Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng ...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông quận thốt nốt thành phố cần thơ hiện nay

.PDF
141
162
118

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -------------------------------- Nhan Ngọc Hà LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -------------------------------- Nhan Ngọc Hà Chuyên ngành : Mã số : Quản lý Giáo dục 60 14 05 LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN TUẤN LỘ Thành phố Hồ Chí Minh - 2009 LỜI CAM ĐOAN --- *** --Tác giả xin cam đoan tất cả công trình nghiên cứu của bản thân dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ. Tất cả các thông tin, dữ liệu và kết quả nghiên cứu được tác giả thu thập và trình bày trong đề tài là hoàn toàn trung thực, thực tiễn và chưa được công bố bởi bất cứ ai trong một công trình nào khác. Tác giả! LỜI CẢM ƠN --- *** --Trong quá trình học tập và nghiên cứu luận văn, tôi đã nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ của nhiều tập thể và cá nhân. Tôi xin trân trọng cám ơn Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Khoa học công nghệ & Sau đại học Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình tổ chức giảng dạy, tạo điều kiện học tập - nghiên cứu và chấp nhận cho tôi thực hiện luận văn này. Tôi xin trân trọng cám ơn PGS. TS. TRẦN TUẤN LỘ - Trưởng khoa Tâm lý học Trường Đại học Văn Hiến thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình hướng dẫn tôi thực hiện luận văn. Tôi xin trân trọng cám ơn tất cả Quý Thầy, Cô đã giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn. Tôi xin trân trọng cám ơn Sở Giáo dục – Đào tạo thành phố Cần Thơ, Sở Nội vụ thành phố Cần Thơ, Ủy ban nhân dân quận Thốt Nốt, các trường THPT của quận Thốt Nốt, trường THPT Thốt Nốt đã chấp thuận và tạo điều kiện cho tôi được tham gia và hoàn thành tốt khóa học này. Tôi xin trân trọng cám ơn lãnh đạo nhà trường cùng toàn thể giáo viên các trường THPT của quận Thốt Nốt, đã cung cấp cho tôi những thông tin, tài liệu và những ý kiến đóng góp quý báu cho đề tài; các thầy - cô đồng nghiệp cùng khóa đã cung cấp những thông tin, tài liệu và những đóng góp quý báu cho luận văn; các cha mẹ học sinh và học sinh đã đóng góp cho tôi những ý kiến chân tình nhằm đem lại ý nghĩa thực tiễn và khoa học cho luận văn. Song, do trình độ và năng lực còn hạn chế nên luận văn khó tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến, phê bình của quý Thầy – Cô, Hội đồng chấm, các bạn đồng nghiệp để đề tài được hoàn chỉnh hơn. Tôi xin chân thành cám ơn tất cả! MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài: Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, vừa là quá trình hợp tác để phát triển, vừa là quá trình đấu tranh của các nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích quốc gia. Nhằm đi tắt đón đầu từ một đất nước kém phát triển thì vai trò của GD và khoa học công nghệ càng có tính quyết định. GD phải đi trước một bước, nâng cao dân trí, ĐT nhân lực, bồi dưỡng nhân tài nhằm thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược phát triển KT-XH. Ở nước ta, quá trình CNH-HĐH được tiến hành trong điều kiện tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XH chủ nghĩa. Sản xuất hàng hóa phát triển làm cho thị trường lao động mở rộng, nhu cầu học tập tăng lên, mặt khác cũng làm thay đổi quan niệm về giá trị, ảnh hưởng đến việc lựa chọn ngành nghề, động cơ học tập, các mối quan hệ trong nhà trường và ngoài XH. Tình hình trên đòi hỏi ngành GD-ĐT phải ĐT ra những lớp người lao động “Có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được ĐT, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền GD tiên tiến gắn liền với một nền khoa học công nghệ hiện đại” [21, tr. 9]. Song song, nguồn nhân lực này phải là một đội ngũ lao động có năng lực thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của cả nước cũng như ở từng địa phương. Một trong những giải pháp phát triển GD-ĐT mà Đại hội X đã đề ra là đổi mới toàn diện