Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo lớn ở các tr...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo lớn ở các trường mầm non trong thành phố cà mau

.PDF
138
247
52

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Lê Thị Diệu Chuyên ngành : Mã số : Quản lý giáo dục 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS. ĐINH THỊ TỨ Thành phố Hồ Chí Minh - 2008 LỜI CẢM ƠN Với tấm lòng thành, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh và quý Thầy Cô Giáo sư, Tiến sĩ phụ trách những chuyên đề của lớp Cao học Quản lý giáo dục khoá 16. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn quí Thầy Cô đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và giúp đỡ tạo điều kiện trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu để tôi hoàn thành được luận văn tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Đinh Thị Tứ, Trưởng khoa Mầm Non, trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh là người hướng dẫn trực tiếp, tận tình dìu dắt, giúp đỡ, động viên tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc và chuyên viên Sở Giáo dục đào tạo tỉnh Cà Mau. Uỷ ban nhân dân thành phố Cà Mau. Ban lãnh đạo và cán bộ Phòng giáo dục -– đào tạo thành phố Cà Mau. Ban Giám hiệu, Giáo viên các trường mầm non công lập trong thành phố Cà Mau và các bạn đồng nghiệp đã nhiệt tình cung cấp thông tin tư liệu quý báu có liên quan đến đề tài luận văn tốt nghiệp này. Mặc dù đã hết sức cố gắng, song do điều kiện thời gian và năng lực còn hạn chế, chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, chưa đầy đủ trong luận văn tốt nghiệp này. Kính mong được sự chỉ dẫn, góp ý của quý Thầy Cô trong Hội đồng bảo vệ cùng các bạn đồng nghiệp để luận văn này hoàn thiện hơn. Cà Mau, tháng 08 năm 2008 Lê Thị Diệu DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL : Cán bộ quản lý BGH : Ban giám hiệu GV : Giáo viên MN : Mầm non GD : Giáo dục ĐT : Đào tạo GVMN : Giáo viên mầm non GDMN : Giáo dục mầm non MG : Mẫu giáo HĐVC : Hoạt động vui chơi ĐVTCĐ : Đóng vai theo chủ đề TP : Thành phố MĐTH : Mức độ thực hiện KQTH : Kết quả thực hiện TB : Trung bình XH : Xếp hạng MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đổi mới quản lý GD đã trở thành chiến lược phát triển đang được Đảng và Nhà nước quan tâm. Ở mục 4 trong Chỉ thị của Ban chấp hành Trung ương về việc xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL GD đã nhấn mạnh: “ Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý nhà giáo và CBQL giáo dục”, đặc biệt “tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, nhất là công tác thanh tra chuyên môn và quản lý chất lượng GD…” [8, tr.2]. Vì vậy GDMN cũng cần phải đổi mới công tác quản lý cho phù hợp với yêu cầu đổi mới quản lý GD của Đảng và nhà nước. Quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn là một bộ phận của quản lý chuyên môn trong GDMN. Nên cần thiết phải quan tâm đến công tác này nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý GD nói chung và quản lý GDMN nói riêng. Ngành GDMN đang có những bước chuyển mình lớn, thay đổi cả về hình thức lẫn nội dung chương trình chăm sóc GD trẻ nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển GDMN như trong chiến lược phát triển GDMN đã đề cập: “Mục tiêu GDMN là giúp trẻ phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ, hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị cho trẻ em vào học lớp một” [9]. Việc đổi mới chương trình chăm sóc GD trẻ trong đó đổi mới HĐVC cho trẻ là trọng tâm của đổi mới chương trình GDMN. Do đó, đòi hỏi phải đổi mới cách quản lý HĐVC cho phù hợp với đổi mới chương trình GDMN. HĐVC là hoạt động chủ đạo của trẻ MG. Trẻ “chơi mà học, học bằng chơi”. Qua HĐVC trẻ phát triển toàn diện trí tuệ, nhân cách. Nhấn mạnh về vai trò của HĐVC Luật giáo dục sửa đổi năm 2005 đã viết: “Phương pháp GDMN chủ yếu là thông qua việc tổ chức các HĐVC để giúp trẻ em phát triển toàn diện” [29]. Nên công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG nói chung, MG lớn nói riêng là hết sức quan trọng nhằm góp phần chuẩn bị cho trẻ vào học ở trường phổ thông . MG lớn là lứa tuổi đang chuẩn bị bước vào trường phổ thông. Nên việc phát triển tư duy, tưởng tượng, lòng ham hiểu biết là hết sức quan trọng đối với trẻ. Việc phát triển trí tuệ và lòng ham hiểu biết cũng như mọi chức năng tâm lý khác chỉ có thể diễn ra một cách tốt đẹp trong HĐVC. Vì HĐVC là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi. Kết quả của việc tổ chức HĐVC không chỉ phụ thuộc vào năng lực của GV mà còn phụ thuộc nhiều vào cách quản lý của BGH ở trường MN. Hiện nay, các trường MN ở TP Cà Mau đang thực hiện chương trình đổi mới theo hình thức hoạt động theo chủ đề, chủ điểm và đang thực hiện thí điểm chương trình đổi mới về nội dung lẫn hình thức tổ chức hoạt động chăm sóc GD trẻ.Việc quản lý HĐVC cho trẻ MG nói chung, MG lớn nói riêng còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được chương trình đổi mới chăm sóc GD trẻ như đã nêu ở trên. Cụ thể là cách quản lý còn áp đặt chưa phát huy tính năng động, sáng tạo của GV trong việc tổ chức HĐVC cho trẻ MG hoặc thả lỏng chưa quan tâm đến việc chỉ đạo, hướng dẫn việc tổ chức HĐVC cho GV dạy MG. Nguyên nhân là năng lực chuyên môn và năng lực quản lý còn hạn chế. Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động vui chơi cho trẻ mẫu giáo lớn ở các trường mầm non trong thành phố Cà Mau” nhằm giúp các nhà quản lý thấy rõ thực trạng về công tác quản lý HĐVC của BGH ở các trường MN trong TP Cà Mau và đề xuất một số giải pháp cơ bản góp phần nâng cao công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG nói chung và MG lớn nói riêng. 2. Mục đích nghiên cứu Từ cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn đề xuất một số giải pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả về việc quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn ở các trường MN công lập trên địa bàn TP Cà Mau. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Hoạt động quản lý của Ban giám hiệu các trường MN trong TP Cà Mau. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng và giải pháp quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn ở các trường MN trong TP Cà Mau. 4. Giả thuyết khoa học Việc quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH ở các trường MN công lập trong TP Cà Mau còn nhiều hạn chế, chưa phù hợp với quản lý HĐVC theo hướng đổi mới GDMN. Nếu áp dụng tốt các giải pháp quản lý mà đề tài đề xuất sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu lý luận. 5.2. Nghiên cứu thực trạng về công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH ở các trường MN công lập trong TP Cà Mau. 5.3. Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn ở các trường MN công lập trong TP Cà Mau. 6. Phạm vi nghiên cứu Quản lý có nhiều cấp, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về quản lý của BGH ở các trường MN công lập trong TP Cà Mau về việc quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn. Quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn bao gồm nhiều nội dung: 1/ Quản lý các khâu trong tiến trình tổ chức HĐVC cho trẻ; 2/ Quản lý về các biện pháp tổ chức HĐVC cho trẻ; 3/ Quản lý về công tác kiểm tra, đánh giá GV việc tổ chức HĐVC cho trẻ; 4/ Quản lý việc bồi dưỡng chuyên môn cho GV về tổ chức HĐVC cho trẻ; quản lý về môi trường chơi. Do thời gian và điều kiện nghiên cứu, chúng tôi không nghiên cứu quản lý về môi trường chơi mà chỉ nghiên cứu 4 nội dung trên. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Thu thập tài liệu, đọc sách có liên quan đến công tác tổ chức HĐVC cho trẻ MG, nghiên cứu phân tích tổng hợp các loại tài liệu liên quan đến đề tài nhằm hệ thống hoá cơ sở lý luận để nghiên cứu làm cơ sở cho việc nghiên cứu thực trạng. 7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn -Phương pháp quan sát: Quan sát tất cả các HĐVC của trẻ MG lớn để nhằm nắm được các biện pháp tổ chức HĐVC của GV dạy lớp MG lớn và nắm được cách chỉ đạo quản lý của BGH ở trường MN công lập trong công tác này. -Phương pháp trò chuyện: Trò chuyện với GV và CBQL để nhằm thu thập thông tin về quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH ở các trường MN công lập trong TP Cà Mau. -Phương pháp điều tra bằng phiếu trưng cầu ý kiến: Xây dựng các phiếu trưng cầu ý kiến cho tất cả CBQL và GV nhằm thu thập thông tin về quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH các trường MN công lập trong TP Cà Mau. -Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến của các chuyên gia về sự cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất nhằm nâng cao công tác quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn. -Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng công thức toán thống kê để tính tương quan thứ hạng giữa ý kiến đánh giá của GV và BGH; tính tương quan thứ hạng về MĐTH và KQTH của các biện pháp quản lý nhằm tìm độ tin cậy của các ý kiến. 8. Những đóng góp của đề tài -Hệ thống hoá được những lý luận về quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH. -Đề xuất một số giải pháp về quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn của BGH các trường MN công lập trong TP Cà Mau. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO LỚN 1.1. Sơ lược lịch sử về vấn đề nghiên cứu 1.1.1. Những công trình nghiên cứu trong nước Một trong những quan điểm cơ bản của GD mẫu giáo xã hội chủ nghĩa Việt Nam quan niệm việc tổ chức HĐVC cho trẻ là vấn đề rất quan trọng trong việc phát triển tình cảm, đạo đức, thẫm mỹ, trí tuệ, lao động... “Giáo dục MG cần tổ chức mọi hoạt động của trẻ theo kiểu hoạt động của con người, hoàn thiện HĐVC (mà đặc trưng ở lứa tuổi MG là trò chơi ĐVTCĐ), làm nảy sinh các yếu tố của hoạt động học tập và những tiền đề của hoạt động lao động” [7, tr.55]. Tác giả Nguyễn Thị Thanh Hà nghiên cứu việc “tổ chức cho trẻ vui chơi ở trường MG” với nhiều nội dung rất phong phú, đa dạng và có kết luận rằng “Việc tổ chức cho trẻ vui chơi và việc hướng dẫn các trò chơi cho trẻ có những nội dung, phương pháp khác nhau” và “GV phải nắm được tình hình vui chơi của trẻ trong lớp và các phương pháp hướng dẫn để phát triển trò chơi cho trẻ” [21] . Trong cuốn “tổ chức, hướng dẫn trẻ MG chơi” PGS. PTS Nguyễn Thị Ánh Tuyết cùng hai tác giả Nguyễn Thị Hoà, Đinh Thị Vang cũng đã nói rất nhiều về tầm quan trọng của việc tổ chức HĐVC cho trẻ“Tổ chức chơi cho trẻ là tổ chức cuộc sống của trẻ” [37, II, tr.7-8-9]. Tài liệu bồi dưỡng “CBQL và GVMN 2006” Bộ giáo dục cũng đã đề cập “Vui chơi là hoạt động chủ đạo, có tác dụng GD và phát triển trẻ toàn diện. GV cần hiểu rõ tầm quan trọng và cách thức tiến hành, đánh giá HĐVC theo những yêu cầu mới trong chương trình GDMN” [6]. 1.1.2. Những công trình nghiên cứu của nước ngoài Vào thời Khổng Tử, ông đã có phương pháp giáo dục, học là phải luyện tập thường xuyên thì mới giúp con người có những nét tính cách riêng “học mà cứ thường thường tập luyện thì trong bụng lại không thoả thích hay sao?” Và học phải đi đôi với luyện tập để trở thành thói quen, hình thành những nét tính cách ngay từ lúc nhỏ “tập được từ lúc nhỏ như thiên tính, thói quen như tự nhiên”.Với phương pháp này ông muốn những nhà GD phải thường xuyên tổ chức luyện tập cho trẻ trong quá trình GD con người [30, tr.23]. Vương Phùng Chi lại rất chú trọng đến vai trò tổ chức các hoạt động tích cực cho người học trong việc giảng dạy “Giảng dạy cần chú ý đến mặt “động” hơn là mặt “tĩnh”. Không “động” thì không phát triển được” [30, tr.28]. Ph.Ph.Lexgháp ông đánh giá cao vai trò hướng dẫn, gợi ý của người lớn trong việc tổ chức vui chơi cho trẻ hơn là áp đặt trẻ chơi theo ý mình “người lớn hãy tạo điều kiện cho trẻ chơi, luôn luôn khuyến khích tính tự lập và óc sáng tạo của trẻ trong lúc chơi” [1]. Trong “Sổ tay chuyên môn hiệu phó chuyên môn”. A.I.Vaxiliepva đánh giá rất cao tầm quan trọng trong việc quản lý tổ chức HĐVC cho trẻ. Tác giả cho rằng muốn quản lý tốt hoạt động này thì người quản lý phải quan sát và phân tích được HĐVC của trẻ và nắm vững đặc điểm riêng biệt của các trò chơi thì mới bồi dưỡng tốt cho GV về công tác tổ chức HĐVC“Quan sát và phân tích HĐVC. Đó là một việc rất phức tạp. Điều này nó gắn liền với ý nghĩa của trò chơi trong sự phát triển nhân cách của trẻ MG, với vị trí của nó trong quá trình GD ở trường MG, với những thể loại trò chơi khác nhau cùng những đặc điểm riêng biệt. Nếu người lãnh đạo nắm vững đặc điểm riêng biệt này thì việc phân tích HĐVC sẽ được sâu sắc hơn và có thể giúp đỡ các cô giáo MG một cách kịp thời” [42]. Những tác giả trên đã nghiên cứu nhiều vấn đề quản lý HĐVC và tổ chức HĐVC cho trẻ trong trường MG theo hướng riêng của mình. Tuy nhiên, nghiên cứu quản lý HĐVC cho trẻ MG lớn ở các trường MN trong thành phố Cà Mau hiện nay chưa có công trình nào thực hiện. 1.2. Lý luận về quản lý và quản lý giáo dục mầm non 1.2.1.Khái niệm về quản lý Quản lý là một khoa học, một nghệ thuật, một công việc vô cùng khó khăn và phức tạp trong xã hội ngày nay. Chính vì thế người làm công tác quản lý phải am hiểu về khái niệm quản lý để vận dụng một cách khoa học, linh hoạt, sáng tạo vào lĩnh vực quản lý nhằm đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực này. Xung quanh thuật ngữ quản lý có nhiều cách tiếp cận khác nhau để định nghĩa khái niệm này. Trước hết với W. Taylor. Người đầu tiên nghiên cứu quá trình lao động trong từng bộ phận của nó, nêu ra hệ thống tổ chức lao động nhằm khai thác tối đa thời gian lao động nhằm tăng năng suất lao động, đã nêu “Quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [19]. Quan niệm của nhà lý luận quản lý kinh tế người pháp H. Fayon đã nêu “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra” [19]. Đặng Vũ Hoạt, Hà Thế Ngữ ở tác phẩm “Những vấn đề cốt yếu trong quản lý” (1987) “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những mục tiêu này đặc trưng cho trạng thái mới của hệ thống mà người quản lý mong muốn”. Tác giả Mạc Văn Trang “ Quản lý là quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường; nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu đã định”. Theo Phan Văn Kha “ Quản lý là quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo và kiểm tra công việc của các thành viên thuộc một hệ thống, đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục đích đã định”. Còn TS. Nguyễn Thị Liên Diệp thì cho rằng “Quản trị là một phương pháp làm cho những hoạt động được hoàn thành với một hiệu suất cao, bằng và thông qua những người khác. Phương thức này bao gồm những chức năng hay hoạt động cơ bản mà nhà quản lý có thể sử dụng. Đó là hoạch định, tổ chức, điều khiển và kiểm soát” [18]. Trong từ điển Tiếng Việt lại định nghĩa “Quản lý là trông nom, xếp đặt công việc trong cơ quan, xí nghiệp” [34, tr.827]. Từ những cách tiếp cận khác nhau của các tác giả ta có thể thấy các tác giả quan điểm thống nhất với nhau: Quản lý là sự tác động liên tục, phải dự đoán, có định hướng, có tổ chức, lập kế hoạch, biết lựa chọn các tác động, phối hợp kiểm tra để đạt được mục tiêu. Vậy khái niệm quản lý có thể là: Quản lý là một hoạt động có mục đích, có định hướng, có tổ chức, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý để tạo nên sự phát triển và đạt được mục tiêu chung. Qua các khái niệm trên ta có thể thấy quản lý phải đi theo một hệ thống với các yếu tố cơ bản bao gồm: Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý, khách thể quản lý, mục tiêu quản lý, phương pháp quản lý (có nhiều nhóm phương pháp khác nhau), công cụ quản lý, chức năng quản lý (lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo, kiểm tra).  Chủ thể quản lý: Có thể là cá nhân hay tập thể, đề ra mục tiêu, tổ chức, hướng các đối tượng quản lý, tác động có chủ định nhằm đạt mục tiêu.  Đối tượng quản lý: Rất đa dạng, từ con người đến giới vô sinh hay hữu sinh, trong đó cơ bản là con người nhận tác động trực tiếp của chủ thể quản lý.  Khách thể quản lý: Nằm ngoài hệ thống, là hệ thống khác hoặc các ràng buộc của môi trường. Nó chịu tác động hay tác động trở lại hệ thống GD và hệ quản lý GD. Do đó, chủ thể quản lý phải làm như thế nào để cho những tác động từ phía khách thể là tác động tích cực cùng nhằm thực hiện mục tiêu chung.  Mục tiêu quản lý: Là trạng thái mong đợi ở tương lai, là cái đích mà mọi hoạt động của hệ thống hướng đến. Mục tiêu quản lý định hướng và chi phối sự vận động của hệ thống.  Phương pháp quản lý: Phương pháp quản lý là cách thức tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý bằng cách sử dụng các phương tiện và biện pháp khác nhau nhằm đạt mục đích đề ra. Có 4 nhóm phương pháp: +Phương pháp hành chính – tổ chức Là những hình thức, biện pháp mà chủ thể quản lý dùng quyền lực trực tiếp đưa ra các mục tiêu, nhiệm vụ, yêu cầu để khách thể quản lý thực hiện. Phương pháp này được biểu hiện qua văn bản, thông báo, chỉ thị… Khi vận dụng phương pháp này nhà quản lý phải nắm vững chỉ thị, pháp quy, nhận thức được quyền hạn, trách nhiệm của mình theo luật định khi đưa ra văn bản. Đây là phương pháp rất cần thiết trong công tác quản lý. +Nhóm phương pháp kinh tế Là cách thức tác động gián tiếp lên đối tượng quản lý bằng sự kích thích lợi ích vật chất để tạo ra động lực thúc đẩy con người hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ cho lợi ích cá nhân và tập thể. Nó có một số đặc trưng sau: -Hình thức của nó là thông qua các cơ chế kinh tế để tác động vào đối tượng quản lý như lương, thưởng, phạt, chế độ ưu đãi với người có thành tích cao. Nó tác động trực tiếp lên khách thể quản lý nhằm tạo ra động lực, kích thích đối tượng quản lý hoạt động có hiệu quả cao. Vì vậy, cần đảm bảo tính công bằng trong phân phối, quan tâm đến quan hệ nội bộ, môi trường tâm lý xã hội bên trong và bên ngoài. +Nhóm phương pháp tâm lý – xã hội Là biện pháp, cách thức tạo ra những tác động vào đối tượng bị quản lý bằng các biện pháp lôgic và tâm lý xã hội nhằm biến những yêu cầu do người lãnh đạo quản lý đề ra thành nghĩa vụ tự giác, động cơ bên trong và những nhu cầu của người thực hiện. Là phương pháp chủ thể quản lý vận dụng các qui luật tâm lý xã hội để tạo nên môi trường tích cực, lành mạnh bên trong tổ chức, có tác động tốt tới mối quan hệ và hành động của tổ chức. Với phương pháp này sẽ nâng cao được đạo đức nghề nghiệp, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tạo tiền đề nâng cao chất lượng giảng dạy. Đồng thời bầu không khí làm việc ngày càng được cải thiện, mọi thành viên đoàn kết, gắn bó thực sự tin yêu lẫn nhau, mọi người gắn bó với tập thể, yên tâm công tác. +Nhóm phương pháp giáo dục Chủ thể quản lý dùng các hình thức, biện pháp tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhận thức, tình cảm, thái độ, hành vi của đối tượng quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt nhiệm vụ của tổ chức giao. Đây là phương pháp ít tốn kém mà có tác dụng sâu sắc và bền vững nhưng cần tránh tư tưởng xem nó là vạn năng.  Công cụ quản lý: Là những phương tiện thông qua đó chủ thể quản lý phối hợp, dẫn dắt, điều hoà hoạt động chung của hệ thống. Dù tiếp cận cách nào đi nữa thì bản chất của quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điều khiển, chỉ huy) hợp quy luật của chủ thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và mục tiêu đề ra [10, tr.14]. Tóm lại, quản lý vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, giúp cho nhà quản lý khai thác và sử dụng các nguồn lực với chi phí thấp nhất để đạt mục tiêu với hiệu quả cao. Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích, có điều khiển, phối hợp, kiểm tra công việc và những nổ lực của con người thông qua các công cụ quản lý để đạt được mục tiêu mong muốn.  Chức năng quản lý: Quản lý có 4 chức năng cơ bản: Lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Trong bốn chức năng trên thì lập kế hoạch là nền tảng của quản lý; chức năng tổ chức là công cụ; chức năng lãnh đạo là quá trình tác động điều hành; phấn đấu đạt được các mục tiêu của tổ chức; chức năng kiểm tra là đánh giá kết quả của việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức nhằm tìm ra những mặt ưu điểm, hạn chế để điều chỉnh việc lập kế hoạch, tổ chức và lãnh đạo. Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các chức năng quản lý Môi trường Lập kế hoạch Tổ chức Kiểm tra Lãnh đạo Trong bốn chức năng trên thì chức năng tổ chức là quan trọng nhất. Tuy nhiên bốn chức năng này có liên quan mật thiết với nhau. *Chức năng lập kế hoạch: Đây là giai đoạn đầu tiên và quan trọng nhất trong chu trình quản lý, kế hoạch hoá là tổ chức công việc theo kế hoạch, đưa mọi hoạt động GD vào công tác kế hoạch có mục tiêu cụ thể, biện pháp rõ ràng, xác định các điều kiện, nguồn lực để thực hiện mục tiêu trong thời gian nhất định của hệ thống quản lý. *Chức năng tổ chức: Là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc một cách khoa học, hợp lý cho các bộ phận, các thành viên để mọi người có thể hoạt động một các hào hứng, nhằm thực hiện hiệu quả mục tiêu đang xây dựng, duy trì cơ cấu nhất định về vai trò, nhiệm vụ, vị trí công tác. Trong chu trình quản lý thì tổ chức là giai đoạn đưa vào thực hiện những ý tưởng đã được kế hoạch hoá để từng bước đưa nhà trường tiến đến mục tiêu. *Chức năng lãnh đạo, chỉ đạo, điều khiển: Là quá trình tác động đến các thành viên của tổ chức, là những hành động xác lập quyền chỉ huy, sự can thiệp của người lãnh đạo trong toàn bộ quá trình quản lý, huy động, điều hành mọi lực lượng thực hiện kế hoạch trong trật tự, làm cho họ nhiệt tình, tự giác nổ lực phấn đấu để nhanh chóng đưa nhà trường đạt các mục tiêu đã định. *Chức năng kiểm tra: Là chức năng cơ bản và quan trọng của quản lý. LêNin cho rằng: “Quản lý mà không có kiểm tra coi như không có quản lý”. Kiểm tra là một quá trình thiết lập và thực hiện các cơ chế thích hợp để đảm bảo đạt được các mục tiêu của tổ chức. Kiểm tra không những giúp cho việc đánh giá thực chất trạng thái đạt được của nhà trường khi kết thúc một kỳ kế hoạch mà còn có tác dụng tích cực cho việc chuẩn bị cho năm học sau. Việc kiểm tra cá nhân, một nhóm hay một tổ chức nhằm giám sát, đánh giá và xử lý kết quả đạt được của tổ chức so với mục tiêu quản lý đã định nếu cần thiết sẽ điều chỉnh, uốn nắn hoạt động. Quá trình kiểm tra có trình tự như sau: -Xây dựng các chỉ tiêu, chuẩn mực hoạt động. -So sánh, đối chiếu, đo lường việc thực hiện nhiệm vụ với chỉ tiêu, chuẩn mực. -Đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu so với kế hoạch, nếu sai lệch sẽ điều chỉnh hoạt động, thậm chí điều chỉnh chuẩn mực hoặc mục tiêu. 1.2.2. Khái niệm về quản lý giáo dục Quản lý GD là một loại hình quản lý của xã hội, là quản lý nhà nước về GD ĐT. Là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các hoạt động GD và ĐT, do các cơ quan quản lý GD của nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước uỷ quyền nhằm phát triển sự nghiệp GD và ĐT, duy trì trật tự, kỉ cương, thoả mãn nhu cầu GD và ĐT của nhân dân, thực hiện mục tiêu GD và ĐT của nhà nước. Nói cách khác GD và quản lý GD tồn tại song hành. GD nhằm thực hiện truyền những kinh nghiệm lịch sử - xã hội của loài người cho đời sau kế thừa và phát triển. GD là một hiện tượng xã hội, do đó quản lý GD xuất phát từ quản lý xã hội là một tất yếu khách quan. Có những khái niệm khác nhau về quản lý GD nhưng cơ bản đều thống nhất về nội dung, bản chất… Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang “Quản lý GD là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, hợp qui luật của chủ thể quản lý nhằm làm cho sự vận hành theo đường lối GD của Đảng thực hiện các tính chất của nhà trường XHCN mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học- GD thế hệ trẻ, đưa GD tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái mới về chất” [31, tr.35]. Tác giả Hà Sĩ Hồ “Quản lý GD là quá trình tổ chức và điều khiển sự vận hành của ba loại yếu tố (hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tập thể con người và các điều kiện vật chất cụ thể) với các quan hệ, tác động qua lại trong quá trình GD thống nhất”[25]. Trong cuốn “Tổng quan về lý luận quản lý GD” lại viết “Quản lý GD được định nghĩa là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý tới khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động sư phạm của hệ thống GD đạt tới kết quả mong muốn bằng cách hiệu quả nhất”. TS. Nguyễn Gia Quý cho rằng “Quản lý GD là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hoạt động GD tới mục tiêu đã định trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân” [32]. Theo từ điển giáo dục học “Quản lý GD (nghĩa hẹp) chủ yếu là quản lý GD thế hệ trẻ, GD nhà trường, GD trong hệ thống GD quốc dân” [33]. Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Quản lý GD là tác động có hệ thống, có mục đích, có kế hoạch, là quá trình tổ chức và điều khiển, là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý trong hệ thống GD quốc dân đưa giáo dục đạt tới mục tiêu dự kiến. Nói cách khác: Quản lý GD là tác động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong hệ thống GD nhằm làm cho hoạt động GD đạt được mục tiêu đã định. 1.2.3. Khái niệm về quản lý giáo dục mầm non Quản lý GDMN là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của quản lý GD. Quản lý GDMN giúp thực hiện mục tiêu của bậc học mầm non. Chiến lược phát triển GD Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 đã xác định: “Nâng cao chất lượng chăm sóc, GD trẻ trước 6 tuổi, tạo cơ sở cho trẻ phát triển toàn diện về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ…” [9] phấn đấu cho mục đích trên, ngay từ bây giờ cần thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng chăm sóc – GD trẻ trên cơ sở phát triển đa dạng và ổn định. Phải đổi mới phương pháp nuôi dạy bằng những cải tiến cơ bản toàn diện về mục tiêu, nội dung, phương pháp tổ chức GD và nuôi dưỡng trẻ cũng như công tác quản lý. Đó là sự đầu tư của nhà nước và tăng cường tham gia của toàn xã hội chăm lo cho trẻ thơ. Quản lý MN là hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch của các cấp quản lý đến hoạt động của các cơ sở GDMN, nhằm thực hiện tốt mục tiêu: Chăm sóc, nuôi dưỡng và GD trẻ em lứa tuổi MN [18]. Quản lý GDMN có nhiều cấp như: Bộ GD – ĐT, Vụ mầm non, các sở GD – ĐT, Phòng GD – ĐT. Các cấp quản lý này có nhiệm vụ quản lý các hoạt động của các trường MN về công tác chăm sóc GD trẻ, trong đó có quản lý HĐVC cho trẻ MG. Từ những khái niệm trên có thể hiểu: Quản lý GDMN là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể cán bộ GV để thực hiện được mục tiêu chăm sóc GD trẻ. Nói cách khác: Quản lý GDMN là sự tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý nhằm đẩy mạnh, phát triển công tác chăm sóc GD trẻ và đạt được mục tiêu của bậc học MN. 1.2.4. Khái niệm về quản lý trường mầm non Trường MN là đơn vị cơ sở của bậc GDMN, là khách thể quan trọng của tất cả các cấp quản lý GDMN. Quản lý trường MN là khâu cơ bản của hệ thống quản lý ngành học. Đó là quá trình có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý (hiệu trưởng) đến tập thể cán bộ GV để chính họ tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc GD trẻ nhằm thực hiện mục tiêu GD đối với từng độ tuổi [13]. Điều 18, chương 2 (Điều lệ trường MN) qui định rõ: “Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm quản lý các hoạt động của trường, do Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp quận, huyện bổ nhiệm đối với trường công lập, bán công hoặc công nhận đối với trường dân lập, tư thục theo đề nghị của Trưởng phòng GD – ĐT”. Quản lý trường MN là tập hợp những tác động tối ưu của hiệu trưởng đến tập thể cán bộ GV để chính họ lại tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc GD trẻ nhằm thực hiện mục tiêu yêu cầu ĐT [12, tr.62]. Vậy ta có thể hiểu quản lý trường MN là tập hợp những tác động tối ưu của chủ thể quản lý (hiệu trưởng), đến tập thể cán bộ GV nhằm tận dụng các nguồn do nhà nước đầu tư, lực lượng xã hội đóng góp và do lao động xây dựng vốn tự có, hướng vào việc đẩy mạnh mọi hoạt động của nhà trường mà tiêu điểm hội tụ là quá trình chăm sóc GD trẻ. Thực hiện mục tiêu kế hoạch đào tạo, đưa nhà trường tiến lên trạng thái mới. Có thể hiểu ngắn gọn: Quản lý trường MN là tập hợp những tác động tối ưu, có mục đích của hiệu trưởng đến tập thể cán bộ GV để chính họ lại tác động trực tiếp đến quá trình chăm sóc GD trẻ nhằm thực hiện mục tiêu yêu cầu ĐT. Công tác quản lý của hiệu trưởng trường MN bao gồm: Quản lý công tác chăm sóc GD trẻ, trong đó có quản lý về việc tổ chức HĐVC cho trẻ; quản lý về nhân lực và quản lý về cơ sở vật chất. Hoạt động của trường MN rất phức tạp và đa dạng. Người hiệu trưởng làm tốt công tác quản lý trường MN sẽ góp phần thực hiện các mục tiêu cơ bản của nhà trường. -Thu hút ngày càng đông số trẻ trong độ tuổi đến trường trên địa bàn hành chính nơi trường đóng. -Đảm bảo được chất lượng chăm sóc GD trẻ, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện. -Xây dựng tập thể cán bộ GV trong trường vững mạnh, đủ sức thực hiện các nhiệm vụ đặt ra. -Sử dụng, bảo quản tốt cơ sở vật chất kỹ thuật của trường, phục vụ đắc lực cho yêu cầu chăm sóc GD trẻ. -Thu hút được các lực lượng xã hội tham gia hỗ trợ xây dựng nhà trường: Từ đầu tư cơ sở vật chất đến việc tạo ra môi trường GD thống nhất và tham gia quản lý nhà trường. -Phát huy được ý thức tự quản, làm chủ của mỗi cá nhân và các bộ phận trong trường. Tạo nên sự đoàn kết nhất trí trên cơ sở nhiệm vụ trung tâm của nhà trường. Trong trường MN phải có bộ máy tổ chức. Bộ máy quản lý trường MN là hình thức liên kết các yếu tố thuộc chủ thể quản lý. Nói cách khác: Bộ máy quản lý là tập hợp các cấp và các bộ phận khác nhau thuộc chủ thể quản lý được chuyên môn hoá, được xác định quyền hạn và nhiệm vụ rõ ràng, có liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau để thực hiện các chức năng quản lý nhằm đạt các mục tiêu quản lý đã xác định. Bộ máy quản lý trường MN gồm có: Ban giám hiệu nhà trường, tổ chức Đảng và các đoàn thể, hội đồng sư phạm, tổ chuyên môn, các tổ chức khác [12, tr.64]. *Ban giám hiệu: -Trường có quy mô từ 100 đến 200 cháu. BGH gồm có một hiệu trưởng và một hiệu phó. -Trường có quy mô từ 200 cháu trở lên. BGH gồm một hiệu trưởng và hai hiệu phó. Hiệu trưởng chịu trách nhiệm chung và trực tiếp phụ trách các mặt công tác: Kế hoạch, tổ chức, thi đua. Hiệu phó là người giúp việc cho hiệu trưởng điều hành công việc và chịu trách nhiệm về phần công việc được hiệu trưởng phân công. Một hiệu phó phụ trách cơ sở vật chất và chăm sóc nuôi dưỡng xuyên suốt từ nhà trẻ đến MG. Một hiệu phó phụ trách công tác GD trẻ xuyên suốt từ nhà trẻ đến MG. Hiệu trưởng và hiệu phó trường MN phải là người có năng lực quản lý, được lựa chọn trong số GV có tín nhiệm về chính trị, đạo đức chuyên môn, có thời gian dạy học ít nhất là 3 năm. Hiệu trưởng, hiệu phó trường MN do uỷ ban nhân huyện (hoặc cấp tương đương) bổ nhiệm theo đề nghị của phòng GD và ĐT huyện sau khi được uỷ ban nhân dân xã hoặc cơ quan xí nghiệp giới thiệu. *Tổ chức Đảng và các đoàn thể: -Chi bộ Đảng hoặc tổ Đảng trong trường MN trực tiếp lãnh đạo nhà trường theo qui định của Đảng. -Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh được tổ chức và hoạt động theo điều lệ của đoàn. -Công đoàn GD là đoàn thể chính trị của cán bộ, GV trong trường, được tổ chức và hoạt động theo luật công đoàn. *Hội đồng sư phạm (hội đồng nhà trường): Hội đồng nhà trường gồm Hiệu trưởng, các phó hiệu trưởng, toàn thể GV, đại diện tổ chức cơ sở Đảng và các đoàn thể quần chúng trong trường, tổ trưởng tổ nuôi, tổ trưởng tổ hành chính quản trị và cán bộ y tế. Hiệu trưởng là Chủ tịch hội đồng nhà trường. Hội đồng là tổ chức tư vấn quan trọng nhất của hiệu trưởng, có trách nhiệm nghiên cứu, thảo luận bàn bạc những vấn đề về công tác chăm sóc nuôi dưỡng GD trẻ. Nhiệm vụ của hội đồng nhà trường được qui định như sau: -Nghiên cứu, thảo luận để hiểu rõ các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, nhà nước và các cấp quản lý GD, bàn biện pháp thực hiện các chỉ thị đó trong nhà trường. -Thảo luận về công tác chăm sóc GD (nội dung và biện pháp) cả năm, từng tháng. -Tổ chức nghiên cứu và học tập các chuyên đề, những kinh nghiệm chăm sóc GD trẻ nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ và hiểu biết thực tế cho toàn thể cán bộ GV trong trường. -Tổ chức đánh giá, công nhận sáng kiến kinh nghiệm của cá nhân và tập thể. *Tổ chuyên môn: Trường MN có các tổ chuyên môn như sau: Tổ GV nhà trẻ, tổ GV mẫu giáo, tổ nuôi dưỡng, tổ hành chính – quản trị. Tổ chuyên môn phải có từ 3 người trở lên. Mỗi tổ chuyên môn có một tổ trưởng do hiệu trưởng chỉ định. Tổ trưởng chịu trách nhiệm điều khiển hoạt động của tổ theo chương trình, kế hoạch chuyên môn, báo cáo tình hình của tổ cho hiệu trưởng. *Các tổ chức khác: Hiệu trưởng còn thành lập một số tổ chức khác để giúp mình thực hiện tốt các mặt công tác như: Ban thi đua khen thưởng, hội đồng kỷ luật, ban bảo trợ nhà trường (ban phụ huynh).
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan