1
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh của một nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường kết hợp với
thực tế đặc thù của Việt Nam, tín dụng là hoạt động chủ yếu và giữ chức năng kinh tế
hàng đầu của các NHTM Việt nam. Tín dụng là một hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu
cho các ngân hàng, song hoạt động này chứa đựng nhiều nguy cơ rủi ro, có thể gây ra hậu
quả nặng nề đối với Ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế. Trong môi trường kinh tế
đầy biến động, rủi ro tín dụng cũng ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp. Để phát triển ổn
định, việc quản trị rủi ro tín dụng luôn là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý
ngân hàng. Do vậy, xác định rủi ro, nguyên nhân của rủi ro và tìm ra các giải pháp để
ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng luôn được đặt ra cho mỗi ngân hàng.
Ngân hàng Liên doanh Việt Nga
(VRB) được thành lập từ tháng 11/2006 trên
cơ sở góp vốn liên doanh bởi hai “Ngân hàng mẹ” là Ngân hàng Đầu tư và phát triển
Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Ngoại Thương Nga (VTB). Sau hơn 04 năm hoạt
động, VRB đã không ngừng mở rộng mạng lưới, ứng dụng công nghệ hiện đại, ban
hành và hoàn thiện các quy trình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đồng
thời giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Tuy đã có nhiều cố gắng và đạt được thành công
nhất định trong việc kiểm soát tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn, nâng cao chất lượng tín dụng
nhưng công tác quản trị rủi ro tín dụng của VRB vẫn còn những hạn chế, thiếu sót, cần
điều chỉnh và khắc phục.
Xuất phát từ thực tiễn đó, việc nghiên cứu thực trạng rủi ro tín dụng và tìm ra các
giải pháp nhằm phòng tránh và giảm thiểu rủi ro tín dụng là hết sức cần thiết. Do vậy,
tác giả chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Liên doanh Việt Nga” để nghiên cứu.
2.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Hệ thống hoá về rủi ro tín dụng, quản trị rủi ro tín dụng của ngân hàng thương
mại.
- Phân tích, đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của
Ngân hàng Liên doanh Việt Nga.
- Đề xuất giải pháp nhằm quản trị tốt rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Liên doanh
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
1
2
Việt Nga.
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng của Ngân hàng
thương mại.
- Phạm vi: Nghiên cứu công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Liên doanh
Việt Nga từ năm 2008 đến năm 2010.
4.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong quá trình thực hiện luận văn bao
gồm:
- Phương pháp phân tích.
- Phương pháp tổng hợp.
- Phương pháp so sánh.
- Phương pháp thống kê.
5.
Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung luận văn được
kết cấu thành 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín
dụng tại Ngân hàng Thương mại.
- Chương 2: Thực trạng rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân
hàng Liên doanh Việt Nga giai đoạn 2008 – 2010.
- Chương 3: Giải pháp nhằm quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Liên
doanh Việt Nga trong thời gian tới.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
2
3
CHƯƠNG I:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau nhưng về cơ bản, khái niệm tín dụng bao
gồm hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác
hoặc cam kết cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở
hữu với một giá trị lớn hơn, phần chênh lệch lớn hơn đó gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn cần
đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này khó có thể phù hợp
được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng vốn; nên để thoả
mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết phải có một người thứ ba đứng ra tập
trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư kiếm lãi để phân
phối cho những người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai
khác chính là các NHTM. Việc các NHTM tập trung vốn dưới hình thức huy động và
phân phối dưới các hình thức cho vay, bảo lãnh và một số nghiệp vụ ngân hàng khác
được gọi là tín dụng ngân hàng.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 17/06/2010, khái niệm
Tín dụng được quy định như sau:
Tín dụng là việc Ngân hàng thoả thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả sau một
khoảng thời gian nhất định bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
1.1.2 Phân loại tín dụng
1.1.2.1 Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
- Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao
cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
3
4
- Bảo lãnh là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cam kết với bên nhận
bảo lãnh về việc ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi
khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đủ nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng
phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng theo thỏa thuận.
- Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hoặc bên mua hàng thông
qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các khoản phải trả
phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo hợp đồng mua, bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ.
- Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy đòi các công
cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh
toán; Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác
đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
- Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng thông qua việc ngân hàng cam kết mua
máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên
thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi kết
thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê
theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính.
1.1.2.2 Phân loại theo thời gian
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở xuống,
cung cấp tín dụng cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp hoặc nhu cầu chi tiêu
ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5
năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có
quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài
hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng cở bản, đầu tư xây
dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc các cơ sở hạ tầng …
1.1.2.3 Phân loại tín dụng theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các căn
cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh giá lại
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
4
5
tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời. Theo quy
định của pháp luật Việt Nam, nợ được phân loại theo các mức độ rủi ro tăng dần như
sau:
- Nợ đủ tiêu chuẩn: Là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả năng thu
hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
- Nợ cần chú ý: Là các khoản nợ ngân hàng được đánh giá là có khả năng thu hồi
cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nợ dưới tiêu chuẩn: Là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không có khả
năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được ngân hàng đánh giá là
có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
- Nợ nghi ngờ: Là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
- Nợ có khả năng mất vốn: Là các khoản nợ được đánh giá là không có khả năng
thu hồi, mất vốn.
1.1 HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1.1 Khái niệm tín dụng ngân hàng
Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La tinh Credium có nghĩa là một sự tin
tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo ngôn ngữ dân
gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả
cả gốc và lãi. Theo Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị
từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay trở về
với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Mặc dù có nhiều quan niệm
khác nhau nhưng đều có thể hiểu hai nội dung chủ yếu:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác
hoặc cam kết cho người khác sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ hai: Người sử dụng cam kết hoàn trả số tiền hoặc hàng hoá đó cho người sở
hữu với một giá trị lớn hơn, phần chênh lệch lớn hơn đó gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Những hành vi tín dụng có thể được diễn ra trực tiếp giữa người thừa vốn
cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này khó có thể
phù hợp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời gian sử dụng
vốn; hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm kiếm; nên để
thoả mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần thiết phải có một người thứ ba
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
5
6
đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời thừa, cần đầu tư
kiếm lãi. Trên cơ sở vốn tập trung được phân phối cho những người cần vốn để
sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó không ai khác chính là các NHTM người môi giới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các NHTM tập trung vốn
dưới hình thức huy động và phân phối dưới các hình thức cho vay, bảo lãnhi và
một số nghiệp vụ ngân hàng khác được gọi là tín dụng ngân hàng.
Theo Luật các Tổ chức tín dụng số 47/2010/QH12 ngày 17/06/2010, khái niệm Tín
dụng được quy định như sau:
Tín dụng là việc Ngân hàng thoả thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản
tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả sau
một khoảng thời gian nhất định bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài
chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác
1.1.2 Phân loại tín dụng:
Các khoản vay của ngân hàng có thể được phân loại theo nhiều tiêu thức
khác nhau. Tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu mà người ta có thể phân loại tín
dụng ngân hàng theo hình thức cấp tín dụng, theo thời hạn trong quan hệ tín
dụng, theo tính chất bảo đảm hoặc theo thành phần kinh tế, cụ thể như sau:
1.1.2.1. Phân loại theo hình thức cấp tín dụng
- Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một
thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Một số
hình thức cho vay chủ yếu như cho vay đầu tư dự án, cho vay theo hạn mức tín
dụng, cho vay từng lần, cho vay qua các hình thức thấu chi, phát hành thẻ tín dụng
v.v…
- Bảo lãnh là hình thức cấp tín dụng, theo đó ngân hàng cam kết với bên
nhận bảo lãnh về việc ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách
hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đủ nghĩa vụ đã cam
kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho ngân hàng theo thỏa thuận. Bảo
lãnh ngân hàng thường dưới các hình thức sau: Bão lãnh dự thầu, bảo lãnh thực
hiện hợp đồng, bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước, bảo lãnh thanh toán v.v…
- Bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng cho bên bán hoặc bên mua hàng
thông qua việc mua lại có bảo lưu quyền truy đòi các khoản phải thu hoặc các
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
6
7
khoản phải trả phát sinh từ việc mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ theo
hợp đồng mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
- Chiết khấu là việc mua có kỳ hạn hoặc mua có bảo lưu quyền truy
đòi các công cụ chuyển nhượng, giấy tờ có giá khác của người thụ hưởng trước
khi đến hạn thanh toán; Tái chiết khấu là việc chiết khấu các công cụ chuyển
nhượng, giấy tờ có giá khác đã được chiết khấu trước khi đến hạn thanh toán.
- Cho thuê tài chính là hoạt động tín dụng thông qua việc ngân hàng cam kết
mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu
của bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử
dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên
thỏa thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài
sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho
thuê tài chính.
1.1.2.2. Phân loại theo thời gian
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ 12 tháng trở
xuống, cung cấp tín dụng cho nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp hoặc nhu
cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn từ trên 12 tháng đến
5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng
dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng cở bản, đầu
tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc các cơ sở hạ tầng …
1.1.2.3. Căn cứ theo hình thức bảo đảm
Tài sản đảm bảo của các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được
nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ
quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể chia thành tín dụng có bảo đảm bằng uy tín của chính
khách hàng (hay tín dụng không có TSĐB) và tín dụng có bảo đảm bằng thế
chấp, cầm cố tài sản.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
7
8
- Tín dụng đảm bảo bằng uy tín khách hàng (không có TSĐB): Tín dụng
không cần tài sản đảm bảo cấp cho những khách hàng có uy tín, làm ăn thường
xuyên có lãi, tình hình tài chính vững mạnh, có lịch sử quan hệ tín dụng lành
mạnh hoặc giá trị món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay. Ngoài ra đối
với các khoản vay theo chỉ định của Chính phủ cũng thường không có TSĐB.
- Tín dụng có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản, khả năng trả nợ của
người thứ ba: Là hình thức ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản để bảo
đảm cho khoản tín dụng bằng việc ký hợp đồng bảo đảm. Theo đó, ngân hàng
thực hiện kiểm tra, đánh giá tình trạng của TSĐB (quyền sở hữu, giá trị, tính thị
trường, khả năng bán, khả năng tài chính của người thứ ba…), có khả năng giám
sát việc sử dụng hoặc có khả năng bảo quản TSĐB.
1.1.2.4. Phân loại tín dụng theo rủi ro
Để phân loại theo tiêu thức này, ngân hàng cần nghiên cứu các mức độ, các
căn cứ để chia loại rủi ro. Cách phân loại này giúp ngân hàng thường xuyên đánh
giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.
Một số ngân hàng lớn trên thế giới chia tới 10 thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu
rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản mục tài sản, bao gồm cả nội bảng và ngoại
bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán. Theo quy định của pháp luật Việt Nam,
nợ được phân loại theo các mức độ rủi ro tăng dần như sau:
- Nợ đủ tiêu chuẩn: Là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là có khả
năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn.
- Nợ cần chú ý: Là các khoản nợ ngân hàng được đánh giá là có khả năng
thu hồi cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.
- Nợ dưới tiêu chuẩn: Là các khoản nợ được ngân hàng đánh giá là không
có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được ngân hàng
đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.
- Nợ nghi ngờ: Là các khoản nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao.
- Nợ có khả năng mất vốn: Là các khoản nợ được đánh giá là không có khả
năng thu hồi, mất vốn.
1.212 RỦI RO TÍN DỤNGG:
1.212.1 Khái niệm rủi ro tín dụng:
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
8
9
Rủi ro tín dụng (RRTD) gắn liền với hoạt động tín dụng, . RRTD là khách
quan, không thể tránh khỏi mà chỉ có thể phòng ngừa, hạn chế và khắc phục hậu
quả của RRTD.
Trong tài liệu “Công nghệ ngân hàng dành cho các nước đang phát triển”, RRTD
được định nghĩa là thiệt hại kinh tế của ngân hàng do một hoặc một nhóm khách hàng
không hoàn trả được nợ của ngân hàng.
Trong tài liệu “Financial institutions management-A mordern Perspective”, Anthony
Saunders định nghĩa: RRTD là khoản lỗ tiềm ẩn khi ngân hàng cấp tín dụng cho một
khách hàng, nghĩa là khả năng các luồng thu nhập dự tính mang lại từ khoản cho vay của
ngân hàng không thể thực hiện đầy đủ về cả số lượng và thời hạn.
RRTD cũng được khái quát như là sự xuất hiện những biến cố không bình
thường trong quan hệ tín dụng, gây hậu quả xấu đến hoạt động của ngân hàng như
thiệt hại về tài sản, thu nhập hay mất mát về vốn ngân hàng
Như vậy dưới những góc nhìn, qua những cách tiếp cận khác nhau với nghiệp vụ
tín dụng, có khá nhiều khái niệm nói về RRTD, nhưng về bản chất, RRTD là khả năng
xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến mà ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay
không trả được nợ, hoặc không trả nợ đủ và đúng hạn, không thực hiện nghĩa vụ đã
cam kết trong hợp đồng tín dụng với bất kỳ lý do nào.
Ngày nay, dù có rất nhiều hình thức kinh doanh mới trong hoạt động ngân hàng ở
nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng tín dụng vẫn là hoạt động kinh doanh chủ yếu của
các ngân hàng. Vì thế, RRTD là vấn đề được đặc biệt quan tâm trong hoạt động của
các ngân hàng. Các ngân hàng hướng tới việc tối đa hóa lợi nhuận thông qua việc tìm
kiếm lợi tức cao nhất có thể từ các khoản tín dụng và đầu tư khá, đồng thời cố gắng
giảm thiểu rủi ro liên quan đến hoạt động tín dụng như sàng lọc và giám sát khách
hàng vay, thiết lập mối quan hệ khách hàng lâu dài, quy định các mức tín dụng, TSĐB
và hạn chế tín dụng.
1.21.2 Đặc trưng của rủi ro tín dụng:
1.12.2.1. Rủi ro tín dụng là tất yếu, khách quan
Trước khi cấp tín dụng, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay
sao cho độ an toàn là cao nhất. Nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cấp tín dụng khi
thấy rằng RRTD sẽ không xảy ra. Tuy nhiên không phải bao giờ ngân hàng cũng dự
tính chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
9
10
bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Một số trường hợp do cán bộ tín dụng của ngân
hàng không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Mặt khác do không
thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của
khách hàng đi vay (người trực tiếp sử dụng tiền vay trong một khoảng thời gian dài),
bất cứ một khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro đối với ngân hàng
(không thu hồi vốn, thu hồi không đúng hạn, không đầy đủ…). Do vậy có thể nói
RRTD là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, RRTD
là bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ.
1.12.2.2. Rủi ro tín dụng mang tính chất gián tiếp
Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân khách quan (thiên tai, bão lũ, chính sách, môi
trường kinh doanh) và chủ quan (do khâu hoạch định chính sách, thẩm định, quản lý,
giám sát của ngân hàng; do khách hàng thiếu kinh nghiệm quản lý, phương án sản xuất
kinh doanh vượt quá khả năng…) gây nên nhiều thiệt hại, thất thoát về vốn ngay từ
quá trình sử dụng vốn của khách hàng. RRTD dần dần hình thành khi đồng vốn trong
tay khách hàng không thực sự sinh lời được mà ngày càng hao hụt đi, còn ngân hàng
thường là người biết sau, biết không đầy đủ và thiếu chính xác về những thiệt hại đó,
những nguy cơ rủi ro đó. Như vậy rủi ro bắt đầu từ khách hàng, sau đó gián tiếp trở
thành rủi roRRTD của ngân hàng khi khách hàng không còn khả năng hoàn trả đầy đủ,
đúng hạn như cam kết tín dụng.
Bởi tính chất gián tiếp này nên để quản trị rủi ro, ngân hàng cần tập trung nghiên
cứu thông tin về khách hàng, thiết lập hệ thống thông tin theo dõi dấu hiệu rủi ro, xây
dựng và đảm bảo mối quan hệ minh bạch giữa cán bộ tín dụng và khách hàng. Trên cơ sở
đó, ngân hàng sẽ trực tiếp tiếp cận rủi ro, sớm nhận biết được nguy cơ rủi ro, có biện pháp
xử lý kịp thời, giảm thiểu hậu quả xấu do rủi ro tạo ra.
1.12.2.3. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng, phức tạp
Tính chất đa dạng, phức tạp của RRTD biểu hiện rõ nhất ở các hình thức của
RRTD. RRTD bao gồm rủi ro giao dịch và rủi ro danh mục.
Rủi ro giao dịch là rủi ro phát sinh trong quá trình ngân hàng xét duyệt và cho
vay, nó bao gồm rủi ro lựa chọn, rủi ro bảo đảm và rủi ro nghiệp vụ. Rủi ro lựa chọn là
rủi ro liên quan đến hoạt động thẩm định và phân tích tín dụng. Rủi ro bảo đảm là rủi
ro xuất phát từ các tiêu chuẩn bảo đảm của khoản tín dụng như các điều khoản trong
hợp đồng tín dụng, các loại TSĐB và mức độ an toàn của TSĐB. Rủi ro nghiệp vụ là
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
10
11
những rủi ro liên quan tới các quá trình thao thác nghiệp vụ tín dụng từ việc xây dựng
và thực hiện các chính sách tín dụng, xem xét và quản lý danh mục cho vay đến việc
xếp hạng tín dụng và xử lý các khoản vay có vấn đề.
Rủi ro danh mục bao gồm rủi ro nội tại và rủi ro tập trung. Rủi ro nội tại chỉ xuất
phát từ những đặc điểm riêng biệt của chủ thể đi vay hay của ngành kinh tế. Rủi ro tập
trung là rủi ro xảy ra khi mức dư nợ của ngân hàng tập trung vào một số khách hàng, một
số ngành kinh tế, một khu vực địa lý hoặc một số hình thức cho vay.
Như vậy, có thể thấy RRTD có thể phát sinh từ rất nhiều khâu trong quá trình cấp
tín dụng do vô số những nguyên nhân khác nhau với tính chất đa dạng và phức tạp.
Dựa trên đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế RRTD, cần áp dụng đồng
bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ dấu hiệu rủi ro nào, đi sau vào tận gốc
rễ của vấn đề để giải quyết. Khi RRTD phát sinh và phải xử lý, sẽ thực hiện xử lý theo
từng nguyên nhân, từng loại hình rủi ro với từng đối tượng khách hàng nhằm đầy lủi
RRTD một cách đơn giản mà hiệu quả chứ không làm gia tăng thêm tính phức tạp.
1.12.2.4. Rủi ro tín dụng có khả năng tạo phản ứng dây chuyền
RRTD là mối quan tâm hàng đầu của không chỉ các ngân hàng trong nước mà còn
của các hệ thống ngân hàng lớn trên thế giới bởi một đặc tính vô cùng quan trọng là nó có
tính lan truyền nhanh. Hoạt động ngân hàng không chỉ giới hạn trong một nước mà nó
còn có mối liên kết ra ngoài lãnh thổ. Như vậy một khi có RRTD lớn xảy ra thì không
những các ngân hàng trong nước bị ảnh hưởng mà các ngân hàng nước ngoài cũng bị ảnh
hưởng theo, tuy mức độ ảnh hưởng thấp hơn hoặc có thể cao hơn.
Điển hình vừa qua là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 bắt đầu
ở Thái Lan không những làm tê liệt hệ thống ngân hàngNH của các nước trong khu
vực và còn ảnh hưởng tới các cường quốc có nền kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật bản…
Năm 2007, cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay nhà đất dưới tiêu chuẩn ở Mỹ đã
tác động tiêu cực đến thị trường tài chính thế giới. Hàng loạt các định chế tài chính ở
Mỹ đã công bố những tổn thất nặng nề mà họ phải gánh chịu xuất phát từ hậu quả của
cuộc khủng hoảng này gây nên. Hơn thế nữa, cuộc khủng hoảng này đã lan rộng sang
một số nước khu vực Châu Âu, Nhật… Một số ngân hàng lớn ở các quốc gia này cũng
lâm vào tình trạng khủng hoảng tương tự.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
11
12
1.212.233 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.2.212.33.1. Nguyên nhân khách quan
Trong các nguyên nhân gây ra RRTD cho ngân hàng thì nhóm nguyên nhân
khách quan là những nguyên nhân khó phòng tránh nhất thậm chí là bất khả kháng.
Những nguyên nhân này thường không trực tiếp ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh
của ngân hàng nhưng nó lại có ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp, các
khách hàng của ngân hàng, từ đó gián tiếp ảnh hưởng đến ngân hàng. Các nguyên
nhân khách quan bao gồm:
- Môi trường tự nhiên:
Những biến động lớn về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất
kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên là yếu tố khó
dự đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm ngoài tầm kiểm soát của con
người. Vì vậy khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra khách hàng cùng ngân hàng sẽ có nguy
cơ tổn thất lớn, phương án kinh doanh không có nguồn thu… điều đó đồng nghĩa với
ngân hàng phải cùng chia sẻ rủi ro với khách hàng của mình.
- Môi trường kinh tế:
Là một tế bào trong nền kinh tế, sự tồn tại và phát triển của ngân hàng cũng như
doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất nhiều của môi trường kinh tế. Sự biến động của nền
kinh tế tốt hay xấu sẽ tác động tới hiệu quả hoạt động của ngân hàng và doanh nghiệp
biến động theo chiều hướng tương tự. Những tác động do môi trường kinh tế gây ra có
thể là trực tiếp với ngân hàng (Ví dụ: những rủi do thay đổi tỷ giá, lãi suất, lạm phát
làm cho ngân hàng bị thiệt về thu nhập) hoặc gián tiếp tác động xấu đến hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp đều có thể là nguyên nhân dẫn đến RRTD. Trong giai đoạn
kinh tế phát triển, người vay hoạt động hiệu quả nhưng trong giai đoạn khủng hoảng
kinh tế, khả năng trả nợ của người vay sẽ bị giảm sút, làm gia tăng RRTD cho ngân
hàng.
- Sự quản lý vĩ mô của Nhà nước:
Mỗi một sự thay đổi về cơ chế chính sách của Nhà nước đều có thể tác động tới
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và ngân hàng. Chính sách kinh tế vĩ mô ổn
định sẽ giúp cho hoạt động của doanh nghiệp ít bị biến động, do vậy mà việc dự báo
về tình hình tài chính, kinh doanh của khách hàng cũng thuận lợi hơn cho ngân hàng.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
12
13
Ngược lại, chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định thì ngân hàng rất khó có thể phân
tích, dự báo chính xác hoạt động kinh doanh, tài chính của khách hàng trong tương lai
cũng như khó có thể lường trước được những rủi ro khách hàng phải đối mặt, do vậy
ngân hàng không thể đánh giá đúng khả năng trả năng trả nợ của khách hàng trong
tương lai, và sẽ tiềm ẩn rủi ro khi cấp tín dụng cho khách hàng.
1.2.21.3.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan
a/- Nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn:
Nguyên nhân từ phía khách hàng là một trong những nguyên nhân chính và cổ
điển nhất gây ra RRTD, bao gồm những nguyên nhân sau:
-+ Khách hàng yếu kém trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính: Trường hợp
người vay có trình độ yếu kém về quản lý, không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có
khả năng tính toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng
và khắc phục khó khăn trong kinh doanh sẽ dẫn tới vốn vay không được sử dụng hiệu
quả. Ngoài ra, việc yếu kém trong quản lý tài chính có thể dẫn tới trường hợp dù dự án
hay quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả song nguồn trả nợ ngân hàng sẽ không
được đảm bảo. Dẫn đến doanh nghiệp không có khả năng hoàn trả nợ gốc và lãi đầy
đủ, đúng hạn cho ngân hàng.
-+ Khách hàng gặp rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh: Khi người vay gặp
những rủi ro từ thị trường (ví dụ nhu cầu về loại sản phẩm của doanh nghiệp bất ngờ giảm
sút do một số thông tin bất lợi), từ bạn hàng (ví dụ doanh nghiệp bị bạn hàng chiếm dụng
vốn và không hoàn trả đúng thời hạn quy định) hoặc từ những rủi ro không dự kiến được
tác động đến nguồn thu của doanh nghiệp và khả năng trả nợ ngân hàng.
-+ Khách hàng chủ định lừa đảo ngân hàng: Trường hợp này người vay kinh
doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho NH đúng hạn hoặc không muốn trả nợ NH. Họ
chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt.
-b/ Nguyên nhân từ phía Ngân hàng
-+ Quan điểm của lãnh đạo điều hành: Nếu NHTM có quan điểm đặt mục tiêu
lợi nhuận lên trên nhất thì cơ chế quản lý sẽ khuyến khích và tạo điều kiện để bộ phận
có liên quan tìm kiếm, quyết định những khoản tín dụng, đầu tư có thu nhập kỳ vọng
cao nhưng tiềm ẩn rủi ro lớn; đồng thời các quy định về kiểm tra, kiểm soát, đặc biệt là
tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá khi quyết định cấp tín dụng cũng sẽ thấp hơn trong khi
tiêu chí về khả năng sinh lời rất được coi trọng. Trường hợp ngược lại nếu quan điểm
kinh doanh lấy an toàn làm chính thì các quy định về cơ chế quản lý tài sản trong việc
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
13
14
thẩm định, xem xét trước khi ra quyết định cho vay, đầu tư sẽ chặt chẽ hơn, cụ thể
hơn, các tiêu chuẩn để phục vụ cho việc ra quyết định, việc kiểm tra, giám sát cũng
được đặt ở mức cao hơn, và vì thế RRTD của ngân hàng sẽ ở mức thấp hơn.
-+ - Sự yếu kém về công nghệ của ngân hàng: Ngày nay trình độ công nghệ là
yếu tố quan trọng trong tổ chức kinh doanh ngân hàng, đặc biệt là đối với quản lý
RRTD. Vì trình độ công nghệ càng cao càng trợ giúp cho ngân hàng sàng lọc những
khách hàng, ngành nghề đang có mức độ rủi ro cao cũng như các cơ sở dữ liệu thông
tin về từng khách hàng. Ở các nước phát triển, công nghệ ngân hàng cũng rất phát
triển, đặc biệt là trong điều kiện có sự hỗ trợ hết sức hiệu quả của công nghệ thông tin
như ngày nay. Công nghệ ngân hàngNH yếu kém sẽ ảnh hưởng đến mức độ tập trung
thông tin, khả năng phân tích, xử lý thông tin để từ đó rút ra các kết luận, nhận định
phục vụ cho quản trị ngân hàng như các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng, tình hình
phân bổ tài sản, mức độ tập trung rủi ro....
-+ - Trình độ của cán bộ ngân hàng: Nguyên nhân của RRTD có thể xuất phát từ sự
hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu kém về chuyên môn, các cán
bộ ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm
phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Ngoài ra, gắn liền với sự hạn chế về khả
năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá RRTD là một công việc
hết sức phức tạp, đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và
phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã. Họ
có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, gây những tổn thất to lớn
cho ngân hàng.
1.12.344 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụng:
Để quản lý nhằm hạn chế RRTD, ngân hàng cần nắm bắt được thực trạng rủi ro
của hoạt động tín dụng. Xét dưới giác độ ngân hàng, RRTD được phán ánh qua các chỉ
tiêu sau đây:
1.12.344.1 Chỉ tiêu nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ:
Nợ xấu là các khoản nợ thuộc các nhóm nợ 3, 4, 5 theo quy định của Ngân hàng
nhà nướcNHNN tại Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ của các Tổ
chức tín dụng. Chỉ tiêu này được dùng để đo lường RRTD thay cho các chỉ tiêu nợ quá
hạn trước đây. Các khoản nợ xấu làm tăng chi phí vốn, chi phí tìm nguồn vốn mới để
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
14
15
tiếp tục cấp tín dụng cho các hợp đồng khác theo đúng kế hoạch, tiến độ thực hiện của
chính sách tín dụng. Nợ xấu càng nhiều, khả năng thu hồi được nợ càng khó khăn,
nguy cơ RRTD càng cao. Khi RRTD ở mức độ nghiêm trọng có thể dẫn tới rủi ro
thanh khoản cho ngân hàng, thậm chí thua lỗ nặng khiến ngân hàng phá sản.
Tỷ lệ nợ xấu cũng là một chỉ tiêu để đánh giá RRTD của ngân hàng:
Tổng nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu =
Tổng dư nợ
Hiện nay tỷ lệ nợ xấu được xem là một trong những dấu hiệu chính để đánh giá
RRTD của tổ chức tín dụng. Tỷ lệ nợ xấu cũng có thể được tính cho từng loại cho vay
theo thành phần kinh tế hoặc theo thời hạn, tuỳ theo mục đích và giác độ tiếp cận của
người nghiên cứu. Tỷ lệ này càng lớn chứng tỏ hoạt động tín dụng chưa hiệu quả, công
tác ngăn ngừa, hạn chế rủi ro chưa tích cực dẫn đến RRTD cao, khiến ngân hàng gặp
khó khăn trong quay vòng vốn, giảm doanh thu, giảm uy tín của ngân hàng. Việc phân
tích chỉ tiêu này sẽ giúp các ngân hàng đánh giá một cách đầy đủ và chính xác hơn
RRTD cũng như chất luợng của hoạt động tín dụng.
1.12.344.2 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụngRRTD đã trích lập:
Tỷ lệ dự phòng RRTD đã trích lập =
DPRR trích trong kỳ
Dư nợ bình quân
x 100%
Dự phòng rủi ro (
DPRR) là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thấtât có thể xảy ra do
khách hàng của ngân hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. DPRR bao gồm dự
phòng chung và dự phòng cụ thể. Trong đó dự phòng chung được tính bằng 0,75%
tổng giá trị tất cả các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4 theo quy định 493/2005/QĐNHNN của Ngân hàng Nhà nướcNHNN; Dự phòng cụ thể là loại dự phòng được trích
lập trên cơ sở phân loại nợ cụ thể các khoản nợ. Số tiền dự phòng cụ thể phải trích
được tính theo công thức:
R = (A-C) x r
trong đó: R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích
A: giá trị khoản nợ
C: giá trị tài sản bảo đảm
r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
15
16
Tỷ lệ DPRR cho biết mỗi đồng vốn ngân hàng cho vay thì cần phải trích lập dự
phòng rủi ro bao nhiêu đồng. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ nợ không đủ tiêu chuẩn càng
nhiều, dẫn tới phải trích lập dự phòng lớn. Số tiền nằm trong quỹ dự phòng không được
sử dụng để cho vay, vì vậy nếu tỷ lệ trên quá cao sẽ giảm hiệu quả sử dụng vốn, đồng thời
cũng phản ánh nguy cơ RRTD cao do có quá nhiều nợ xấu.
1.12.344.3 Khả năng bù đắp rủi ro:
Khả năng bù đắp rủi ro =
DPRR trích trong kỳ
Tổng nợ xấu
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng chống đỡ của ngân hàng khi RRTD xảy ra. Số tiền
trong quỹ dự phòng rủi ro được sử dụng để bù đắp những tổn thất của RRTD gây ra.
Nếu hệ số trên thấp, có nghĩa là khả năng ngân hàng bù đắp được những mất mát về tài
sản do RRTD gây ra là hạn chế, có thể ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân
hàng.
1.2.4.4 Tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng:
Ngoài việc đo lường và phân tích rủi ro theo các chỉ tiêu, các ngân hàng còn phải
phân tích tình hình phân tán rủi ro theo một số quy định của pháp luật, cụ thể theo
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng - giới hạn tín dụng đối với khách hàng được quy định
như sau:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một khách hàng không vượt quá
25% vốn tự có.
- Tổng mức cho vay đối với một nhóm khách hàng có liên quan không vượt
quá 50% vốn tự có.
- Tổng mức cho vay và bảo lãnh đối với một nhóm khách hàng liên quan
không vượt quá 60% vốn tự có.
Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện phân tán rủi ro tín dụng theo ngành kinh
tế và theo thời hạn cho vay.
Ngân hàng nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung phải tuân thủ theo các giới
hạn tín dụng nói trên. Nếu vượt quá bất kỳ giới hạn nào, tổ chức tín dụng sẽ bị
đánh giá là tiềm ẩn rủi ro tín dụng và buộc phải áp dụng các biện pháp để giảm tỷ
lệ này xuống mức quy định.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
16
17
1.12.434.45. Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo
Tỷ lệ dư nợ có TSĐB là tỷ lệ phần trăm giữa dư nợ có TSĐB với tổng dư nợ cho
vay, được xác định theo công thức:
=
x 100%
Dư
nợ
Tỷ lệ dư nợ
có
có TSĐB
TS
Đ
B
Tổng dư nợ
:
Tài sản đảm bảo là nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng. Khi khách hàng
kinh doanh thua lỗ, dự án đầu tư không hiệu quả, khách hàng không còn khả năng trả
nợ thì nếu khoản vay có TSĐB, ngân hàng có thể phát mại tài sản để thu hồi nợ, giảm
thiểu RRTD cho ngân hàng. Vì vậy tỷ lệ dư nợ có TSBĐ lớn thì rủi ro mất vốn của
ngân hàng sẽ giảm.
Theo thông lệ quốc tế, các ngân hàng cần tính toán mức tổn thất dự kiến trong
hoạt động tín dụng để trích lập quỹ dự phòng rủi ro nhằm bù đắp tổn thất khi xảy ra
RRTD. Do ngân hàng có thể phát mại TSĐB để thu hồi vốn nên giá trị TSBĐ được
khấu trừ khi tính toán mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, trong đó TSĐB có tính
lỏng càng cao thì tỷ lệ khấu trừ càng lớn.
Như vậy để đánh giá chính xác RRTD của ngân hàng thì ngoài chỉ tiêu tỷ lệ dư
nợ có TSBĐ, cần quan tâm đến chất lượng TSĐB thông qua việc đánh giá về chủng
loại TSĐB, giá trị và khả năng phát mại tài sản.
1.12.455. Hậu quả của rủi ro tín dụng
1.12.455.1. Đối với ngân hàng
a/- Rủi ro tín dụng ảnh hưởng tới khả năng thanh toán của ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra làm cho ngân hàng không thu được gốc và lãi theo
đúng thời hạn trong hợp đồng tín dụng, thậm chí còn làm mất vốn của ngân hàng. Từ
đó, RRTD sẽ làm giảm tốc độ quay vòng vốn của ngân hàng dẫn tới làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn, giảm khả năng thanh toán của ngân hàng.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
17
18
Mặt khác hoạt động chủ yếu của ngân hàng là nhận tiền gửi và cấp tín dụng, nếu
các khoản tín dụng gặp rủi ro thì việc thu hồi nợ vay sẽ gặp nhiều khó khăn trong khi
đó các khoản tiền gửi vẫn phải thanh toán đúng hạn. Trong lúc không huy động được
vốn do mất uy tín, người rút tiền ngày càng tăng lên kết quả là ngân hàng gặp khó
khăn trong khâu thanh toán.
b/- Rủi ro tín dụng làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.
Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của
NHTM, phần lớn thu nhập của ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy,
khi xảy ra RRTD sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của ngân hàng. Khi phát sinh
các khoản nợ quá hạn, ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát,
thu nợ, chi phí thanh lý, phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng
thời, khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho ngân hàng hoặc rất ít,
không đáng kể, trong khi ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được,
điều này làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra RRTD thì không chỉ
làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ
các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động
rất lớn tới các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng,
chất lượng tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển,
ngược lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận và gây ảnh hưởng xấu
tới tình hình tài chính của ngân hàng.
c/
- Rủi ro tín dụng làm giảm uy tín của ngân hàng.
Khi xảy ra RRTD, ngoài những tổn thất về tài chính, những thiệt hại về uy tín
của ngân hàng, mất lòng tin xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều.
Một ngân hàng có mức độ RRTD cao, cụ thể là tỷ lệ xấu vượt quá mức cho phép,
có chất lượng tín dụng không tốt và gây ra nhiều vụ thất thoát lớn thường đứng trước
nguy cơ mất uy tín trên thị trường. Thông tin về việc một ngân hàng có mức độ rủi ro
cao thường được báo chí thông báo và lan truyền trong dân chúng, điều này sẽ khiến
cho việc huy động vốn của ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, việc giảm
uy tín còn ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng, càng làm cho hoạt động
của ngân hàng gặp nhiều khó khăn hơn.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
18
19
Mặt khác khi ngân hàng xảy ra nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ gây mất
lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại ngân
hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền
thì hậu quả là thị phần của ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và
do đó ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những
người gửi tiền tại ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó ngân
hàng không có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể ngân hàng sẽ bị phá sản và
sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống ngân hàng và nền kinh tế.
1.12.455.2. Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong nền
kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. RRTD xảy ra làm ngân
hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay, do đó RRTD
làm giảm vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền
kinh tế.
Bên cạnh đó NHTM hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ tín dụng với tư
cách là một trung tâm của đời sống kinh tế, nó có quan hệ trực tiếp và thường xuyên
với các tổ chức kinh tế, do đó khi RRTD xảy ra có thể gây tổn thất lan truyền đến mọi
tổ chức kinh tế và cá nhân khác. Người gửi tiền bị mất tiền, người vay tiền gặp khó
khăn trong việc huy động vốn dẫn tới tăng chi phí huy động vốn hoặc thiếu vốn cho
quá trình sản xuất kinh doanh. Các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, khó có thể
thanh toán nợ vay sẽ ảnh hưởng tới cả nền kinh tế cũng như đối với các NHTM khác
mà doanh nghiệp đó vay vốn.
Mặt khác, hoạt động ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của một
ngân hàng có ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Khi một ngân hàng đối mặt với tình
trạng RRTD cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của ngân hàng, dẫn đến mất
lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc đó rất có thể ngân hàng sẽ mất
khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống
ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
19
20
Nhìn chung rủi ro được xem như một yếu tố không thể tách rời với quá trình hoạt
động của NHTM. Rủi ro trong hoạt động tín dụng còn được nhân lên gấp đôi, bởi ngân
hàng không những phải hứng chịu rủi ro do những nguyên nhân chủ quan của mình mà
còn gánh chịu những rủi ro do khách hàng gây ra. Chính vì vậy công tác quản trị RRTD
để bảo đảm an toàn trong hoạt động, nâng cao hiệu quả và chất lượng tín dụng của
NHTM là rất cần thiết và là một nhu cầu tất yếu khách quan.
1.323 QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠIQuản
trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại:
RRTD luôn là mối quan tâm hàng đầu của các ngân hàng trên toàn thế giới. Hiệu
quả và chất lượng tín dụng là cơ sở chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt động ngân
hàng. Hoạt động tín dụng giữ vai trò quan trọng đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Nó
luôn nhận được sự chú ý đặc biệt trong quản trị ngân hàng cũng như trong công tác
giám sát, điều chỉnh hoạt động ngân hàng của các Ngân hàng Trung ương. Việc quản
trị RRTD có ảnh hưởng rất lớn đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng. Trong
hầu hết các trường hợp, một danh mục cho vay được quản lý kém là tác nhân chủ yếu
gây nên sự thất bại của ngân hàng và do tính chất nhạy cảm đặc biệt của loại hình
doanh nghiệp này, ảnh hưởng đến cả hệ thống tài chính và đôi khi là mở đầu một cuộc
khủng hoảng kinh tế.
1.32.1 Khái niệm quản trị rủi ro tín dụng
Đối với bất cứ một hoạt động kinh doanh nào, khi rủi ro xảy ra đều kéo theo nó
những ảnh hưởng khó lường và hậu quả của chúng cũng không dễ dàng khắc phục.
Với rủi ro trong hoạt động tín dụng cũng vậy. Chính vì thế, quản trị rủi ro được coi là
hoạt động trọng tâm trong các tổ chức tài chính – ngân hàng bởi kiểm soát và quản lý
rủi ro chặt chẽ đồng nghĩa với việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn huy động.
Mặt khác, nền kinh tế thị trường nếu không chấp nhận rủi ro thì không thể tạo ra các
cơ hội đầu tư và kinh doanh mới. Do đó, quản trị rủi ro là một nhu cầu tất yếu đặt ra
trong quá trình tồn tại và phát triển của NHTM.
Quản trị rủi ro tín dụng là hoạt động trong đó những nghĩa vụ, biện pháp,
phương pháp quản trị có quan hệ lẫn nhau được thực hiện nhằm đảm bảo rủi ro tín
dụng trong phạm vi ngân hàng có thể chấp nhận được.
Trần Kiên- Lớp CH10A-Khoa Sau ĐH- HVNH
20
- Xem thêm -