Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn th...

Tài liệu Thực trạng và một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn thành phố thái nguyên

.PDF
190
428
88

Mô tả:

1 Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Thực trạng và một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn thành phố Thái Nguyên 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việc làm có vị trí hết sức quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của mỗi người, mỗi gia đình, cũng như trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Giải quyết việc làm là vấn đề mang tính toàn cầu, là một thách thức còn khá lâu dài với toàn thể nhân loại. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, nơi nguồn lao động còn rất dồi dào và chủ yếu tập trung ở các vùng nông thôn thì tạo việc làm cho người lao động ở đó bao giờ cũng là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong những năm qua, chuyển dịch cơ cấu lao động của tỉnh Thái Nguyên còn chậm so với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Lao động nông nghiệp tuy có giảm qua các năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn, năm 2006 chiếm 67,5% tổng số lao động làm việc. Lao động dịch vụ tăng nhanh nhất trong giai đoạn 2004 – 2006 bình quân 8,7%/năm, năm 2006 chiếm gần 19% tổng số lao động làm việc của tỉnh. Lao động công nghiệp, xây dựng tăng trên 8%/năm trong cùng giai đoạn nhưng đến nay cũng chỉ chiếm trên 13,5% tổng số lao động làm việc. Lao động nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng số lao động làm việc của tỉnh, năm 2006 chiếm 78,64%. Thời gian lao động ở nông thôn tuy có tăng trong những năm gần đây nhưng cũng chưa cao, năm 2005 đạt 78% và năm 2006 đạt xấp xỉ 79%. Ở thành phố Thái Nguyên, hiện nay lao động có 135 nghìn người, trong đó lao động nông thôn có 34.347 người chiếm 25,44% tổng số lao động toàn thành phố. Hàng năm, khu vực này bổ sung khoảng từ 1.400 - 1.600 lao động. Hơn nữa, đặc điểm kinh tế - xã hội cũng như điều kiện tự nhiên ở mỗi địa 3 phương là khác nhau. Do vậy, không phải cứ ở nông thôn thì người lao động tham gia vào hoạt động kinh tế nông lâm ngư nghiệp. Nông nghiệp là một thế mạnh nhưng sản xuất ở ngành này mang tính thời vụ nên nhiều lao động ở ngành này vẫn có nhiều thời gian rảnh rỗi, bên cạnh đó quá trình đô thị hóa của thành phố đang ngày một phát triển và mở rộng, nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp được xây dựng do vậy một phần diện tích đất nông nghiệp phải chuyển đổi mục đích sử dụng dẫn tới diện tích đất canh tác ngày càng giảm trong khi đó dân số nông thôn ngày một tăng. Điều đó cho chúng ta thấy tình trạng thiếu việc làm cho người lao động nông thôn đang ngày một gia tăng và thời gian sử dụng của người lao động ở khu vực nông thôn chưa cao và chưa hợp lý, do đó chưa phát huy được khả năng sẵn có. Vì vậy, một trong những mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên đến năm 2010: Giải quyết việc làm, nâng mức sống cho người lao động nông thôn. Muốn vậy, phải phấn đấu đến năm 2010: giảm tỷ lệ sinh hàng năm xuống 0,01%, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 5%, nâng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 85%. Chú trọng nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đào tạo nghề cho nông dân, hỗ trợ vay vốn phát triển kinh tế tạo việc làm cho người lao động nông thôn và hướng dẫn tư vấn giới thiệu xuất khẩu lao động. Để đạt được mục tiêu trên, trước hết chúng ta cần tìm hiểu và làm rõ vấn đề về thực trạng việc làm của người lao động nông thôn ở thành phố Thái Nguyên trong thời gian qua, từ năm 2004 đến năm 2006 đồng thời chỉ ra những thách thức, hạn chế cũng như khả năng tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới. Xuất phát từ tình hình thực tế và nhằm giúp cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội thành phố nói chung 4 và khu vực nông thôn của thành phố Thái Nguyên nói riêng ngày càng hiệu quả và hoàn thành kế hoạch đề ra, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn thành phố Thái Nguyên”. 2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục tiêu chung Mục tiêu bao trùm của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng về việc làm của người lao động nông thôn thành phố Thái Nguyên, để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn, góp phần cùng thành phố Thái Nguyên thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2.2. Mục tiêu cụ thể - Góp phần hệ thống hóa về cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề lao động – việc làm. - Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm của người lao động nông thôn ảnh hưởng tới đời sống và tình hình sản xuất phát triển kinh tế nông thôn trên địa bàn thành phố Thái Nguyên. - Đề ra định hướng và một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn trên địa bàn thành phố Thái Nguyên, đáp ứng được yêu cầu tình hình thực tế mà thành phố đã đề ra. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tƣợng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các vấn đề về lao động – việc làm của người lao động nông thôn, các hộ, cộng đồng và các vùng nông thôn ở thành phố Thái Nguyên. 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài bao gồm: Nội dung vấn đề liên quan đến việc làm và tạo việc làm cho người lao động nông thôn ở thành phố Thái Nguyên trong khoảng thời gian từ năm 2004 – 2006. Nội dung nghiên cứu về việc làm là vấn đề rất rộng, vì vậy luận văn chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề chủ yếu về thực trạng việc làm của người lao động nông thôn ở thành phố Thái Nguyên ảnh hưởng tới đời sống và phát triển sản xuất nông thôn, để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tạo việc làm cho người lao động nông thôn trên địa bàn thành phố Thái Nguyên từ nay đến năm 2010. 4. Những đóng góp của luận văn Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là tài liệu giúp cho thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo công ăn việc làm cho người lao động nông thôn, nâng cao mức sống cho người dân, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo tỉnh Thái Nguyên đến năm 2010 có cơ sở khoa học. Luận văn nghiên cứu và phản ánh khá toàn diện về việc làm, tạo việc làm cho người lao động nông thôn và tình hình phát triển sản xuất nông thôn để tạo việc làm ở thành phố Thái Nguyên. Các giải pháp đưa ra có ý nghĩa thiết thực đối với tạo việc làm cho người lao động nông thôn cũng như đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội chung của thành phố Thái Nguyên và các địa phương có điều kiện tương tự. 5. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 3 phần chính: Chương I: Cơ sở khoa học và phương pháp nghiên cứu về việc làm cho người lao động. 6 Chương II: Thực trạng việc làm của người lao động nông thôn thành phố Thái Nguyên. Chương III: Định hướng và một số giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông thôn thành phố Thái Nguyên. Chƣơng I: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ VIỆC LÀM CHO NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1.1. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu việc làm cho ngƣời lao động 1.1.1. Việc làm và các vấn đề liên quan đến việc làm 1.1.1.1. Việc làm Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Như vậy, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Song, con người chỉ trở thành động lực cho sự phát triển khi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập của họ không bị cấm và được thừa nhận là việc làm. Có nhiều quan niệm về việc làm: - “Việc làm là cơ sở vật chất để huy động nguồn nhân lực vào hoạt động sản xuất trong nền kinh tế quốc dân”[5]. - “Việc làm là trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tức là những điều kiện cần thiết để sử dụng sức lao động đó”[5]. Cho dù có nhiều quan niệm về việc làm, song việc làm là dành cho con người và do con người thực hiện nó với các điều kiện vật chất, kỹ thuật tương ứng hay đó chính là nhu cầu sử dụng sức lao động của con người. 7 Theo Bộ Luật lao động và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động năm 2006 thì: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm. Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội” [15]. Trong đó các hoạt động được xác định là việc làm bao gồm: - Các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền mặt hoặc hiện vật. - Những công việc tự làm để tạo thu nhập cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia đình mình nhưng không được trả công (bằng tiền mặt hoặc hiện vật) cho công việc đó. Việc làm được phân loại theo các mức độ sau: - Phân loại việc làm dựa theo mức độ đầu tư thời gian cho việc làm: + Việc làm chính là công việc mà người thực hiện dành nhiều thời gian nhất hoặc có thu nhập cao hơn so với công việc khác. + Việc làm phụ là những việc làm mà người lao động dành nhiều thời gian nhất sau việc làm chính. - Phân loại việc làm dựa theo mức độ sử dụng thời gian lao động, năng suất và thu nhập. + Việc làm đầy đủ là sự thoả mãn nhu cầu về việc làm cho bất kỳ ai có khả năng lao động trong nền kinh tế quốc dân. Việc làm đầy đủ căn cứ trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ sử dụng thời gian lao động, mức năng suất và thu nhập. Một việc làm đầy đủ đòi hỏi người lao động làm việc theo chế độ (độ dài thời gian lao động ở Việt Nam hiện nay là 8 giờ/ngày) [15]. + Việc làm có hiệu quả là việc làm với năng suất, chất lượng cao. Đối với tầm vĩ mô việc làm có hiệu quả còn là vấn đề sử dụng hợp lý nguồn lao động, 8 tức là tiết kiệm được chi phí lao động, tăng năng suất lao động, bảo đảm chất lượng của các sản phẩm làm ra và tạo ra nhiều chỗ làm việc để sử dụng hết nguồn nhân lực. 1.1.1.2. Thiếu việc làm Khi nguồn lao động được huy động, sử dụng không hiệu quả thì tình trạng thiếu việc làm sẽ xảy ra, dẫn đến thu nhập người lao động thấp, giảm mức sống con người. Đồng thời đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những tệ nạn xã hội, thậm chí tạo ra các xung đột rối loạn về mặt an ninh chính trị… Chính vì vậy, vấn đề tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống, xoá đói giảm nghèo trở lên có ý nghĩa to lớn, được quan tâm trong các mô hình phát triển hiện nay ở mọi quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Thiếu việc làm là trạng thái trung gian giữa việc làm đầy đủ và thất nghiệp. Đó là tình trạng có việc làm nhưng do nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn của người lao động. Họ phải làm việc nhưng không sử dụng hết thời gian theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống khiến họ muốn tìm thêm việc làm bổ sung. Như vậy, thiếu việc làm được hiểu là trạng thái việc làm không tạo điều kiện cho người tiến hành nó sử dụng hết thời gian quy định và mang lại thu nhập thấp hơn mức tiền lương tối thiểu. Thiếu việc làm được thể hiện dưới hai dạng: Thiếu việc làm vô hình và thiếu việc làm hữu hình. - Thiếu việc làm vô hình là trạng thái những người có đủ việc làm, làm đủ thời gian, thậm chí nhiều thời gian hơn mức bình thường nhưng thu nhập thấp. Có thể nói, nguyên nhân của tình trạng này do dân số không ngừng tăng trong khi diện tích đất canh tác có nguy cơ thu hẹp làm dư thừa lao động. Số người 9 lao động trên một đơn vị diện tích tăng có nghĩa là thời gian sử dụng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm giảm. Trên thực tế, họ vẫn làm việc nhưng sử dụng rất ít thời gian trong sản xuất do vậy thời gian nhàn rỗi nhiều. - Thiếu việc làm hữu hình chỉ hiện tượng lao động làm việc thời gian ít hơn thường lệ, họ không đủ việc làm, đang tìm kiếm thêm việc làm và sẵn sàng làm việc. 1.1.1.3. Thất nghiệp Gắn với khái niệm việc làm là khái niệm thất nghiệp. Trong bất kỳ nền kinh tế nào dù có sử dụng lao động đến mức tốt nhất thì xã hội vẫn tồn tại thất nghiệp. Thất nghiệp là hiện tượng mà người lao động trong độ tuổi lao động có khả năng lao động muốn làm việc nhưng lại chưa có việc làm và đang tích cực tìm việc làm. Căn cứ vào những tiêu thức khác nhau, thất nghiệp được chia thành các loại như sau: - Xét về nguồn gốc thất nghiệp, có thể chia thành: + Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra do thay đổi việc làm hoặc do cung cầu lao động không phù hợp. + Thất nghiệp cơ cấu: Xuất hiện do không có sự đồng bộ giữa tay nghề và cơ hội có việc làm khi động thái của nhu cầu và sản xuất thay đổi. + Thất nghiệp do thời vụ: Xuất hiện như là kết quả của những biến động thời vụ trong các cơ hội lao động. + Thất nghiệp chu kỳ: Là loại thất nghiệp xảy ra do giảm sút giá trị tổng sản lượng của nền kinh tế. Trong giai đoạn suy thoái của chu kỳ kinh doanh, tổng giá trị sản xuất giảm dần dẫn tới hầu hết các nhà sản xuất giảm lượng cầu đối với các yếu tố đầu vào, trong đó có lao động. Đối với loại thất nghiệp này, 10 những chính sách nhằm khuyến khích để tăng tổng cầu thường mang lại kết quả tích cực. - Xét về tính chủ động của người lao động, thất nghiệp bao gồm: + Thất nghiệp tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động bỏ việc để tìm công việc khác tốt hơn hoặc chưa tìm được việc làm phù hợp với nguyện vọng. + Thất nghiệp không tự nguyện là loại thất nghiệp xảy ra khi người lao động chấp nhận làm việc ở mức tiền lương, tiền công phổ biến nhưng vẫn không tìm được việc làm. - Ở các nước đang phát triển, người ta chia thất nghiệp thành thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp vô hình. + Thất nghiệp hữu hình xảy ra khi người có sức lao động muốn tìm kiếm việc làm nhưng không tìm được trên thị trường. + Thất nghiệp vô hình hay còn gọi là thất nghiệp trá hình là biểu hiện chính của tình trạng chưa sử dụng hết lao động ở các nước đang phát triển. Họ là những người có việc làm trong khu vực nông thôn hoặc thành thị không chính thức nhưng việc làm đó có năng suất thấp, những người này đóng góp rất ít hoặc không đáng kể vào phát triển sản xuất. 1.1.1.4. Tạo việc làm Có thể hiểu tạo việc làm cho người lao động là đưa người lao động vào làm việc để tạo ra trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu thị trường. Quá trình kết hợp sức lao động và điều kiện để sản xuất là quá trình người lao động làm việc. Người lao động làm việc không chỉ tạo ra thu nhập cho riêng họ mà còn tạo ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội. Vì vậy, tạo việc làm 11 không chỉ là nhu cầu chủ quan của người lao động mà còn là yếu tố khách quan của xã hội. Việc hình thành việc làm thường là sự tác động đồng thời giữa ba yếu tố: - Nhu cầu thị trường - Điều kiện cần thiết để sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ: + Người lao động (sức lực và trí lực) + Công cụ sản xuất + Đối tượng lao động - Môi trường xã hội: xét cả góc độ kinh tế, chính trị, pháp luật, xã hội. Người ta có thể mô hình hoá quy mô tạo việc làm theo phương trình sau: Y = f (C,V,X,…) Trong đó: Y: Số lượng việc làm được tạo ra C: Vốn đầu tư V: Sức lao động X: Thị trường tiêu thụ sản phẩm… Trong đó, quan trọng nhất là các yếu tố đầu tư (C) và sức lao động (V). Hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất. Mối quan hệ giữa C và V phụ thuộc vào tình trạng công nghệ và tồn tại dưới dạng khả năng [5]. Để chuyển hoá khả năng đó thành hiện thực đòi hỏi những điều kiện nhất định. Đó là những điều kiện kinh tế, xã hội, thông qua hệ thống các chính sách của Nhà nước như chính sách thu hút người lao động, qua việc phát triển các ngành nghề, chính sách vay vốn… 1.1.1.5. Việc làm mới Việc làm mới cũng là những việc làm được pháp luật cho phép, đem lại thu nhập cho người lao động, nó được tạo ra theo nhu cầu của thị trường để sản xuất và cung ứng một loại hàng hoá dịch vụ nào đó cho xã hội. Sự xuất hiện 12 những việc làm mới là một yếu tố khách quan do hàng năm lực lượng lao động được bổ sung thêm cùng với tiến trình phát triển của dân số. Khái niệm việc làm thường gắn với chỗ làm việc bởi vì mỗi công việc cụ thể phải có môi trường làm việc nhất định. Như thế việc làm tạo ra những chỗ làm việc mới cũng hàm ý với việc tạo ra việc làm mới. Việc làm mới bao gồm những công việc đòi hỏi kỹ năng và những việc làm được tạo thêm cho người lao động. Đối với những công việc mới này cần phải có sự thay đổi kỹ năng lao động thông qua đào tạo, còn đối với những việc làm được tạo thêm (tăng lượng cầu lao động) đồng nghĩa với việc tạo thêm những chỗ làm việc mà không yêu cầu phải thay đổi kỹ năng của người lao động. Như vậy, việc làm mới là phạm trù nói lên sự tăng lượng cầu về lao động, nó được thể hiện dưới hai dạng: Những việc làm đòi hỏi kỹ năng lao động mới và những chỗ làm việc mới được tạo thêm, song không đòi hỏi sự thay đổi về kỹ năng của người lao động. Việc làm mới được tạo ra bằng nhiều cách: Tăng chi tiêu của Chính phủ cho các chương trình phát triển kinh tế – xã hội (tăng cầu lao động), giảm thuế để khuyến khích phát triển sản xuất từ đó tạo ra những việc làm mới. Đối với người lao động, để tham gia được những việc làm mới phải không ngừng đào tạo nâng cao trình độ lao động của mình. 1.1.2. Sự cần thiết phải tạo việc làm cho ngƣời lao động Việc làm, thất nghiệp là một trong những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu, là mối quan tâm của hầu hết các quốc gia. Bởi vậy, đấu tranh chống thất nghiệp và đảm bảo việc làm (có thu nhập) cho người lao động là thách thức lớn của nhân loại nói chung và của mỗi quốc gia nói riêng. Để tạo việc làm và tự tạo việc làm không chỉ Đảng và Nhà nước mà bản thân người lao động phải thấy được sự cần thiết của tạo việc làm. 13 1.1.2.1. Con người là mục tiêu, là động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội và là yếu tố tạo ra lợi ích kinh tế – xã hội Để thấy rõ vai trò của con người, Mác-Lênin đã nêu rõ: “Con người là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của xã hội. Con người với sức lao động, chất lượng, khả năng, năng lực, với sự tham gia tích cực vào quá trình lao động, là yếu tố quyết định tốc độ phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và xã hội”[4]. Ngày nay, để tồn tại và phát triển bản thân mỗi người không ngừng nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, những kỹ năng cần thiết không thể thiếu được của người lao động. Xuất phát từ vai trò to lớn của con người trong lực lượng sản xuất cũng như trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy “Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng” [11]. Chủ nghĩa Mác-Lênin coi con người là tổng thể các mối quan hệ xã hội, nghĩa là: - Cần phải coi trọng con người như người lao động tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. - Coi con người là nhà sáng tạo ra những ý tưởng mới, giải pháp mới. - Con người cần được thoả mãn các nhu cầu về vật chất, tinh thần và xã hội. Thực chất quan điểm này muốn chỉ ra, chính sách kinh tế – xã hội phải đảm bảo mức sống cao cho dân tộc, lối sống lành mạnh của sự phát triển toàn diện con người. Mục tiêu của công cuộc đổi mới cũng là tạo ra ngày một tốt hơn điều kiện về vật chất, văn hoá tinh thần cho cuộc sống con người. Một xã 14 hội văn minh phát triển khi mỗi cá nhân, mỗi gia đình văn minh hơn, ấm no và hạnh phúc hơn. 1.1.2.2. Việc làm đối với người lao động là nhu cầu để tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan của người lao động Con người muốn tồn tại và phát triển họ phải tiêu tốn một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định. Để có những thứ đó con người phải sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Quá trình sản xuất tạo ra hàng hoá, dịch vụ đó là việc làm. Như vậy, muốn tăng tổng sản phẩm xã hội, một mặt phải huy động triệt để mọi người có khả năng lao động tham gia vào nền sản xuất xã hội tức là mỗi người phải có việc làm đầy đủ. Mặt khác, phải nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, nhằm khai thác triệt để tiềm năng của mỗi người nhằm đạt được việc làm hợp lý và việc làm hiệu quả. Tạo việc làm đầy đủ cho người lao động không những tạo điều kiện để người lao động tăng thu nhập, nâng cao đời sống mà còn làm giảm các tệ nạn xã hội, làm cho xã hội văn minh hơn. Khi nghiên cứu lý thuyết về sự phát triển, mọi người đều nhận thức rằng: Một trong những vấn đề cơ bản nhất trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn lực, coi đó là đỉnh cao nhất, là mục tiêu cuối cùng của mọi quá trình phát triển. Điều này hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với nhận thức mới về phát triển con người. Con người ở đây được xem xét trên hai khía cạnh thống nhất với nhau hay nói cách khác nó là hai mặt của một vấn đề được thống nhất trong mỗi con người. - Con người với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi của cải vật chất và tinh thần. Như vậy, để tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao động của mình, 15 là yếu tố của quá trình sản xuất, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất, tạo ra giá trị hàng hoá và dịch vụ. - Con người cần phải sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất thông qua quá trình phân phối và tái phân phối. Từ lý luận và thực tiễn cũng đã chứng minh, có 3 yếu tố cơ bản nhất để phát triển con người là đảm bảo an toàn lương thực, an toàn việc làm và an toàn môi trường. Trong quá trình phát triển, con người vừa là đối tượng hưởng thụ, mặt khác lại là người cung cấp đầu vào quan trọng cho quá trình biến đổi sản xuất. Hoạt động lao động ra đời cùng với sự hình thành và phát triển của loài người, đó là một hoạt động thuộc về bản năng sinh tồn, con người chỉ có thể tồn tại, phát triển và hoàn thiện không ngừng thông qua lao động sản xuất. Do vậy, nhu cầu có việc làm là nhu cầu để con người tồn tại và phát triển, là yếu tố khách quan và chính đáng của người lao động. 1.1.2.3. Việc làm là yêu cầu khách quan của xã hội Lịch sử phát triển sản xuất loài người cho thấy, bất cứ một quốc gia nào, đều có nhu cầu sử dụng hợp lý nguồn lao động của mình, để khai thác tài nguyên thiên nhiên, phát triển kinh tế của đất nước. Người lao động là một nguồn lực quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản để phát triển. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn trong lĩnh vực kinh tế phải tập trung phát huy cao độ khả năng của nguồn lực quan trọng đó. Nếu có những sai phạm về chủ trương, chính sách và biện pháp thì nguồn lao động rất có thể trở thành gánh nặng, thậm chí gây trở ngại, tổn thất cho nền kinh tế. 16 1.1.3. Các nhân tố ảnh hƣởng tới việc làm của ngƣời lao động nông thôn 1.1.3.1. Tư liệu sản xuất Tư liệu sản xuất trong sản xuất nông nghiệp là đất đai, vốn, máy móc, kết cấu hạ tầng kỹ thuật, nguồn lực con người, nguồn lực sinh học và các phương tiện hoá học. Trong đó, yếu tố vốn, đất đai, yếu tố sức lao động, công nghệ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới tạo việc làm. Đất đai là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. Nó tham gia vào mọi quá trình sản xuất của xã hội nhưng tuỳ thuộc vào từng ngành cụ thể mà vai trò của đất đai có sự khác nhau. Trong nông nghiệp, ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu chủ yếu không thể thiếu, không thể thay thế được. Bởi vì, đất đai trong nông nghiệp có đặc điểm: Ruộng đất bị giới hạn về mặt không gian nhưng sức sản xuất là vô hạn. Mỗi quốc gia có giới hạn diện tích đất khác nhau và tỷ lệ ruộng đất trong nông nghiệp ở mỗi quốc gia lại càng khác biệt nhau vì nó còn tuỳ thuộc vào điều kiện đất đai, địa hình và trình độ phát triển kỹ thuật của từng nước. Với nước ta, mặc dù đất chật người đông nhưng tỷ lệ đất nông nghiệp chiếm khá lớn là 9.345,4 nghìn ha chiếm 29,4% tổng diện tích đất cả nước; đất lâm nghiệp có rừng là 11.575,4 nghìn ha chiếm 35,15% tổng diện tích đất cả nước so với diện tích đất ở chỉ chiếm 1,34%. Tuy nhiên đất chưa sử dụng (có cả sông ngòi) vẫn còn 1.027,3 nghìn ha chiếm 30,4%. Diện tích đất lớn cho phép khai thác theo cả chiều sâu và chiều rộng để mỗi đơn vị diện tích đất ngày càng đáp ứng nhiều sản phẩm theo yêu cầu của con người và thị trường thế giới. Chính việc sử dụng đất hợp lý kết hợp với sử dụng nguồn lực con người sẽ tạo ra sự hài hoà cho 17 việc giải quyết việc làm cho người lao động với việc tăng sản lượng nông, lâm, ngư nghiệp. Ruộng đất có vị trí cố định và chất lượng không đồng đều, nó khác tư liệu sản xuất khác là không bị hao mòn, không bị đào thải khỏi quá trình sản xuất nếu sử dụng hợp lý. Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa to lớn trong sản xuất nông nghiệp. Mỗi một vùng có vị trí địa lý khác nhau. Do vậy, để có việc làm cho người lao động nông thôn thì Đảng và Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích họ đồng thời đưa ra những giải pháp tăng sức sản xuất của ruộng đất, làm tăng số lần quay vòng của đất. Như vậy, ruộng đất có ý nghĩa rất lớn trong sản xuất nông nghiệp. Yếu tố vốn và sức lao động là hai yếu tố quan trọng nhất của quá trình tạo việc làm, hai yếu tố này hợp thành năng lực sản xuất, sức lao động là khả năng trí lực, thể lực của con người. Đó là tri thức, sức khoẻ, kỹ năng, kinh nghiệm, truyền thống, bí quyết công nghệ… Theo C.Mác “Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất hay tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong mỗi con người đang sống và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó” [5]. Nói đến sức lao động ta phải nói đến số lượng và chất lượng lao động. Nếu một người lao động có sức khoẻ tốt, có đầu óc suy nghĩ thông minh, sáng tạo thì hẳn công việc mà họ được giao sẽ được hoàn thành tốt, sản phẩm mà họ tạo ra đảm bảo yêu cầu chất lượng. 18 Để tạo việc làm cho người lao động thì sức lao động là yếu tố quan trọng nhất. Mỗi công việc được thực hiện khi có con người và con người đó chỉ làm việc được khi có đủ sức lao động. Ở nông thôn, thể lực của người lao động kém hơn so với người lao động của thành thị, kiến thức chuyên môn cũng như xã hội đều thấp do thu nhập chưa cao, việc tiếp cận thông tin kinh tế – khoa học xã hội chậm. Điều đó ảnh hưởng lớn đến việc làm của chính họ. Chính vì vậy, tạo việc làm cho người lao động nông thôn cần phải cân nhắc tính toán kỹ nếu không sẽ gây tổn thất nặng nề và để tạo việc làm có hiệu quả cần thiết phải bồi dưỡng kiến thức cho họ. Vốn trong sản xuất nông nghiệp là biểu hiện bằng tiền của tư liệu lao động và đối tượng lao động được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Vốn sản xuất nông nghiệp mang đặc điểm sau: Căn cứ vào đặc điểm của tài sản có thể chia thành vốn cố định và vốn lưu động. Do chu kỳ sản xuất dài và có tính thời vụ trong nông nghiệp nên một mặt làm cho sự tuần hoàn và luân chuyển của vốn chậm chạp, kéo dài thời gian lưu thông trong thời gian tương đối dài và làm cho vốn ứ đọng. Mặt khác, sự cần thiết và có khả năng tập trung hoá về phương tiện kỹ thuật trên một lao động nông thôn so với nông nghiệp là cao hơn. Sản xuất nông nghiệp còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên việc sử dụng vốn gặp nhiểu rủi ro, làm tổn thất hoặc giảm hiệu quả sử dụng vốn. Một bộ phận sản phẩm nông nghiệp không qua lĩnh vực lưu thông mà được chuyển trực tiếp làm tư liệu sản xuất cho bản thân ngành nông nghiệp. Do vậy, một phận vốn được thực hiện ở ngoài thị trường và được tiêu dùng trong nội bộ nông nghiệp khi vốn lưu động được khôi phục trong hình thái hiện vật. 19 Đối với người nông dân, đặc biệt là những người dân nghèo thì vốn là yếu tố quan trọng và cần thiết để tiến hành sản xuất. Để tạo việc làm cho người lao động, nguồn vốn được huy động chủ yếu từ trợ cấp, từ các quỹ, các tổ chức tín dụng. Khi số lượng việc làm được tạo ra nhưng nó có được chấp thuận hay không còn tuỳ thuộc vào thị trường tiêu thụ. Bởi vì, nếu sản phẩm sản xuất ra mà không được thị trường chấp nhận thì quy mô lớn đến đâu, máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu thì đơn vị sản xuất cũng không thể tồn tại. Do đó, khi tạo việc làm cho người lao động cần phải biết cung – cầu lao động trên thị trường, số người thiếu việc làm, số người không có việc làm để tạo việc làm cho người lao động vừa đủ. Ngoài các yếu tố đất đai, vốn, sức lao động, thị trường lao động, còn có yếu tố quan trọng nữa đó là hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật: hệ thống thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, điện, thông tin liên lạc, cơ sở chế biến… Hệ thống này là yếu tố gián tiếp góp phần tạo ra việc làm và nâng cao hiệu quả việc làm. Việc phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở các cộng đồng dân cư sẽ tạo khả năng thu hút nhiều lao động trực tiếp và gián tiếp tạo môi trường phát triển việc làm trong từng cộng đồng. 1.1.3.2. Nhân tố dân số Dân số là yếu tố chủ yếu của quá trình phát triển, dân số vừa là chủ thể vừa là khách thể của xã hội, vừa là người sản xuất, vừa là người tiêu dùng. Vì vậy, quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế – xã hội, ảnh hưởng đó là tích cực hay tiêu cực tuỳ thuộc vào mối quan hệ giữa tốc độ phát triển dân số với nhu cầu và khả năng phát triển kinh tế – xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kỳ. Do quy mô dân số lớn, tốc độ tăng cao đã 20 làm quy mô số người trong độ tuổi lao động có khả năng tăng cao. Quy mô dân số đông, nguồn lao động dồi dào, đó là sức mạnh của quốc gia, là yếu tố cơ bản để mở rộng và phát triển sản xuất. Nhưng đối với nước ta – nước đang phát triển, khả năng mở rộng và phát triển sản xuất còn có hạn, nguồn vốn, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu còn thiếu thốn, nguồn lao động đông và tăng nhanh lại gây sức ép về việc làm rất lớn. Mỗi năm phải tạo thêm từ 1 triệu – 1,2 triệu chỗ làm việc chưa kể số sinh viên sắp ra trường, số người làm việc nội trợ thì số người chưa có việc làm hàng năm là rất lớn. Ngoài ra, để đảm bảo đủ việc làm cho người lao động ở khu vực nông thôn và tận dụng hết quỹ thời gian lao động cần có thêm hơn 7 triệu chỗ làm việc. Rõ ràng dân số đang tăng nhanh gây sức ép về việc làm rất lớn, mặc dù nguồn lao động dồi dào là nguồn lực lớn để phát triển kinh tế nhưng để tạo việc làm cho người lao động không phải đơn giản mà kéo theo đó là tài chính, tín dụng, tư liệu sản xuất… trong khi ngân sách nước ta còn hạn hẹp. Ngay từ năm 2000 Đảng và Nhà nước ta đã có chiến lược phát triển kinh tế – xã hội trong đó nhân tố dân số đã được coi trọng. - Coi con người là mục tiêu và là động lực chính của sự phát triển. Đặt con người vào vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển hay còn gọi là chiến lược con người, lấy lợi ích của con người làm điểm xuất phát của mọi chương trình kế hoạch phát triển. - Nguồn nhân lực và con người Việt Nam – lợi thế và nguồn lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế – xã hội nước ta. Tuy nhiên, khi nguồn lực này tăng lên quá nhanh mà chưa sử dụng hết lại là lực cản, gây sức ép về đời sống xã hội và việc làm.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng