô thị mỗi
7
ngày, khoảng 30% lƣợng nƣớc này đƣợc khai thác từ nguồn
đất. Ở nông thôn, vấn đề nƣớc sạch và vệ sinh môi trƣờng
nông thôn đang là vấn đề nan giải do những khó khăn tự
nhiên và kinh tế xã hội của vùng. Có trên 50% hộ dân đang
dùng nƣớc giếng khơi, 25% dùng nƣớc sông suối, trên 10%
dùng nƣớc mƣa. Ƣớc tính, mới có khoảng 30% dân số có
nguồn nƣớc tƣơng đối sạch, trong đó chỉ có khoảng 10%
đạt tiêu chuẩn quốc gia. Cả khu vực nông thôn có khoảng
80% lƣợng nƣớc đƣợc cấp với tiêu chuẩn 50 đến 80l/ngƣời
dân. Tuy nhiên, cả đô thị lẫn khu vực nông thôn nguồn
nƣớc đƣợc cấp chỉ đảm bảo 50 đến 85%. Còn các hộ gia
đình, cơ sở sản xuất phải tự tìm kiếm, khai thác nguồn nƣớc
và tự xử lý để sử dụng. Vì vậy sự tổn thất nƣớc trong các
hoạt động này rất lớn.
Do lƣợng mƣa lớn, địa hình dốc, nƣớc ta là một trong
14 nƣớc có tiềm năng thủy điện lớn. Các nhà máy thủy điện
8
hiện nay sản xuất khoảng 11 tỷ kWh, chiếm 72 đến 75%
sản lƣợng điện cả nƣớc. Với tổng chiều dài các sông và
kênh khoảng 40.000km, đã đƣa vào khai thác vận tải
15.00km, trong đó quản lý trên 8.00km. Những song suối
tự nhiên, thác nƣớc, … đƣợc sử dụng làm điểm tham quan,
du lịch. Những vùng đất ngập nƣớc, nơi quần tụ các loại
động vật hoang dã là những nơi sinh thái lý tƣởng… Về
nuôi trồng thủy hải sản, nƣớc ta có 1 triệu ha mặt nƣớc
ngọt, 400.000 ha mặt nƣớc lợ và 1.470.000 ha mặt nƣớc
sông ngòi, có hơn 14 triệu ha mặt nƣớc nội thủy và lãnh
hải. Tuy nhiên cho đến nay mới sử dụng 12,5% diện tích
mặt nƣớc lợ, nƣớc mặn và 31% diện tích mặt nƣớc ngọt.
2.Tình trạng ô nhiễm nguồn nước
Ở Việt Nam hiện nay, mức tăng dân số nhanh chóng đã
đƣa nƣớc ta vào hàng thứ 12 trong số các quốc gia có số
dân đông của thế giới. Với mức tăng dân nhanh nhƣ thế,
9
mỗi năm nƣớc ta tăng thêm 1,4 triệu ngƣời và dự báo đến
năm 2015 sẽ là 100 triệu ngƣời. Dự báo đến năm 2020 sẽ
có 50% số dân sống ở các vùng đô thị. Dân số tăng, nhu
cầu nƣớc cho mọi hoạt động sinh hoạt và phát triển kinh tế
tăng lên, các nguồn chất thải tăng lên sự ô nhiễm môi
trƣờng nƣớc cũng tăng lên.
Hiện tƣợng suy giảm chất lƣợng nƣớc cũng nhƣ số
lƣợng nguồn nƣớc mặt tăng lên do ô nhiễm từ các chất thải
công nghiệp, nông nghiệp, giao thong vận tải thủy bộ, các
khu dân cƣ, sự xói mòn rửa trôi trên xá bề mặt lƣu vực
sông suối. Đặc biệt là một số khu công nghiệp nhƣ Hải
Phòng, Việt trì, Đà Nẵng, Biên Hòa,… và các thành phố
lớn nhƣ Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh gây ô nhiễm
nguồn nƣớc đang hàng ngày gia tăng. Tại Hà Nội tổng
lƣợng nƣớc thải ngày đêm là 300 – 400 ngàn m3, trong đó
nƣớc thải từ sản xuất công nghiệp là 85-90 ngàn m3, từ sinh
10
hoạt là 1800-2000 m3/ngày đêm. Nhìn chung, các chất thải
đều không qua xử lý nên gây ô nhiễm nặng, chỉ số ôxy sinh
hóa vƣợt quá chỉ tiêu cho phép hàng trăm lần.
Công nghiệp là ngành làm ô nhiễm nƣớc quan trọng,
mỗi ngành có một loại nƣớc thải khác nhau. Khu công
nghiệp Thái Nguyên thải nƣớc biến sông Cầu thành màu
đen, mặt nƣớc sủi bọt trên chiều dài hàng chục km. Khu
công nghiệp Việt Trì xả mỗi ngày hàng ngàn m3 nƣớc thải
của nhà máy hóa chất, thuốc trừ sâu, giấy, dệt xuống sông
Hồng làm cho nƣớc bị ô nhiễm đáng kể. Tại thành phố Hồ
Chí Minh, tình trạng ô nhiễm cũng đang ở mức báo động
do nƣớc thải sinh hoạt, nƣớc thải của các ngành công
nghiệp không qua xử lý hoặc xử lý rất sơ sài đang thải
thẳng vào môi trƣờng. Với lƣợng chất thải khá lớn từ các
nhà máy, xí nghiệp, nƣớc thải công nghiệp chiếm một
lƣợng lớn trong tổng lƣợng nƣớc thải hàng ngày ở thành
11
phố lớn, hơn nữa mức độ gây ô nhiễm của nƣớc thải công
nghiệp cao hơn rất nhiều so với nƣớc thải sinh hoạt do chứa
nhiều hóa chất độc hại và khó phân hủy. Do kinh phí còn
hạn hẹp, điều kiện chƣa cho phép nên hầu hết nƣớc thải của
các cơ sở sản xuất đều không qua khâu xử lý mà thải thẳng
ra hệ thống kênh rạch, sông ngòi gây ô nhiễm trầm trọng
cho các nguồn này. Nƣớc dùng sinh hoạt của dân cƣ ngày
càng tăng nhanh do dân số và các đô thị. Nƣớc cống từ
nƣớc thải sinh hoạt cộng với các cơ sở tiểu thủ công nghiệp
trong dân cƣ là đặc trƣng ô nhiễm của các đô thị nƣớc ta.
Bên cạnh đó, nƣớc ngầm cũng bị ô nhiễm do nƣớc sinh
hoạt hay công nghiệp và nông nghiệp. Việc khai thác tràn
lan nƣớc ngầm làm cho hiện tƣợng nhiễm phèn, nhiễm mặn
xảy ra ở những vùng ven biển sông Hồng, sôngThái Bình,
sông Cửu Long, ven biển miền Trung,…
12
Ở nông thôn thì ý thức bảo vệ môi trƣờng chƣa tốt, việc
xả tác thải sinh hoạt hàng ngày xuống các ao hồ tự nhiên
vẫn còn khá phổ biến, gây ô nhiễm, đe doạ đến chất lƣợng
nguồn nƣớc ngầm do lƣợng nƣớc thải không qua xử lý
thấm xuống các tầng nƣớc ngầm và mất mỹ quan môi
trƣờng sống. Ngoài ra, do không đƣợc đầu tƣ đúng mức
nên hệ thống cống thoát nƣớc chƣa đƣợc xây dựng hoàn
chỉnh, hầu hết các cống không có nắp nên ô nhiễm môi
trƣờng là không thể tránh khỏi. Mỗi gia đình có trung bình
từ 4 – 5 ngƣời; chuồng lợn có từ 2 – 4 con; chuồng trâu, bò
có từ 1 – 2 con; chuồng gà với khoảng 10 – 15 con, 10 – 20
con ngan vịt. Có một đến hai ao nhỏ để thả cá. Phần đất còn
lại để trồng rau và cây ăn quả. Mặt khác, bà con nông dân
sử dụng các chất dung dịch trong nông nghiệp nhƣ phân
bón hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ đã làm tăng ô
nhiễm đất và dƣ lƣợng hóa chất trong nông phẩm. Các kết
13
quả điều tra đều cho biết do không có thiết bị xử lý nƣớc
thải nên các kênh, sông đều tiếp nhận nƣớc thải bị ô nhiễm.
3. Các thách thức đối với tài nguyên nước hiện nay
Trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, sự bùng nổ dân số và
nhu cầu về nƣớc tăng lên đáng kể, sự phục vụ cho sinh hoạt
và sự tăng trƣởng kinh tế trong mấy năm qua đã nhanh
chóng đẩy nƣớc ta từ vị trí các cƣờng quốc về tài nguyên
nƣớc xuống vị trí của một nƣớc có mức bình quân đầu
ngƣời về nƣớc thuộc loại trung bình trên thế giới. Số dân
nhập cƣ vào các đô thị là các tác nhân gây ô nhiễm nguồn
nƣớc khi các đô thị xây dựng hai bên bờ sông mà không có
các dịch vụ thoát nƣớc và vệ sinh. Các khu nhà xây dựng
tạm, không quy hoạch và sự lấn chiếm sông hồ sẽ cản trở
thoát nƣớc, làm nghiêm trọng hơn vấn đề úng ngập. Nhiều
thủy vực sẽ trở thành bể chứa nƣớc thải sinh hoạt và công
nghiệp.
14
Khủng hoảng cục bộ về nƣớc trong một số năm có hạn
hán ở một số khu vực của nƣớc ta vừa qua có thể trở thành
khủng hoảng về nƣớc trên quy mô lớn và thƣờng xuyên.
Các vấn đề nhƣ ô nhiễm nƣớc thải, chất thải rắn, ngập lụt,
tắc nghẽn giao thông … phổ biến ở các trung tâm đô thị
lớn.
Sự khai thác thiếu khoa học các nguồn nƣớc, sử dụng
bừa bãi các loại phân hóa học, chất diệt cỏ trong nông
nghiệp và do việc thải hàng tỉ mét khối nƣớc thải và rác
thải công nghiệp và sinh hoạt vào nguồn nƣớc mà không
qua xử lý tối thiểu.
III. Các biện pháp đề xuất bảo vệ nguồn tài nguyên
nước
1. Kiểm soát chất ô nhiễm trong nước thải
Một trong những việc làm đầu tiên để bảo vệ chất
lƣợng nƣớc là loại bỏ những thành phần gây ô nhiễm có
15
trong nƣớc thải trƣớc khi xả ra sông hồ, đó là xử lý nƣớc
thải. Trong nƣớc thải có chứa các vật chất gây nhiễm bẩn
hữu cơ và vô cơ, xử lý nƣớc thải là làm giảm nồng độ các
vật chất hữu cơ gây ô nhiễm vào đất nƣớc. Để hạn chế
lƣợng chất thải xả ra sông, hồ Nhà nƣớc cần có các chính
sách cụ thể hơn về việc quy định lƣợng chất thải và quấ
trình xử lý nƣớc thải trong các nhà máy, công xƣởng. Các
quy định về tiêu chuẩn sử dụng nguồn nƣớc mặt, đánh giá
chất lƣợng nƣớc. Đề ra các văn bản, giấy phép xả thải để
tránh việc thải khối khối lƣợng chất thải quá lớn ra môi
trƣờng. Đồng thời bố trí các hố thu gom nƣớc xử lý cặn và
bùn lắng để không gây hiện tƣợng bồi lắng vùng nƣớc
sông. Xây dựng các công trình xử lý nƣớc thải nhƣ: bể tự
hoại kiểu thấm, quy định bãi rác trung chuyển tạm thời
tránh phóng uế, vứt rác sinh hoạt bừa bãi gây ô nhiễm môi
trƣờng do các hoạt động sản xuất và tiêu dùng gây ra. Và
16
để bảo vệ nguồn nƣớc mặt có hiệu quả, các chỉ tiêu đánh
giá tình trạng vệ sinh nƣớc thải phải đƣợc kiểm tra chặt chẽ
theo tiêu chuẩn.
Trong ngành xây dựng, cần lựa chọn thời điểm thi công
xây dựng chính vào các tháng mùa khô trong năm để hạn
chế lƣợng chất bẩn sinh ra do nƣớc mƣa chảy tràn qua khu
vực thi công xuống nƣớc sông hồ. Phải có hệ thống thoát
nƣớc đảm bảo có lắng cặn và giữ lại các chất thải trong quá
trình xây dựng nhƣ rác, vật liệu xây dựng trƣớc khi chảy ra
ngoài. Trong ngành Nông nghiệp, chất lƣợng các loại phân
bón, thƣốc trừ sâu, thƣớc trừ cỏ … phải đạt đúng tiêu chuẩn
mà nhà nƣớc quy định và việc sử dụng phải phù hợp.
2. Tổ chức giám sát chất lượng nước nguồn
Giám sát chất lƣợng nƣớc các khu vực để đánh giá
chất lƣợng nƣớc, dự báo mức độ ô nhiễm nguồn nƣớc. Đó
là cơ sở để xây dựng các biện pháp bảo vệ có hiệu quả. Cần
17
đánh giá các tác động do hoạt động của con ngƣời đối với
nguồn nƣớc và khả năng sử dụng nƣớc vào các mục đích
khác nhau; Xác định chất lƣợng nƣớc tự nhiên; Giám sát
nguồn gốc và đƣờng di chuyển của các chất bẩn và chất
độc hại đi vào nguồn nƣớc; Xác định xu hƣớng thay đổi
chất lƣợng ở phạm vi vĩ mô. Đồng thời, phải tổ chức hệ
thống giám sát ở từng cơ sở, ở từng khu vực. Trạm đánh
giá xu hƣớng thay đổi chất lƣợng nƣớc có quy mô lớn ở
từng khu vực.
3. Phân phối nước hợp lý
Việc phân phối và cấp nƣớc phải cố gắng đáp ứng nhu
cầu với giá cả rẻ, không để xảy ra vấn đề cạnh tranh và mâu
thuẫn trong sử dụng tài nguyên nƣớc. Để làm đƣợc nhƣ
vậy, cần phải sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn nƣớc
đƣợc cấp, phải có chiến lƣợc kết hợp chặt chẽ giữa quản lý
nhu cầu và sử dụng có hiệu quả hơn nguồn nƣớc hiện đƣợc
18
cấp với việc tăng nguồn nƣớc cấp mới với chi phí thấp. Áp
dụng các công nghệ sử dụng nƣớc tiên tiến, sử dụng luân
hoàn nƣớc trong các xí nghiệp công nghiệp, xử lý nƣớc thải
và sử dụng lại nƣớc thải đã xử lý, áp dụng công nghệ giảm
đơn vị nƣớc dùng cho công nghiệp, nông nghiệp, kết hợp
nƣớc mặt và nƣớc ngầm, định giá thích hợp cho cấp nƣớc
và mức nhiễm bẩn cho phép đối với nƣớc thải, bao gồm
việc tăng tỷ suất khối và tỷ suất thành phần trong thời kỳ
khô hạn. Các ngành sản xuất phải có công nghệ xử lý nƣớc
thải để quay lại sử dụng tái sản xuất, tiết kiệm trong việc sử
dụng nƣớc sạch. Ngƣời tiêu dùng dùng nƣớc đúng vào mục
đích, không nên lãng phí.
4. Một số biện pháp khác
Thực hiện có hiệu quả các kế hoạch, chƣơng trình, dự
án. Xác định mối quan hệ giữa tƣới và sản xuất nông
nghiệp cho từng tiểu vùng, từng hộ nông nghiệp. Cung cấp
19
đủ kinh phí cho khâu vận hành, bảo dƣỡng, duy trì các
công trình, nhất là trong việc liên kết giữa sử dụng nƣớc và
đất trong việc quản lý các lƣu vực, các hệ thông tƣới. Đánh
giá tác động của các dự án lên môi trƣờng, đề xuất các biện
pháp khắc phục ngay trong quá trình lập kế hoạch thiết kế
và thực hiện cân đối giữa các mục tiêu kinh tế kinh tế xã
hội và bảo vệ môt trƣờng.
Bảo đảm năng lƣợng thủy điện, bảo vệ đất, phòng ngừa
hóa lầy và hóa mặn trong các hệ thống tƣới. Hạn chế và
giảm thiểu suy thoái tài nguyên nƣớc do biến đổi khí hậu
toàn cầu, giảm nhẹ khí nhà kính theo kế hoạch hành động
quốc gia. Hạn chế và giảm thiểu suy thoái tài nguyên nƣớc
do phát triển, sử dụng tài nguyên nƣớc không hợp lý.
Cải thiện, nâng cấp và mở rộng các hệ thống thoát lũ,
tiêu úng. Nâng cấp các hệ thống cũ; quy hoạch, xây dựng
bở dung hệ thống mới, độc lập với tƣới nƣớc, cấp nƣớc và
20
- Xem thêm -