GD-ĐT, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Để việc thực hiện mục tiêu đó Ðại hội còn xác định sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác HN và DN cho HSPT nhằm tạo điều kiện cho việc phân luồng sau tốt nghiệp THPT, để HS vào đời tham gia lao động sản xuất hoặc chọn ngành, nghề học tiếp sau tốt nghiệp. Trước thế giới nghề nghiệp đa dạng, phong phú, HS rất lúng túng trong việc lựa chọn ngành nghề phù hợp. Phần lớn các em chọn nghề theo nhu cầu cá nhân, gia đình, bạn bè hoặc theo thị hiếu… chưa đáp ứng đúng năng lực, sở trường của bản thân hay nhu cầu phát triển KT-XH của địa phương cũng như của đất nước. Nguyên nhân của tình trạng này là do bản thân các em chưa được trang bị đầy đủ những kiến thức về thế giới nghề nghiệp, thiếu hiểu biết về tiêu chuẩn hay những yêu cầu của ngành nghề mình chọn và thường chưa đánh giá đúng năng lực của bản thân. Điều này cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp QLGD đối với công tác GDHN trong nhà trường, đặc biệt là những nhà QL trực tiếp chỉ đạo thực hiện công tác GDHN trong trường phổ thông nói chung, ở các trường THPT của quận Thốt Nốt nói riêng. Nói cách khác, công tác QLHĐGDHN ở các trường THPT quận Thốt Nốt chưa thực sự được quan tâm đúng mức và hiệu quả chưa cao. Những vấn đề nêu trên đã thôi thúc tôi chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay, để từ đó đề ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở các trường này. 3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu Hoạt động QL GDHN của HT các trường THPT tại quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay. 3.2. Đối tượng nghiên cứu Thực trạng và giải pháp QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay. 4. Giả thuyết khoa học Thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT ở quận Thốt Nốt hiện nay còn yếu kém. Do đó, chất lượng và hiệu quả GDHN cho HS chưa cao, phần lớn các em chưa định hướng đúng trong việc lựa chọn ngành, nghề phù hợp với năng lực bản thân. Nếu có những giải pháp đúng đắn và khả thi thì có thể nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác QLHĐGDHN của HT ở các trường THPT trong quận Thốt Nốt. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Tìm hiểu cơ sở lý luận về công tác QL của HT các trường THPT nói chung, công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng. 5.2. Tìm hiểu thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay. Phân tích nguyên nhân của thực trạng. 5.3. Đề xuất một số giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Cơ sở phương pháp luận 6.1.1. Quan điểm hệ thống cấu trúc Mỗi trường THPT trong quận Thốt Nốt có những nét hoạt động đặc trưng riêng về GDHN tùy thuộc vào hoạt động của bộ môn và ứng với điều kiện cụ thể của từng trường. Vì vậy, việc đánh giá công tác QLHĐGDHN của quận phải được xem xét trong mối quan hệ các nhiệm vụ GD chung của các trường THPT trong quận. Ngoài ra, cũng phải xem xét mối tương quan trong công tác QLHĐGDHN giữa các trường THPT trong quận, đồng thời cũng xem xét trong mối tương quan với các hoạt động GD khác trong nhà trường để tìm ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác QLHĐGDHN ở các trường này. 6.1.2. Quan điểm lịch sử và thực tiễn Nghiên cứu và đánh giá thực trạng QLHĐGDHN của HT các trường THPT trong quận trong những điều kiện cụ thể của từng trường, trong tình hình phát triển KT-XH hiện tại của quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ, để đưa ra những giải pháp QL đảm bảo tính khoa học, phù hợp với thực tiễn GDHN của địa phương, góp phần đẩy mạnh nhiệm vụ GDHN của cả nước, đồng thời đảm bảo việc thực hiện mục tiêu GD THPT. 6.1.3. Quan điểm toàn diện Các giải pháp đưa ra được xét trên cơ sở tổng hợp từ nhiều khía cạnh của vấn đề và mang tính toàn diện, trong mối tương quan phụ thuộc lẫn nhau giữa GD với tình hình kinh tế, văn hóa và XH hiện tại của vùng, để nâng cao hiệu quả công tác QLHĐGDHN của các trường THPT trong quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. 6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 6.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp các văn kiện, văn bản, các Nghị quyết, các tài liệu, sách, báo, thông tin trên mạng, tham khảo các vấn đề có liên quan để làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu đề tài. 6.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát công tác QL của HT, các HĐGDHN của người GV, việc HN của cha mẹ đối với con, việc định hướng và lựa chọn các ngành nghề của HS THPT cũng như hiệu quả GDHN của 3 trường THPT trong quận Thốt Nốt. - Phương pháp điều tra: Xây dựng 4 phiếu trưng cầu ý kiến với: phiếu số 1 thăm dò ý kiến ngẩu nhiên 100 HS của khối 12/mỗi trường; phiếu số 2 thăm dò ý kiến của 100 cha mẹ của những HS này/mỗi trường ; phiếu số 3 thăm dò ý kiến đối với toàn thể GV của 3 trường (190 GV); phiếu số 4 thăm dò ý kiến của tất cả 49 CBQL (3 HT, 6 Phó HT và các tổ trưởng chuyên môn và các bộ phận khác) ở 3 trường THPT trong quận Thốt Nốt. Việc xây dựng phiếu trưng cầu ý kiến chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận, mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn CBQL (HT, Phó HT) của 3 trường THPT trong quận Thốt Nốt về những vấn đề nghiên cứu của đề tài. - Phương pháp xin ý kiến chuyên gia: Tác giả đã xin ý kiến của các chuyên gia: Thạc sĩ Trần Đình Lý – Giám đốc Trung tâm quan hệ doanh nghiệp và QL sinh viên trường ĐH Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh; Giảng viên tư vấn HN Nguyễn Đăng Lập của khoa tâm lý học trường ĐH Văn Hiến thành phố Hồ Chí Minh; Giám đốc Trung tâm kỹ thuật tổng hợp – HN thành phố Cần Thơ; Giám đốc Trung tâm GD thường xuyên quận Thốt Nốt… nhằm đúc kết thêm cơ sở khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn về công tác QLHĐGDHN cho HSPT, đồng thời mang lại ý nghĩa khoa học cho các giải pháp tăng cường công tác QLHĐGDHN của đề tài. 6.2.3. Phương pháp thống kê toán học Sử dụng các phép toán thống kê để xử lý số liệu thu thập được từ các điều tra bằng bảng hỏi. 7. Giới hạn nghiên cứu Do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài được nghiên cứu chủ yếu về thực trạng công tác QLHĐGDHN cho HS ở 3 trường THPT thuộc quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ hiện nay, trên cơ sở đó chỉ đề xuất một số giải pháp chung nhất để tăng cường một bước công tác QLHĐGDHN của HT ở 3 trường này. Đối với hai đối tượng HS và CMHS thì đề tài chỉ nghiên cứu ngẩu nhiên ở 100 HS khối 12 và 100 vị cha mẹ của những HS này ứng với mỗi trường THPT trong quận Thốt Nốt. Chương 1 - CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP TRONG CÁC TRƯỜNG THPT 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường THPT Ở nước ta, Đảng ta đã có nhiều văn kiện, Nghị quyết về GD nhấn mạnh ý nghĩa, tầm quan trọng của việc GDHN, phân luồng HS các cấp nhằm góp phần GD toàn diện, chuẩn bị nguồn nhân lực cho sự nghiệp đổi mới, CNH-HĐH đất nước. Những quan điểm của Đảng về GDHN đã được cụ thể hóa bằng những Nghị quyết, Luật của Quốc hội, Nghị định, Chỉ thị của Chính phủ và các văn bản chỉ đạo của Bộ GD-ĐT. Cụ thể như: Ở Nghị quyết Trung Ương 2 khóa VIII trong văn kiện của Đảng, đã đề ra nhiệm vụ cho ngành GD cần mở rộng và nâng cao chất lượng GD kỹ thuật tổng hợp – HN; ở Nghị quyết Trung Ương 6 khóa IX tiếp tục khẳng định lại những mục tiêu và yêu cầu về GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng có thông qua văn kiện xác định đổi mới toàn diện GD-ĐT, trong đó yêu cầu dạy học phân ban và tự chọn ở cấp THPT trên cơ sở làm tốt công tác HN và phân luồng HS từ THCS. Quyết định 126/CP ngày 19/3/1981 của Thủ tướng Chính phủ về công tác HN cho HSPT và sử dụng HS các cấp THCS và THPT ra trường cũng có quy định rõ về mục đích, nhiệm vụ của công tác HN, biện pháp thực hiện và giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương phối hợp với ngành GD thực hiện. Thông tư 31/TT ngày 17/8/1981 của Bộ GD-ĐT có hướng dẫn thực hiện Quyết định 126/CP với những nội dung về vị trí, nhiệm vụ của công tác HN; thực hiện công tác HN cho HSPT có 4 con đường… Trong các quan điểm chỉ đạo của chiến lược phát triển GD 2001 – 2010 do Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 201/2001/QĐ-TTg ngày 28/12/2001, có nêu rõ: “Thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành, GD kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, GD nhà trường kết hợp với GD gia đình và GD XH”. Trong mục tiêu phát triển GD đến 2010 đối với THCS và THPT cũng như trong Luật GD 2005, ở Điều 27 có nêu “Mục tiêu GD phổ thông là chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc”, “GD THPT nhằm giúp cho HS… có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và HN, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học lên ĐH, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào lao động cuộc sống”; ở Điều 28 cũng có ghi “… Nội dung GD phổ thông đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, toàn diện, HN và có hệ thống…”. Ở Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GD cũng đề cập đến nội dung HN và phân luồng HS trong GD. Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã chỉ đạo việc xây dựng chương trình GD THCS, THPT theo mục tiêu quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 27 của Luật GD có chú trọng việc đổi mới nội dung, phương pháp GD, cụ thể hóa chuẩn kiến thức, kỹ năng GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Đối với cấp THCS, các nội dung HN được lồng ghép vào các môn học, đặc biệt là môn công nghệ; đối với cấp THPT các nội dung HN được bố trí thành môn học cụ thể. Theo Chỉ thị 33/2003/CT-BGD&ĐT ngày 23/7/2003 cũng đã đề cập về việc tăng cường GDHN cho HS. Quyết định số 16/2006/QĐ–BGD&ĐT ngày 5/6/2006 cũng đề cập về việc ban hành chương trình GD phổ thông và trong chương trình GD phổ thông cũng có chương trình chuẩn “HĐGDHN”. Bên cạnh đó là những nghiên cứu của nhiều Nhà GD và các chuyên gia phần lớn tập trung nghiên cứu về xu hướng chọn nghề, hứng thú nghề nghiệp, định hướng và tư vấn nghề nghiệp cho HS việc ĐT chuyên gia tư vấn HN hay một số vấn đề chung nhất về công tác HN. Chẳng hạn như đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm tâm lý HSPT trung học tại thành phố Hồ Chí Minh và bước đầu xây dựng bộ trắc nghiệm HN và chọn nghề” của Quang Dương ở Viện Nghiên cứu GD-ĐT phía Nam, thành phố Hồ Chí Minh 1998. Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng tâm lý chọn nghề của HS lúc này chủ yếu cũng có hướng chọn nghề nhằm chạy đua vào các trường ĐH và đa phần chọn nghề theo cảm tính. Vấn đề QLHĐGDHN cho HSPT trong những năm qua cũng đang là mối quan tâm nghiên cứu của rất nhiều Nhà khoa học, Nhà GD và các Nhà QLGD như: - GD lao động, kỹ thuật tổng hợp, HN trường phổ thông (1985) của Nguyễn Trọng Bảo. - Đổi mới công tác HN phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước (1996) của Phạm Tất Dong. - Đề tài “QL công tác HN cho HSPT bậc trung học tại các Trung tâm GD thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Thực trạng và giải pháp”, Luận văn Thạc sĩ khoa học QL, Trường ĐH Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - Huỳnh Thị Tam Thanh (2003). Ở đề tài này chỉ tập trung làm rõ thực trạng QL công tác HN cho HS tại các trung tâm GD thường xuyên trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đưa ra giải pháp nhằm tăng cường việc QL công tác này. Đề tài còn khảo sát về thực trạng phân luồng HS sau bậc trung học, sự bất cập về tỉ lệ lao động kỹ thuật trong tổng số lao động, sự không phù hợp về trình độ trong cơ cấu lao động, việc tổ chức và QL công tác HN chưa đồng bộ của thành phố Đà Nẵng… Tuy vậy, cơ sở lý luận đề tài chưa đáp ứng cho việc giải quyết sâu sát các nội dung của thực trạng, như phần lý luận chưa nêu rõ tính chất HN trong nhà trường phổ thông đối với từng cấp học, chưa chỉ rõ mục đích, phương hướng và nhiệm vụ GDHN trong trường THPT cho từng thành viên của nhà trường. - Đề tài “Tìm hiểu thực trạng công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất một số biện pháp”, Luận văn Thạc sĩ khoa học QL, Trường ĐH Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh - Nguyễn Hữu Thiện (2004). Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng về công tác QL hoạt động HN cho HS THPT tại thành phố Hồ Chí Minh chưa đạt hiệu quả cao trên cơ sở phân tích các thực trạng về sự thiếu thông tin, sự thiếu hiểu biết của HS về các ngành, nghề trong XH dẫn đến việc chọn nghề nghiệp tương lai của các em HS không phù hợp, các HTGDHN trong nhà trường THPT còn nhiều hạn chế. Bên cạnh, đề tài chưa đề cập đến sự lãnh đạo phối hợp GD của nhà trường – gia đình – XH trong công tác GDHN cho HS. Vì công tác GDHN trong nhà trường THPT là một bộ phận của công tác HN của toàn XH. Gia đình lại là cái nôi đầu đời có ảnh hưởng lớn tới sự chọn lựa nghề nghiệp tương lai của HS. Ở đây đề tài chưa đề cập đến nhiệm vụ của CMHS trong việc GDHN và chưa có sự phối hợp GD của nhà trường với gia đình để HN cho các em. Nhìn chung, chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu một cách đầy đủ về công tác QLHĐGDHN nói chung và rất ít công trình nghiên cứu về công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT nói riêng. Hiện tại, ở Cần Thơ chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến thực trạng công tác QLHĐGDHN của HT các trường THPT trong quận Thốt Nốt một cách hoàn chỉnh. 1.2. Một số khái niệm và lý luận về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT 1.2.1. Một số khái niệm 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Có nhiều quan niệm tiếp cận khác nhau: Theo Từ điển Tiếng Việt căn bản (1998) của Nhà xuất bản GD, QL là tổ chức, điều khiển hoạt động của một đơn vị, cơ quan. [ 44, tr. 583] Theo F.W.Taylor: “QL là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ nhất”. Theo Kozlova O. V. và Kuznelsov I. N: “QL là sự tác động có mục đích đến những tập thể con người để tổ chức và phối hợp hoạt động của họ trong quá trình sản xuất”. Theo Glushkov A. A. và Eitingon V. N: “QL là một hoạt động đa diện phức tạp, bảo đảm sự phối hợp có chủ định, sự ăn nhịp của lao động XH”. Cũng vậy, Tereebnenko. V. I. cho “QL tập hợp các biện pháp phối hợp nhằm đạt mục đích xác định”. QL là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nỗ lực cá nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm. [45, tr. 29] QL là một quá trình tác động có định hướng, có tổ chức, lựa chọn trong số tác động có thể có dựa trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự vận hành của đối tượng được ổn định làm cho nó phát triển đến mục đích đã định. [25, tr. 28] QL là sự tác động có ý thức của chủ thể QL lên đối tượng QL nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình XH và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan. [29, tr. 40] Theo các khái niệm trên đây có thể hiểu khái niệm QL như sau: QL là một hoạt động đa diện phức tạp, là sự tác động có tổ chức, có hướng đích, hợp quy luật của chủ thể QL đến đối tượng bị QL cùng nhằm thực hiện mục tiêu chung. 1.2.1.2. Khái niệm quản lý giáo dục Khái niệm QLGD cũng giống như khái niệm QL, được tiếp cận theo nhiều quan niệm khác nhau: Theo P.V. Khuđôminxky: QLGD là tác động có hệ thống, có kế hoạch, có ý thức và có mục đích của chủ thể QL, ở các cấp độ khác nhau đến tất cả các khâu của hệ thống nhằm mục đích đảm bảo việc GD cộng sản chủ nghĩa cho thế hệ trẻ, đảm bảo sự phát triển toàn diện và hài hòa của họ. [37, tr. 28] QLGD là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể QL đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể HS, CMHS và các lực lượng XH trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường. [29, tr. 38] QLGD nằm trong QL văn hóa - tinh thần. QL hệ thống GD là tác động của hệ thống có kế hoạch, có ý thức và hướng đích của chủ thể QL ở các cấp khác nhau đến tất cả các mắt xích của hệ thống (từ Bộ đến trường) nhằm mục đích đảm bảo việc hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và vận dụng những qui luật chung của XH cũng như các qui luật của quá trình GD, của sự phát triển thể lực và tâm lý trẻ em. [28, tr. 16] Từ các quan niệm trên ta có thể hiểu khái niệm QLGD là hệ thống những tác động có định hướng, có kế hoạch, có ý thức của chủ thể QL lên các hệ thống vận hành GD trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường. 1.2.1.3. Khái niệm quản lý trường học QL trường học là QL vi mô, nó là một hệ thống con của QL vĩ mô: QLGD, QL trường học là một chuổi tác động hợp lý (có mục đích, tự giác, hệ thống, có kế hoạch) mang tính tổ chức - sư phạm của chủ thể QL đến tập thể GV và HS, đến những lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp, tham gia vào mọi hoạt động của nhà trường nhằm làm cho quá trình này vận hành tối ưu tới việc hoàn thành những mục tiêu dự kiến. [28, tr. 16] 1.2.1.4. Khái niệm giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT Theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa: “HN là hệ thống các biện pháp giúp cho con người lựa chọn và xác định nghề nghiệp của bản thân trong cuộc sống tương lai trên cơ sở kết hợp nguyện vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu XH” Xét trên bình diện XH: HN là hệ thống tác động của XH về GD học, y học, XH học, kinh tế học… nhằm giúp cho thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp hứng thú, năng lực, nguyện vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng được nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền kinh tế quốc dân. [8, tr. 42] HN là quá trình dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, giúp cho họ phát huy được hết năng lực lao động trong thế giới đó, có được cuộc sống thỏa mãn với lao động nghề nghiệp. Xét trên bình diện trường phổ thông: HN là một hình thức hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, HN được coi như là công việc của tập thể GV, tập thể sư phạm có mục đích GD HS trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong XH. [8, tr. 43] GDHN là một hệ thống các biện pháp GD nhằm chuẩn bị cho HS sớm có ý thức chọn ngành, nghề vừa phù hợp với nguyện vọng cá nhân vừa phù hợp với sự phân công lao động XH ngay từ khi còn học ở trường phổ thông. [4, tr. 29] Như vậy, GDHN là một hệ thống các biện pháp GD của nhà trường, gia đình và XH, nhằm dẫn dắt thế hệ trẻ đi vào thế giới nghề nghiệp, giúp cho các em có định hướng đúng trong việc lựa chọn nghề phù hợp với nguyện vọng, sở trường của bản thân, đáp ứng được nhu cầu nhân lực mà XH đang đặt ra. Đồng thời, giúp các em phát huy hết năng lực của mình với nghề đã chọn. 1.2.1.5. Khái niệm về quản lý hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường học Từ khái niệm QLGD và QL trường học, ta có thể hiểu khái niệm QLHĐGDHN trong nhà trường là tập hợp các tác động có tổ chức, có kế hoạch, có định hướng của chủ thể QL đến tập thể GV, HS, các lực lượng GD trong và ngoài nhà trường, nhằm thực hiện mục đích GD HS trong việc chọn nghề vừa đáp ứng được nhu cầu của XH và yêu cầu của nghề, vừa phù hợp với nguyện vọng, hứng thú, năng lực, sở trường của bản thân. 1.2.2. Một số kiến thức lý luận về giáo dục hướng nghiệp trong trường THPT 1.2.2.1. Mục đích của công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông nhằm bồi dưỡng, hướng dẫn HS chọn nghề phù hợp với yêu cầu phát triển của XH, đồng thời phù hợp với thể lực và năng khiếu của cá nhân. (Theo thông tư 31/TT của Bộ GD-ĐT ban hành ngày 17/11/1981) 1.2.2.2. Nội dung giáo dục hướng nghiệp cho học sinh phổ thông a). Mục tiêu Mục tiêu GDHN cho HSPT là phát hiện và bồi dưỡng phẩm chất nhân cách nghề nghiệp cho HS, giúp các em hiểu mình, hiểu yêu cầu của nghề, hiểu được xu thế phát triển hệ thống nghề trong XH. Thông qua HĐGDHN, GV giúp HS điều chỉnh động cơ học nghề, trên cơ sở đó các em định hướng đi vào lĩnh vực sản xuất mà XH đang có nhu cầu nhân lực. [10, tr. 10] b). Nội dung hướng nghiệp ở cấp THCS và THPT Nội dung HN ở cấp THCS và THPT gồm những mạch nội dung sau: - Định hướng phát triển KT-XH của địa phương, cả nước. - Nhu cầu về thị trường lao động. - Thông tin nghề nghiệp và cơ sở ĐT. - Năng lực bản thân, hoàn cảnh và truyền thống nghề nghiệp gia đình. - Lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp THCS và THPT. Những nội dung được thể hiện thành những chủ đề trong chương trình. Trong một số chủ đề, HS phải lập kế hoạch lựa chọn hướng đi và chọn nghề sau khi tốt nghiệp THCS và THPT. Nội dung chương trình lớp 9 giúp HS có được những kiến thức cơ sở; nội dung chương trình lớp 10, 11 giúp các em tìm hiểu thông tin nghề nghiệp cụ thể; nội dung chương trình lớp 12 tập trung vào tìm hiểu thông tin ĐT và hướng phát triển kinh tế nhằm giúp cho việc quyết định chọn nghề. [10, tr. 13] 1.2.2.3. Phương hướng chủ yếu của nội dung hướng nghiệp hiện nay a). Công tác hướng nghiệp góp phần điều chỉnh việc lựa chọn nghề của thanh thiếu niên, học sinh theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế Một trong những mục đích chính của công tác HN là điều chỉnh hướng chọn nghề của thế hệ trẻ cho phù hợp với những yêu cầu phát triển của kinh tế. Vì thế, trong công tác HN Nhà GD luôn đòi hỏi thanh thiếu niên, HS phải trả lời được câu hỏi: “Nghề định chọn có nằm trong những nghề mà XH đang cần phát triển hay không?” Đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH, cơ cấu kinh tế sẽ chuyển đổi theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc nội. Xu hướng chọn nghề của thanh thiếu niên, HS phải phù hợp với xu hướng dịch chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu của HN. Chính điều này đã đặt ra trong GD phải thông tin chính xác về yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế để thế hệ trẻ có cơ sở cân nhắc định hướng chọn nghề cho bản thân. Và vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải được nhà trường quan tâm như là một định hướng chuẩn bị cho HS ra trường. b). Hướng nghiệp phát huy tác động giáo dục ý thức chính trị và lý tưởng nghề nghiệp cho người lao động Trong GDHN những bài toán tăng trưởng kinh tế, phát triển XH phải được đặt ra trước cho HS khi các em quyết định con đường lao động nghề nghiệp của mình. Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ mở cửa, mở rộng thị trường ra bên ngoài, sự cạnh tranh về thị trường hàng hóa trong quá trình phát triển kinh tế giữa quốc gia càng quyết liệt. Đòi hỏi thị trường lao động phải đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH của quốc gia. Thông qua những thông tin về thị trường lao động, phân tích cho HS thấy sự cần thiết phải vươn lên nắm lấy những công nghệ cao… Bởi các công nghệ lạc hậu sẽ làm chi phí đầu tư quá lớn, từ đó năng suất lao động và chất lượng sản phẩm thấp. Bên cạnh, cũng cho HS thấy sự cần thiết phải nâng cao năng lực sản xuất, năng lực tiếp thị và năng lực sáng tạo. Đó là những yếu tố sẽ quyết định năng lực cạnh tranh của CSSX, của doanh nghiệp. Là một nước nông nghiệp lạc hậu, trên con đường CNH-HĐH đất nước, cần phải thật sự có một cuộc cách mạng trong nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp sinh thái, nền nông nghiệp sạch, bảo đảm chất lượng cao về những mặt hàng nông sản. Chúng ta không chỉ quan tâm đến an ninh lương thực mà còn phải đề cao an toàn thực phẩm, đây là vấn đề quyết định đến việc phát triển thị trường hàng hoá nông nghiệp. Mặt khác, qua HN và các hoạt động khác trong nhà trường nhằm cho HS thấy tính tất yếu của việc chuyển nhà nông sang các nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp với khẩu hiệu “ly nông bất ly hương”. Ngay trong quá trình học ở trường phổ thông, HS phải được định hướng đi vào những nghề mà chính địa phương đang có, các khu công nghiệp hoặc các khu chế xuất mọc lên… c). Hướng nghiệp gắn với việc học tập làm chủ công nghệ mới Thông qua HN, HS thấy được sự sống còn của nghề nghiệp gắn bó chặt chẽ với đổi mới công nghệ với việc làm chủ những tri thức hiện đại, với việc học hỏi liên tục và ĐT suốt đời. Nền sản xuất hiện nay đang thừa hưởng thành quả của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Với vòng đời của công nghệ rút ngắn, các sản phẩm có mặt hàng trên thị trường không thể kéo dài hàng năm, mà là hàng tháng, hàng tuần. Các doanh nghiệp buộc phải nâng cao tính cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng lực làm chủ những công nghệ mới. Lẽ sống của các doanh nghiệp là đổi mới công nghệ, mở rộng thị trường. Trong điều kiện này, hệ thống trường học, bệnh viện, nhà in, nhà xuất bản, các nhà hát, thư viện, câu lạc bộ…cũng thay đổi về nội dung và hình thức hoạt động theo nhịp độ đổi mới công nghệ. HN trong giai đoạn hiện nay phải chỉ ra hướng phát triển của các nghề theo hướng ứng dụng những tri thức mới, những công nghệ mới và vẽ nên viễn cảnh phát triển của nghề. Đây là chỗ khó của HN và cũng là lẽ tồn tại của HN. HS chỉ thấy được thực trạng của nghề trong hiện tại, không thấy được những biến đổi mau lẹ của nội dung, hình thức, phương pháp công tác trong nghề bằng những công nghệ mới, không mường tượng được con đường hiện đại hoá của nghề nên khó có thể quyết định việc lựa chọn lĩnh vực lao động sau khi rời trường học. d). Hướng nghiệp chuẩn bị con người năng động thích ứng với thị trường Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế đã đặt ra cho công tác HN những yêu cầu mới như cùng với việc giới thiệu nghề cụ thể cho HS còn phải cho HS thấy rằng, thiếu năng lực sáng tạo sẽ không bảo đảm được sức cạnh tranh trên thị trường. Song song, trong quá trình làm một nghề, người lao động còn phải tăng tính thích ứng của mình với những thay đổi lớn lao của thị trường hàng hoá, có những trường hợp còn phải có năng lực chuyển sang nghề khác. Đây là tinh thần mới của HN. Trong thời đại mới, do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, rất nhiều thành tựu khoa học mới được ứng dụng rộng rãi trong đó có công nghệ thông tin. Việc “máy tính hoá” các hoạt động nghề nghiệp và phổ cập Internet đang ngày càng bức bách buộc người lao động phải nắm chắc việc sử dụng máy tính và ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh trước khi dự tuyển vào bất kỳ ngành, nghề nào. Trong điều kiện phát triển của thị trường, công tác HN cần hướng một bộ phận không nhỏ những HS tốt nghiệp phổ thông đi vào lĩnh vực kinh doanh. Đây là đội ngũ có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước nhà. Chân dung các nhà doanh nghiệp được mô tả khoa học trong các giờ HN để HS có năng khiếu kinh doanh chú ý đến các nghề thuộc lĩnh vực này. Trên đường tiếp cận với kinh tế tri thức, trong sinh hoạt HN cần dành một thời gian thích đáng cho việc làm quen với những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn: như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá nhằm giúp cho HS hiểu được phương hướng và các mục tiêu phát triển các công nghệ này ở nước ta. Mặt khác, trong nội dung HN cũng cần nói đến những đặc điểm kinh tế tri thức và những yêu cầu đặt ra trước cho người lao động phục vụ nền kinh tế này. 1.2.2.4. Những hình thức giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông GDHN cho HS được tiến hành dưới nhiều hình thức ở gia đình, nhà trường và XH, trong đó các HTGDHN ở trường phổ thông giữ vai trò chủ đạo. Những HTGDHN cơ bản trong trường phổ thông có tính hệ thống, liên quan chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau. a). Hướng nghiệp thông qua các môn học Việc chọn nghề của HS phụ thuộc vào sự hiểu biết chung về hệ thống nghề nghiệp và phụ thuộc vào những tri thức khoa học khác, vào kỹ năng, kỹ xảo được hình thành. Bởi vậy cần phải cố gắng dạy các môn học theo tinh thần GD kỹ thuật tổng hợp – HN. Những môn khoa học tự nhiên có khả năng HN rất lớn. Qua mối liên hệ chặt chẽ giữa nội dung các môn học với hoạt động lao động sản xuất của ngành kỹ thuật, HS sẽ thấy những tri thức về toán, lý, hoá, sinh vật được dùng trong những ngành sản xuất nào? Việc nắm những tri thức sẽ mở đường đi vào những nghề gì? Việc dạy và học các môn khoa học XH có nhiều ý nghĩa chuẩn bị cho HS đi vào các lĩnh vực XH như: công tác GD, công tác Đoàn - Đội, công tác báo trí, thư viện, xuất bản, công tác trong lĩnh vực điều khiển, QL, lãnh đạo.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan