Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy một số nét văn hoá truyền thống của người ...

Tài liệu Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy một số nét văn hoá truyền thống của người thái trên địa bàn thành phố sơn la trong giai đoạn hiện nay

.PDF
70
164
96

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Trong những năm qua, cùng với sự phát triển kinh tế, chính trị, xã hội, việc bảo lưu và phát triển nền văn hóa các dân tộc thiểu số cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt chú trọng chăm lo. Vì vậy, việc nghiên cứu văn hóa truyền thống các tộc người thiểu số là việc làm cần thiết và phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Tại Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ 9 (khóa IX) của Đảng đã nhận định: "phải nghiên cứu để bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số ít người". Tiếp đó, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9/6/2014 Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” tiếp tục khẳng định phải "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học". Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống với 54 đặc trưng văn hóa khác nhau. Các đặc trưng văn hóa đó đã bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau cùng phát triển, góp phần tạo nên vườn hoa văn hóa rực rỡ sắc màu của dân tộc Việt Nam, tuy thống nhất nhưng không làm mất đi các đặc trưng văn hóa vốn có của mỗi dân tộc. Theo Tổng điều tra dân số năm 2009, dân tộc Thái có dân số đông thứ 3 tại Việt Nam (sau người Kinh và người Tày). Người Thái cư trú chủ yếu tại các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Hòa Bình, phía Tây Thanh Hóa và Nghệ An. Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế và quá trình di cư tự do, hiện nay người Thái đã có mặt tại hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Sơn La - với 12 dân tộc cùng sinh sống trong đó cộng đồng người Thái chiếm tỉ lệ đông đảo nhất (chiếm khoảng 54% dân số toàn tỉnh). Vì vậy, nền văn hóa của dân tộc Thái mang tính chất đặc trưng, chủ đạo, đại diện cho nền văn hóa của Tây Bắc nói chung và văn hóa Sơn La nói riêng trong cộng đồng các dân tộc nơi đây. Thành phố Sơn La đang trên đà phát triển với tỉ lệ người Thái chiếm đa số. Hiện nay cùng với quá trình hội nhập, giao lưu và đô thị hóa, nhiều yếu tố văn hóa đặc trưng của cộng đồng người Thái trên địa bàn thành phố đang dần mai một và có nguy cơ biến mất. Vì những yếu tố trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp nhằm phát huy một số nét văn hoá truyền thống của người Thái trên địa bàn thành phố Sơn La trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Đã có rất nhiều nghiên cứu khoa học về dân tộc Thái, từ những năm 70 của thế kỷ trước nhiều nhà khoa học đã bắt đầu nghiên cứu về các dân tộc thiểu số, năm 1995 Nhà nước đã cho phép xây dựng chương trình Thái học nằm trong trung tâm Việt Nam học của trường đại học Tổng hợp trước đây nay là trường Đại học KHXHVNV Hà Nội. Kể từ đó đến nay rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học đã ra đời, phải kể đến những cuốn sách nghiên cứu về dân tộc Thái như: 1 1. Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trọng, Khà Văn Tiến, Tòng Kim Ân, “Tư liệu về lịch sử và xã hội dân tộc Thái”, NXB KHXH Hà Nội (1977) đề cập đến nghiên cứu thiết chế và tổ chức xã hội, trong cuốn này đề cập đến Truyện kể bản mường; Lai lịch dòng họ Hà Công; Lệ mường; Luật mường và Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu Sơn La. 2. Cầm Trọng – Phan Hữu Dật, “Văn hóa Thái Việt Nam”, NXB Văn hóa dân tộc Hà Nội (1995). Trong cuốn sách này các tác giả chủ yếu nêu lên một số yếu tố văn hóa Thái truyền thống đồng thời bước đầu đề cập đến mối giao lưu văn hóa giữa người Thái với các dân tộc khác trong khu vực sinh sống. 3. Nguyễn Đăng Duy, “Nhận diện văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam”, NXB Văn hóa dân tộc, Hà Nội (2004). Cuốn sách giới thiệu những nét khái quát nhất về văn hóa 53 dân tộc thiểu số xếp theo 8 nhóm ngôn ngữ và giới thiệu về dân số, địa bàn cư trú, văn hóa sản xuất văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần… Cuốn sách còn đi sâu phân tích nét truyền thống và tính hiện đại trong việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. 4. Đinh Văn Thiên, Hoàng Thế Long, Nguyễn Trung Minh, “Tây Bắc Vùng đất – Con người”, NXB QĐND Hà Nội (2010). Cuốn sách cung cấp những thông tin tổng quát về một địa danh lịch sử gắn liền với những chiến dịch nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp – một địa bàn có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống. 5. Ngô Đức Thịnh, “Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam”. Ở cuốn sách này đã đi sâu tìm hiểu diện mạo và những nét tiêu biểu của trang phục từng vùng và của từng nhóm dân tộc qua các thời kỳ. 6. Cuốn “Nghệ thuật trang phục Thái” của tác giả Lê Ngọc Thắng nhằm giới thiệu nét văn hóa đặc sắc của đồng bào Thái ở nước ta. Cuốn sách này đi sâu tìm hiểu trang phục Thái qua các công đoạn từ việc sản xuất ra các nguyên liệu đến việc cho ra một trang phục như thế nào. Qua các trang phục đó thể hiện tính thẩm mỹ, nếp sống của dân tộc; chức năng giới tính; chức năng xã hội của trang phục… 7. TS. Nguyễn Thị Thanh Nga, “Nghề dệt của người Thái ở Tây Bắc trong cuộc sống hiện đại”, NXB Khoa học Xã hội (2003). Công trình nghiên cứu thực trạng về nghề dệt của hai nhóm Thái ở Mai Châu (Hoà Bình) và Yên Châu (Sơn La) và những biến đổi trong q uá trình sản xuất, chế tác tác phẩm, chế tác nguyên liệu của nghề dệt nhằm thích ứng với cơ chế thị trường và phát triển du lịch, đồng thời góp phần tìm hiểu văn hoá Thái truyền thống và những biến đổi của nói trong hiện tại cùng sự đóng góp của văn hoá Thái vào di sản văn hoá Việt Nam. 8. Hoàng Nam - Lê Ngọc Thắng, “Nhà sàn Thái”, NXB Văn hoá (1984). Cuốn sách đã cho chúng ta cái nhìn tổng quan về ngôi nhà sàn cổ của người Thái ở Việt Nam từ quy trình dựng nhà, cấu trúc nhà sàn cổ truyền đến các nếp sinh hoạt diễn ra dưới mái nhà sàn, những điều cần kiêng kị. 2 9. PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Nga (chủ biên), “Văn hoá truyền thống một số tộc người ở Hoà Bình”, NXB Văn hoá dân tộc (2007). Cuốn sách đã dành 1/4 dung lượng để tổng hợp, phân tích về những đặc trưng của tộc người Thái ở Mai Châu - Hòa Bình. Mặc dù người Thái Mai Châu có số lượng ít hơn nhiều so với người Thái cư trú tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu; đồng thời cũng có nhiều nét khác biệt với người Thái các địa phương khác do chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa khu vực; tuy nhiên, người Thái Mai Châu là cư dân vẫn bảo lưu được nhiều nét văn hóa Thái truyền thống rất đặc trưng và tiêu biểu. 10. GS. TS Trần Văn Bính (chủ biên), “Văn hoá các dân tộc Tây Bắc thực trạng và những vấn đề đặt ra”, NXB Chính trị Quốc gia (2004). Cuốn sách đã đánh giá, phân tích tương đối toàn diện, khách quan về thực trạng đời sống văn hóa của một số dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc trong đó có dân tộc Thái trong công cuộc đổi mới; đồng thời dự báo xu hướng, đề xuất các giải pháp vừa cơ bản, vừa tiếp tục nhằm tiếp tục phát triển đời sống văn hóa các dân tộc trên địa bàn dưới tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. 11. Vi Trọng Liên, “Vài nét về người Thái ở Sơn La”, NXB Văn hóa Dân tộc Hà Nội (2002) đã khái quát về một số nét văn hóa của dân tộc Thái ở Sơn La như: các ngành Thái ở Sơn La; các dòng họ tiêu biểu; giới thiệu về cách thức ăn, mặc, ở; cưới xin; ma chay; lễ hội; các quan hệ xã hội. 12. Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Sơn La, tài liệu hội thảo Đề tài khoa học "Giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Thái ở Sơn La trong quá trình hội nhập quốc tế". Tài liệu cho chúng ta một cái nhìn khái quát nhất về các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cộng đồng người Thái tỉnh Sơn La. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu của tài liệu quá rộng, mang tính chất dàn trải vì vậy người đọc khó có thể hiểu sâu được về các giá trị văn hóa mang tính đặc trưng của người Thái Sơn La nói riêng và người Thái vùng Tây Bắc nói chung. 13. Bên cạnh một số sách đã nêu ở trên, một số tạp chí như: Dân tộc học, Văn hoá dân gian hoặc các nguồn trên internet cũng đăng tải những bài viết về nét văn hoá và phong tục tập quán của dân tộc Thái vùng Tây Bắc nói riêng và người Thái Việt Nam nói chung. 14. Trong phạm vi Trường Đại học Tây Bắc cũng có một số công trình nghiên cứu về văn hóa, phong tục tập quán dân tộc Thái là khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, luận văn Thạc sĩ của cán bộ giảng viên như: “Giá trị văn hoá chiếc khăn Piêu của dân tộc Thái đen ở tỉnh Sơn La”, khoá luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hà (2011); “Bước đầu tìm hiểu nghề dệt thổ cẩm truyền thống của đồng bào Thái đen ở Sơn La” khoá luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Hạnh (2011); Luận văn Thạc sĩ “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La hiện nay”, tác giả Lò Minh Thảo (2013); đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Bước đầu khảo sát giới thiệu trang phục các dân tộc thiểu số tỉnh Sơn La”, tác giả Bùi Thanh Hoa – Lường Hoài Thanh (2013); Nguyễn Thị Đức Hạnh với đề tài luận văn thạc sĩ chuyên 3 ngành văn hóa “Nhà ở của người Thái Trắng tái định cư ở bản Quỳnh Tiến, phường Chiềng An, thành phố Sơn La” lại tập trung vào nghiên cứu về nhà cửa cũng như không gian sống của người Thái Trắng di dân từ Huyện Quỳnh Nhai ra phường Chiềng An thành phố Sơn La. Nhìn chung, các sách chuyên khảo, các đề tài NCKH, các khóa luận đều là những tài liệu quý cho nhóm thực hiện đề tài. Ngoài sự kế thừa của những nghiên cứu trước các tác giả còn xuống khảo sát, phỏng vấn trực tiếp người dân tại địa bàn nghiên cứu. Thông qua đó nhóm tác giả đánh giá thực trạng và đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy những nét văn hóa tốt đẹp của người Thái thành phố Sơn La trong giai đoạn hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính của đề tài là các nét văn hoá truyền thống tiêu biểu của cộng đồng người Thái đen về nhà ở, trang phục và lễ hội trên địa bàn thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, chúng tôi chọn địa điểm nghiên cứu chính là bản Hụm và bản Tông xã Chiềng Xôm thành phố Sơn La để thực hiện điền dã thu thập tư liệu. 4. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: Tổng hợp và phân tích nguồn tài liệu đã công bố về người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái ở Tây Bắc nói riêng và các tư liệu lịch sử, văn hóa xã hội tại địa phương để có được những hiểu biết khái quát cơ bản về tộc người này cũng như địa bàn nghiên cứu. Điền dã dân tộc học, quan sát, phỏng vấn sâu tại cộng đồng người Thái trên địa bàn thành phố Sơn La, phỏng vấn quan sát tại bản Tông và bản Tông Nọi xã Chiềng Xôm, thành phố Sơn La. Thời gian điền dã được tiến hành nhiều đợt từ tháng 6 năm 2016 đến tháng 11 năm 2016. Đối tượng phỏng vấn là người dân tại địa phương với nhiều độ tuổi khác nhau, thuộc nhiều thành phần xã hội có điều kiện kinh tế khác nhau, để có cái nhìn đa chiều về sự biến đổi về văn hóa của người Thái trên địa bàn thành phố Sơn La như: nhà ở, trang phục và lễ hội. Ngoài ra, nhóm tác giả còn quan tâm phỏng vấn các nhóm đối tượng cán bộ đang công tác tại xã, thầy mo là người am hiểu phong tục tập quán của địa phương. Bên cạnh đó còn kết hợp ghi âm các đối tượng phỏng vấn, chụp ảnh những thông tin tư liệu liên quan để làm cứ liệu phân tích. Để đề tài nghiên cứu được sâu hơn chúng tôi còn sử dụng phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, đối chiếu để phục vụ trong việc thu thập tư liệu và xử lý tư liệu. 5. Đóng góp của đề tài Là nguồn tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho cán bộ, giảng viên, sinh viên nhà trường và những người yêu thích tìm hiểu về văn hóa dân tộc. Đồng thời 4 phục vụ cho việc giảng dạy cơ sở văn hóa cho học sinh, sinh viên trong Nhà trường. 6. Cấu trúc đề tài Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, đề tài được chia thành ba chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn Chương 2: Thực trạng một số nét văn hoá truyền thống của cộng đồng người Thái trên địa bàn thành phố Sơn La giai đoạn hiện nay Chương 3: Nguyên nhân biến đổi và đề xuất giải pháp nhằm phát huy một số giá trị văn hóa truyền thống của cộng đồng người Thái thành phố Sơn La 5 Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn 1.1. Phương pháp luận 1.1.1 Cơ sở lý thuyết của đề tài Nhóm đề tài sử dụng lý thuyết về biến đổi văn hóa để thực hiện nghiên cứu đề tài này. Xuất phát từ đối tượng và mục đích nghiên cứu, Đề tài này là một nghiên cứu liên ngành Văn hóa học, xã hội học và dân tộc học. Vì vậy, phương pháp tiếp cận liên ngành sẽ được áp dụng trong nghiên cứu này. Tiếp cận theo các lý thuyết biến đổi và tiếp biến văn hóa Có nhiều quan điểm và lý thuyết khác nhau về sự biến đổi văn hóa nói riêng và biến đổi xã hội nói chung như: quan điểm biến đổi xã hội của K.Marx, các lý thuyết về sự khuyếch tán, tiếp biến, tiến hóa chậm, đợt sóng thứ ba,... nhưng tựu chung lại, các quan điểm và lý thuyết này cho rằng sự biến đổi văn hoá xuất phát từ 3 nguyên nhân cơ bản sau: - Các phát minh và sáng tạo đem lại cái mới cho văn hóa, chẳng hạn, bếp ga, bình nóng lạnh, các trò chơi điện tử,... Mỗi một phát minh đều có thể dẫn đến sự thay đổi văn hóa. - Các khám phá là yếu tố thứ hai dẫn đến sự thay đổi văn hóa, nhất là ở các lĩnh vực văn hóa trong đó có lĩnh vực văn hóa vật chất và văn hoá tinh thần. - Thứ ba, sự phổ biến hay là khuyếch tán văn hóa. Người ta cho rằng, sự biến đổi văn hóa thường xảy ra từ một trung tâm, sau đó được phố biến (khuyếch tán) ra toàn thế giới. Biến đổi văn hóa Như đã nêu trong phần lý thuyết biến đổi, bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi. Biến đổi xã hội là một quá trình qua đó những khuôn mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi qua thời gian. Sự biến đổi về tập quán sản xuất, biến đổi trong sự thay đổi trong cách thức ăn, mặc ở, hành vi ứng xử và các lễ nghi, qua đó ta thấy các giá trị văn hóa, bản sắc văn hóa cũng biến đổi để phù hợp với điều kiện mới, hoàn cảnh mới. 1.1.2. Các khái niệm về văn hóa Từ trước đến nay, chúng ta thường sử dụng nhiều đến thuật ngữ "văn hóa". Tuy nhiên, "văn hóa" được hiểu như thế nào cho chính xác thì đến nay vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Theo các nhà ngôn ngữ học, culture – văn hoá (với tư cách là một danh từ độc lập) chỉ bắt đầu được sử dụng ở châu Âu vào cuối thế kỉ XVII đầu thế kỉ XVIII. Mặc dù trước đó, khoảng thế kỉ II trước Công nguyên, ở La Mã, nhà triết học M. Xixêron đã gắn văn hoá với hoạt động trí tuệ của con người, để sau đó văn hoá được chuyển nghĩa từ “gieo trồng trên đất đai” sang nghĩa bóng “vun trồng cho trí óc”. Tuy nhiên, khi thời Cổ đại suy tàn, thuật ngữ này không được sử dụng nữa, mãi đến thế kỉ XVII nó mới được hồi sinh trở lại trong vốn từ vựng của châu Âu. Người đầu tiên có công đưa từ 6 “culture” vào trong khoa học là S. Pufendorf (1632 – 1694) – nhà nghiên cứu pháp luật người Đức. Ông đã sử dụng thuật ngữ này để chỉ toàn bộ những gì do con người tạo ra, các sản phẩm nhân tạo này khác với các sản vật thiên nhiên tựa như con người được giáo dục khác với con người không được giáo dục. Sang thế kỉ XIX, đặc biệt là thế kỉ XX, khái niệm văn hoá được sử dụng ngày càng nhiều không chỉ trong khoa học mà cả trong cuộc sống hằng ngày của nhiều quốc gia, dân tộc. Có thể nhận thấy, văn hoá là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Cho tới nay, người ta đã thống kê có hơn 400 định nghĩa về văn hoá. Trong cuộc sống hàng ngày, văn hoá thường được hiểu là văn học, nghệ thuật như thơ ca, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh… Chính vì vậy, các “trung tâm văn hoá” có ở khắp mọi nơi. Hoặc theo một cách hiểu thông thường khác: văn hoá là cách sống bao gồm phong cách ẩm thực, trang phục, cư xử, đức tin, tri thức được tiếp nhận… Vì thế, chúng ta thường nhận xét một người nào đó là văn hoá cao, văn hoá thấp, có văn hoá hoặc vô văn hoá. Dưới góc độ khoa học, hầu như mỗi ngành, mỗi lĩnh vực, mỗi trường phái và thậm chí là mỗi nhà khoa học đều có định nghĩa riêng của mình về văn hoá. Trong cuốn Xã hội học văn hoá, tác giả Mai Văn Hai – Mai Kiệm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện xã hội học, nhà xuất bản khoa học xã hội, 2010 đã tổng hợp nghiên cứu và phân loại các khái niệm văn hoá thành 6 nhóm cơ bản với một số đại diện tiêu biểu như: Nhóm định nghĩa mô tả: Đại diện cho nhóm này là nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 – 1917) đã đưa ra khái niệm: “văn hoá (hoặc văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học) là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và bất cứ khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”. Nhóm định nghĩa lịch sử: tiêu biểu với định nghĩa của B.K. Malinowski (1884 – 1942”: “Văn hoá bao gồm các quá trình kế thừa về kỹ thuật, tư tưởng, tập quán và giá trị”. Nhóm định nghĩa chuẩn mực: Thường coi văn hoá là cách sống chung, trong đó bao gồm các giá trị và chuẩn mực có khả năng chi phối đời sống chung của cộng đồng hay nhóm. Nhà xã hội học người Mỹ William Isaac Thomas (1862 – 1947) và là hội viên sáng lập trường phái Chicago nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị khi định nghĩa văn hoá, theo đó “văn hoá là các giá trị vật chất và xã hội của bất kì nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử…), không phụ thuộc vào việc đó là man rợ hay người văn minh”. Nhóm định nghĩa tâm lý học: Đại diện cho nhóm này là W. Sumner (1840 – 1910), ông viết: “tổng thể những sự thích nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hoá”. Nhóm định nghĩa cấu trúc: tác giả Mai Văn Hai – Mai Kiệm chọn định nghĩa của học giả Việt Nam Đào Duy Anh: “Người ta thường cho rằng văn hoá chỉ là những học thuật tư tưởng của loài người, nhân thế mà xem văn hoá vốn 7 có tính chất cao thượng đặc biệt. Thực ra không phải như vậy. học thuật tư tưởng có nhiên là ở trong phạm vi của văn hoá, nhưng phàm sinh hoạt về kinh tế, về chính trị, về văn hoá cùng hết thảy các phong tục tập quán tầm thường lại không phải ở trong phạm vi văn hoá hay sao? Hai tiếng văn hoá chẳng qua là chỉ chung tất cả các phương diện sinh hoạt của loài người cho nên ta có thể nói rằng: văn hoá là sinh hoạt”. Nhóm định nghĩa phái sinh (định nghĩa văn hoá từ góc độ nguồn gốc của nó): định nghĩa tiêu biểu của P. Sorokin (1889 – 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc Nga, người sáng lập khoa xã hội học của Đại học Harvard: “Với nghĩa rộng nhất, văn hoá chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hoặc vô ý thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lốii ứng xử của nhau”. Tuy nhiên cũng theo tác giả, mặc dù có nhiều các định nghĩa và phân loại khác nhau song bởi mỗi định nghĩa đều phát hiện hay nhằm nắm bắt được một phương diện quan trọng nào đó nên không có một định nghĩa nào được gọi là một định nghĩa nhất quán và cạn kiệt về văn hoá. Không phải ngẫu nhiên có nhà nghiên cứu đã nói rằng văn hoá là những cái người ta tìm thấy trên thực địa, chứ không phải trên các định nghĩa. Người ta chỉ có thể xây dựng một định nghĩa về văn hoá trong một bối cảnh nhất định – với tư cách là một khái niệm làm việc – nhằm giúp giải quyết một vấn đề cụ thể nào đó được chuẩn xác mà thôi. Bên cạnh đó, tại Hội nghị quốc tế do Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của Liên Hợp Quốc (UNESCO) chủ trì từ ngày 26 tháng 7 đến ngày 6 tháng 8 năm 1982 tại Mê-hi-cô, trong bản tuyên bố về những chính sách văn hoá, định nghĩa văn hoá được thông qua: “Văn hoá là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội”. Theo định nghĩa của UNESCO, văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền lợi cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hoá đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hoá đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách có đạo lý. Chính nhờ tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình mới mẻ, những công trình vượt trội bản thân”. Như vậy, theo quan niệm của UNESCO, văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt. Văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra. Văn hoá là chìa khoá của sự phát triển. Tại Việt Nam, định nghĩa văn hoá cũng rất đa dạng. Theo Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá Việt Nam – Bộ Giáo dục và đào tạo, do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Văn hoá - Thông tin, xuất bản năm 1998, thì: “Văn hoá là những giá trị vật chất, tinh thần do con người sáng tạo ra trong lịch sử”. Trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con 8 người sáng tạo và tích luỹ trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Tác giả Trần Quốc Vượng (chủ biên), trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam định nghĩa: “Văn hoá là sản phẩm do con người sáng tạo, có từ thuở bình minh của xã hội loài người”. Trong chuyên đề văn hoá “Về văn hoá dân tộc cổ truyền Việt Nam”, GS.TSKH Tô Ngọc Thanh – Chủ tịch Hội văn nghệ dân gian Việt Nam đã nêu một số cách hiểu về văn hoá trong đó ông nhấn mạnh khái niệm: “Văn hoá là hoạt động sáng tạo của con người, nó phản ánh hiện thực, đồng thời tạo ra một hiện thực thứ hai không có sẵn trong thiên nhiên để phục vụ cho sự tồn tại và phát triển của con người. Quan điểm này quan tâm đến nét bản chất của văn hoá là hoạt động sáng tạo, một dạng hoạt động mà chỉ con người mới có và nhờ nó mà con người tách ra khỏi thế giới động vật, đi vào kỉ nguyên văn minh. Kết quả của những hoạt động đó là một “hiện thực thứ hai”. Có thể nhận thấy, cho đến nay trên thế giới cũng như trong nước có rất nhiều định nghĩa khác nhau về văn hoá. Sự khác nhau đó có nguồn gốc ở những cách tiếp cận và nhận thức văn hoá khác nhau ở mỗi dân tộc, mỗi quốc gia và mỗi thời đại lịch sử. Vì thế chúng ta không thể nhận định quan điểm này đúng hay không đúng, phù hợp hay không phù hợp mà tuỳ thuộc vào nhận thức và lĩnh vực chuyên môn của từng cá nhân để nhìn nhận. 1.1.3. Xu thế phát triển của thời đại và quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về vấn đề bảo lưu, phát triển nền văn hóa dân tộc Trong những năm qua vấn đề bảo lưu và phát triển nền văn hoá dân tộc nói chung và văn hoá các tộc người thiểu số nói riêng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đưa vào Nghị quyết và triển khai vào cuộc sống. Để có được chính sách văn hóa toàn diện như hiện nay, đầu tiên phải kể đến bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” (1943) – đây được xem là văn bản pháp lí đầu tiên của Đảng ta nêu lên đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc. Trong "Đề cương văn hoá Việt Nam", Đảng Cộng sản Đông Dương đã khẳng định: “Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (chính trị, kinh tế, văn hoá)”. Cùng với các mặt trận đấu tranh kinh tế và chính trị, Đảng xác định văn hoá cũng là một mặt trận đấu tranh độc lập đồng thời có mối liên hệ mật thiết với hai mặt trận trên trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ. Thậm chí mặt trận văn hoá còn cần được coi trọng hơn nữa vì “có lãnh đạo được phong trào văn hoá, Đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của Đảng mới có hiệu quả” và “phải hoàn thành được cách mạng văn hoá mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”… Mục tiêu trước mắt mà "Đề cương văn hoá Việt Nam" đề ra là xây dựng nền văn hoá mới dân tộc, khoa học, đại chúng và mục tiêu lâu dài là xây dựng “văn hoá xã hội chủ nghĩa”. Muốn xây dựng nền văn hoá dân tộc, khoa học, đại chúng ta phải nắm vững ba nguyên tắc: dân tộc hoá, khoa học hoá và đại chúng hoá. Đường lối ấy được bổ sung, phát triển qua các kì đại hội, hội nghị Trung ương từ khoá I đến khoá VIII. Nhưng có thể nói đến Hội nghị Trung ương 5 (khoá VIII) mới là sự đánh dấu bước phát triển toàn diện đường lối xây 9 dựng và phát triển toàn diện nền văn hoá Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương đảng (khoá VIII) “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” đã khẳng định: “Phương hướng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho văn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nước ta đời sống tinh thần cao đẹp, trình độ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện tốt phương hướng đó, Nghị quyết trung ương 5 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu lên các quan điểm chỉ đạo cụ thể:“Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội”. Đây là luận điểm mới mẻ, sáng tạo đã nói lên mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và sự phát triển, nhấn mạnh vị thế, vai trò của văn hoá đối với chính trị, kinh tế và các lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Theo đó, chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không chăm lo giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Đồng thời, xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hoá là kết quả của kinh thế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển. "Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nên văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc". Đây là quan điểm chỉ đạo quan trọng, sát thực trong giai đoạn hiện nay. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên. Tiến bộ không chỉ về nội dung mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện truyền tải nội dung. Tuy nhiên, tiến bộ không có nghĩa là chúng ta bỏ quên quá khứ. Dân tộc ta có truyền thống lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong quá trình đó đã hình thành và vun đắp nên những giá trị bền vững, những tinh hoa văn hóa của động đồng các dân tộc Việt Nam. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - tổ quốc, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động sản xuất... Chính vì vậy, chúng ta xây dựng 10 nền văn hóa tiên tiến nhưng trong đó phải lồng ghép, bao hàm được các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Chúng ta có 54 dân tộc cùng chung sống trên lãnh thổ, mỗi dân tộc đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Cùng với các giai đoạn thăng trầm của lịch sử, các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. Chúng ta phải xây dựng "nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam", "coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng, phát triển những giá trị văn hóa mới về văn hóa, văn học, nghệ thuật của các dân tộc thiểu số". Nền văn hóa tiên tiến đó vừa phải mang nét chung thống nhất của các tộc người trên lãnh thổ, vừa phải đảm bảo gìn giữ và phát huy được các sắc thái văn hóa riêng, độc đáo của từng tộc người. Bên cạnh đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng cũng xác định rõ nhiệm vụ "xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng", "xây dựng, phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng". Có thể thấy, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII là sự phát triển toàn diện và sáng tạo đường lối xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam. Nghị quyết đã xác định rõ ràng, cụ thể chủ thể lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam và chủ thể xây dựng nền văn hóa là toàn dân, trong đó đội ngũ trí thức, văn nghệ giữ vai trò quan trọng. Đảng thực hiện chức năng lãnh đạo thông qua các đường lối, chính sách trên lĩnh vực văn hoá. Sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân, cho nên giải pháp vừa cơ bản, vừa lâu dài, vừa cấp bách, vừa thường xuyên mang tính đột phá là phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, gắn chặt phong trào thi đua yêu nước với phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá. Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) đã thực sự đi vào cuộc sống và được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đồng tình ủng hộ, được cả hệ thống chính trị quan tâm, tổ chức thực hiện. Có thể nói, nó không chỉ là một văn kiện mang tính chất đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trên lĩnh vực văn hoá, mà còn thể hiện tư duy lí luận văn hoá một cách toàn diện và sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới. Sau 15 năm thực hiện, từ thực tiễn xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc nói chung và văn hoá các tộc người thiểu số nói riêng trong những năm qua đã gợi mở thêm nhiều vấn đề mới cần được nghiên cứu để bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình của xã hội. Chính vì vậy, tại Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá XI trên cơ sở kế thừa và phát triển Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII, Hội nghị đã ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của đất nước. Nghị quyết tiếp tục quan điểm chỉ đạo “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước. Văn hoá phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội… Xây dựng văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm 11 đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học”. Đồng thời, Nghị quyết Trung ương 9 khoá XI nhấn mạnh thêm “Phát triển văn hoá vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hoá… trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp”. Đây là quan điểm chỉ đạo mới, tiến bộ và phù hợp với điều kiện tình hình mới của đất nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết lần này đề cao yếu tố con người, cần thiết phải xây dựng con người mới vì con người là chủ thể để xây dựng nên nền văn hoá dân tộc và phát triển kinh tế - xã hội. 1.2. Khái quát về người Thái 1.2.1. Tên gọi và lịch sử tộc người Thái Tộc người Thái còn có tộc danh đồng bào tự gọi là Táy hoặc Thay cùng các tên gọi khác là Man Thanh, Tay Mường, Tay Mười, Hàng Tổng, Tay Dọ, Thổ. Cho đến nay việc nghiên cứu về lịch sử cư trú của tộc người Thái ở Việt Nam nói chung và người Thái Sơn La nói riêng vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Căn cứ vào các tài liệu thành văn như “Quắm tô mương” (chuyện kể bản mường) hay “Táy pú sấc” (theo dõi những bước đường chinh chiến của cha ông), “Hịt khoỏng bản mường” (phong tục tập quán), Piết mương, phanh mương… Những công trình nghiên cứu nguồn gốc lịch sử người Thái của các nhà khoa học đã kết luận rằng: Người Thái ở Việt Nam nói chung và người Thái ở Sơn La nói riêng đều có nguồn gốc ở Đông Nam Á cổ đại thuộc chủng Mônggôlôit. Đại chủng Mônggôlôit gồm các tiểu chủng: Mônggôlôit Phương Bắc, Mônggôlôit Phương Nam và tiểu chủng da đỏ châu Mỹ. Hầu hết các tộc người Đông Nam Á cổ đại đều thuộc chủng Mônggôlôit Phương Nam. Tiểu chủng Mônggôlôit thuộc các nhóm loại hình: Anhđônêdiêng, Nam Á, Vêđôti, Nêgrôti. Trong đó, người Thái thuộc nhóm hình Nam Á. Theo truyền thuyết dân gian cũng như các văn tự chữ Thái cổ tồn tại đến ngày nay, những văn bản trên lá cây, giấy bản, sách, những cuốn sách sử chép tay hàng trăm trang… đã nói về quê hương nơi chôn nhau cắt rốn là dải đất lớn được tưới bởi chính con sông và là nơi sông Đà gặp sông Hồng (Đin xam xẩu, nậm cẩu que, pá Té Tao). Đó là vùng Vân Nam (Trung Quốc) vào Tây Bắc Việt Nam, chốn đầu nguồn của Nậm Tao (Hồng Hà), Nậm Tè (sông Đà), Nậm Ma (sông Mã), Nậm Khoong (sông Mê Kông), Nậm U, Nậm Na… Về quá trình thiên di của người Thái vào vùng Sơn La – Tây Bắc (Việt Nam), cho đến nay vẫn còn nhiều ý kiến chưa thống nhất: Trong khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Thái Thị Minh, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam do Thạc sĩ Lò Văn Nét - Trường Đại học Tây Bắc hướng dẫn có nghiên cứu và khái quát về lịch sử dân tộc Thái như sau: Trước thế kỉ XI, nhiều nhóm Thái lẻ tẻ di cư vào vùng Tây Bắc (Việt Nam), sống xen kẽ bên người Khơ-mú, nhưng có truyền thuyết lại nói rằng nguồn gốc của người Thái ra đời ở mảnh đất Mường Thanh (Điện Biên) mà xưa kia gọi là Mường Then, Mường Bó Té (đầu nguồn sông Đà), một truyền thuyết khác nói rằng người Thái sinh ra từ quả bầu tiên của mảnh đất Mường Thanh. Có tài liệu khác viết rằng 12 "người Thái ở đất Hán, đưa nhau xuống ăn ở Mường Lò – Nghĩa Lộ (Yên Bái)". Ở đây họ tiến hành khai phá ruộng nương, lập bản mường. Đến đời con là Tạo Mường, tiếp tục phát triển đến vùng đất xung quanh. Khi đất Mường Lò trở nên chật hẹp, người đông thì cụ chủ Lạn Chượng họ Lò Cầm đã tập hợp được 11 họ Thái gồm: Lò Ngần, Lò Nọi, Lường, Quàng, Cà, Tòng, Vi, Lừ. La, Mè lên cư trú trên đất của người Thái phân tán ra khắp các vùng ở Tây Bắc. Lạn Chượng (có người gọi là Lạc Chượng) là con của Tạo Lò đã tiếp nối cuộc hành quân của người Thái đen phát triển thế lực từ Mường Lò đến Mường Chiên, Mường Trai, Ít ong huyện Mường La – Sơn La và sau mười năm thì người Thái đen đến Mường Thanh – Điện Biên. Cuộc di dân này kéo dài đến hơn hai mươi năm và Mường Muổi trở thành trung tâm của người Thái đen. Theo tác giả Cầm Trọng và Phan Hữu Giật, người Thái có mặt ở Tây Bắc ít ra cũng từ các thế kỉ đầu công nguyên. "Nếu như trong các thế kỉ đầu công nguyên, lịch sử miền Vân Nam Trung Quốc đã xuất hiện khối Ô Man Đông Thoán và Bạch Man Tây Thoán thì rất có thể người Thái đã có mặt ở các địa điểm như Nậm Lai Nong Se, Mường Ôm, Mường Ai và Mường Tung Hoàng và một số nơi như vùng lòng chảo Mường Then (Thanh), Mường Chiến (Ngọc Chiến - Mường La), Mường Tấc (Phù Yên Sơn La)". "Vào khoảng thế kỉ VII - VIII người Thái đã đạt quyền làm chủ nước Nam Chiếu từ các dân tộc nói tiếng Tạng - Miến và xúc tiến các đợt di cư tìm miền đất mới dựng bản mường... Nhóm Táy Đăm Mường Then di cư sang đất Lào rồi đến miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An". Theo dã sử và truyền thuyết của người Thái thì việc mở đất của họ gắn liền với các cuộc chiến tranh chinh phục các tộc người thuộc ngữ hệ Môn Khmer, bộ phận cư dân có nguồn gốc xa xưa của vùng đất này, "cho đến thế kỉ XII, người Thái hoàn toàn làm chủ đất Mường Thanh, biến nơi đây thành trung tâm thu hút người Thái khắp miền" với sự thống trị của Lạn Chượng và các con cháu của ông. Càng về sau do sự bất hòa của anh em trưởng thứ quý tộc nên các thế lực quý tộc Mường Lay và người Lự ở Thượng Lào đã đánh đuổi quý tộc Thái Đen ở Mường Thanh nên con cháu Lạn Chượng phải dần di cư về Mường Muổi (Thuận Châu - Sơn La). Sau khi ổn định đến thế kỉ XIV dưới thời chúa Lò Lẹt, Mường Muổi đã trở thành trung tâm nổi tiếng trong vùng người Thái khắp miền Tây Bắc nói chung. Khoảng cuối thế kỉ XIV, dưới thời Tạo Ngần, Mường Muổi đã trở thành trung tâm thống nhất bộ tộc người Thái ở phía Tây, quy tụ được cả một vùng dân cư rộng lớn với nhiều tộc người khác nhau về ngôn ngữ, phong tục tập quán về với chính quyền phong kiến trung ương tập quyền". Sau này cho dù xã hội Thái đã trải qua những năm tháng bị phong kiến, đế quốc chia rẽ... nhưng lịch sử người Thái ở đây vẫn phát triển thành một khối thống nhất. Đó là một nhóm địa phương của một tộc người thiểu số thuộc đại gia đình dân tộc Việt Nam, có sắc thái riêng nằm trong sắc thái chung của dân tộc Việt Nam. 13 1.2.2. Dân số và tình hình phân bố Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, được cấu thành bởi 54 dân tộc với 54 nền văn hóa khác nhau. Trong đó, cộng đồng dân tộc Thái được coi là một thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Thái ở Việt Nam có dân số 1.550.423 người, là dân tộc có dân số đứng thứ 3 tại Việt Nam và có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, người Thái cư trú tập trung tại các tỉnh: Nghệ An (295.132 người, chiếm 10,1% dân số toàn tỉnh và 19,0% tổng số người Thái tại Việt Nam), Thanh Hóa (225.336 người, chiếm 6,6% dân số toàn tỉnh và 14,5% tổng số người Thái tại Việt Nam), Điện Biên (186.270 người, chiếm 38,0% dân số toàn tỉnh và 12,0% tổng số người Thái tại Việt Nam), Lai Châu (119.805 người, chiếm 32,3% dân số toàn tỉnh và 7,7% tổng số người Thái tại Việt Nam), Yên Bái (53.104 người), Hòa Bình (31.386 người), Đắk Lắk (17.135 người), Đắk Nông (10.311 người)... Tại Sơn La, theo số liệu điều tra năm 2015 của Ban Dân tộc thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Sơn La, với tổng số 140.144 hộ (623.386 khẩu), người Thái là cộng đồng chiếm tỉ lệ đông đảo nhất (khoảng 54% dân số toàn tỉnh) và cư trú ở hầu khắp các huyện, thị trong tỉnh. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc Thái vùng Tây Bắc nói chung và Thái Sơn La nói riêng về cơ bản có hai nhóm ngành chính gồm: Nhóm Thái trắng (Tay đón hay Tay khao) cư trú chủ yếu ở Điện Biên, Lai Châu và một số huyện ở Sơn La như Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên. Ở Đà Bắc tỉnh Hoà Bình có một nhóm tự gọi là “Tay đón” được gọi là Thổ. Ở Dương Quỳ, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai có nhóm Thái trắng chịu ảnh hưởng đậm nét của văn hoá Tày. Ở Sa Pa, Bắc Hà (Lào Cai), có nhiều nhóm Thái trắng đã bị Tày hoá . Người Thái có mặt dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu, Điện Biên từ thế kỉ XIII, làm chủ đất Mường Lay hồi thế kỉ XIV, sang thế kỉ XV một bộ phận người Thái trắng di cư xuống Đà Bắc và Thanh Hoá. Nhóm Thái đen (Tay đăm) cư trú chủ yếu ở khu vực hai tỉnh Sơn La và Điện Biên. Tại Sơn La, nhóm Thái đen cư trú tập trung tại một số huyện như Thuận Châu, Yên Châu, Sông Mã, Mường La, thành phố Sơn La và một phần của huyện Quỳnh Nhai. Ngoài ra, các Tay Thanh, Tay Mương, Tay Khăng ở miền Thanh Hoá, Nghệ An cũng từ mạn Tây Bắc chuyển xuống cách đây vài trăm năm và bị ảnh hưởng bởi văn hoá và nhân chủng của cư dâ địa phương và người Lào. Nhóm Tay Thanh từ Mường Thanh (Điện Biên) đi từ Lào vào Thanh Hoá và đến Nghệ An định cư cách đây hai, ba trăm năm. Nhóm này có nhiều đặc điểm gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn La) và chịu ảnh hưởng của văn hoá Lào. Bên cạnh đó cũng có quan điểm cho rằng ngoài hai nhóm Thái đen và Thái trắng còn có nhóm Thái đỏ (gồm nhiều nhóm khác nhau) cư trú ở một số huyện như Mộc Châu (Sơn La), Mai Châu (Hoà Bình) và một số huyện miền núi khác như Bá Thước (Thanh Hoá), Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Con Cuông, Tương Dương (Nghệ An). Tuy nhiên, quan điểm này đến nay vẫn còn gây nhiều tranh 14 cãi và còn cần thêm các bằng chứng nghiên cứu để chứng minh. Hầu hết người ta vẫn thống nhất rằng dân tộc Thái được chia thành hai nhóm ngành cơ bản là Thái đen và Thái trắng. 1.2.3. Đặc điểm kinh tế - văn hóa - xã hội 1.2.3.1. Đặc điểm kinh tế So với các dân tộc thiểu số khác, có thể nói người Thái di cư vào Việt Nam từ khá sớm. Chính vì vậy, họ cư trú đa số ở địa hình thung lũng ven sông, suối và đồng bằng lòng chảo, tiêu biểu như cánh đồng Mường Thanh (Điện Biên), Mường Lò (Văn Chấn - Yên Bái), Mường Than (Than Uyên - Lai Châu), Mường Tấc (Phù Yên - Sơn La). Với đặc điểm cư trú đó, canh tác ruộng lúa nước ở dân tộc Thái đã trở thành truyền thống từ lâu đời, là một nét văn hóa đặc trưng. Ruộng lúa của dân tộc Thái có hai loại: loại thứ nhất gọi là ruộng vỡ hoang "na tí", là loại ruộng của những người mới vỡ hoang. Loại ruộng này nói chung nhỏ hẹp, nằm rải rác ở vùng đất dốc hoặc ở ven suối khi được người dân tự khai phá đào bờ, khoanh thửa, san đất cho bằng phẳng và cày bừa thành ruộng để cấy lúa. Loại thứ hai đưuọc gọi là ruộng toàn mường "ná hang mướng". Đây là loại ruộng công chiếm toàn bộ ruộng trong các châu mường. Loại ruộng toàn mường đưuọc hiểu theo nghĩa sở hữu đất đai, là ruộng của cả mường dưới sự quản lí của A Nha, Tạo Phìa... người dân có trách nhiệm lao động công để sản xuất phục vụ quý tộc Thái thời phong kiến. Ruộng toàn mường được các chức dịch Phìa, Tạo chia một phần cho các chức dịch cấp dưới (theo chức vụ cai quản ở cấp xã, bản) để cày cấy đưuọc gọi là ruộng "na bớt" (cấp cho chức dịch hưởng lợi). Do điều kiện khoa học kĩ thuật chưa phát triển, cũng như đặc điểm địa hình, vì vậy ruộng của người Thái có nhiều cách gọi khác nhau tùy thuộc vào khả năng canh tác của từng loại ruộng, như loại ruộng chờ nước mưa để canh tác thì gọi là "na lạnh", ruộng có nước tưới thường xuyên, bằng phẳng gọi là "na tông", ruộng được khai phá men theo chân núi gọi là "na hon". Cùng với đó, mỗi loại ruộng lại được phân phối sở hữu và tổ chức canh tác khác nhau. "Na tông" được xếp thành từng bậc từ thấp lên cao nối tiếp với khu vực "na hon" ở chân núi. Do đó có thể thấy khái niệm bằng của "na tông" chỉ bó tròn trong từng thửa ruộng. Và để biến địa hình bằng phẳng ở miền núi thành "na tông" bao giờ cũng phải tập trung lao động và tạo ra các bờ để ngăn nước. Nói cách khác việc tạo "na tông" phải sử dụng kỹ thuật tạo bờ thửa để tạo thành các ruộng cao, thấp, ngang dọc sao cho thích hợp với từng khu đất bằng trong toàn bộ vùng thung lũng, lòng chảo hay cao nguyên có độ dốc. "Na hon" là khu đất bị cắt vụn thành từng thửa ruộng. Đặc điểm cơ bản của địa hình để tạo ra khu "na hon" là không có mặt bằng tự nhiên, hoặc nếu có cũng rất nhỏ hẹp. Bởi vậy kĩ thuật phổ biến của việc làm "na hon" bao giờ cũng tập trung vào khâu tạo mặt bằng. Trên cơ sở đó mới bắt đầu đắp bờ ngăn nước. Trong canh tác ruộng lúa nước, thủy lợi là vấn đề được người Thái đặt lên hàng đầu vì theo họ "có nước mới nên ruộng, có ruộng mới nên lúa". Do đó đòi hỏi phải vừa làm vừa sáng tạo để hoàn chỉnh hệ thống dẫn nước tưới ruộng. Trải 15 qua hàng chục thế kỉ canh tác trên các thửa ruộng nước, hệ thống thủy lợi của người Thái đã được tóm tắt trong câu thành ngữ "mương, phai, lái, lín" (khơi mương đắp đập, dẫn nước qua chướng ngại, đặt máng trên cánh đồng). Đặc biệt họ còn biết lợi dụng sức nước dựng hệ thống cây cọn quay để đưa nước từ sông suối lên đồng. Đây đưuọc coi là điểm nổi bật của người Thái trong quá trình sản xuất ruộng nước so với các dân tộc thiểu số khác trong cả nước. Mương là đường khai dẫn nước vào ruộng. Nói về việc đào mương, người ta dễ thấy rằng ở người Thái, với trình độ kĩ thuật thủ công như trước đây, đã đạt được thành tựu đáng kể. Có những con mương dài ngót chục cây số vắt qua triền núi đá hoặc uốn mình men theo đường khúc khuỷu của chân đèo đầy chướng ngại dường như là điều không dễ dàng, thế mà cha ông họ đã làm được để đưa nguồn nước từ xa đổ vào ruộng. Trong tay họ lúc đó chỉ có con dao với lưỡi mài bằng sắt tra cán gỗ, cùng với sự hiểu biết theo kinh nghiệm về nguyên tắc đòn bẩy, về lực tác động... thế mà họ đã thi công được các công trình về mương. Ngày nay do sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật hệ thống mương máng đã đưuộc bê tông hóa, từ dòng suối xa xa, người ta xây kè mương dẫn nước về ruộng đảm bảo tưới tiêu kịp thời. Tỉnh Sơn La hiện nay, 100% hệ thống mương phai đã được bê tông hóa. Đây là sự tiến bộ kĩ thuật góp phần làm tăng năng suất lao động đưa năng suất từ 3 - 4 tấn/ha lên 8 - 10 tấn/ha/vụ. Phai là một loại đập ngăn suối do người Thái dựng bằng gỗ, tre, nứa và đất để dâng nước đổ vào mương, chảy tới ruộng. Phai quyết định lượng nước trong mương. Phai vững thì mương có nước tưới cho ruộng và mùa màng đảm bảo thu hoạch tốt. Ngược lại, phai vỡ, mương, ruộng khô mùa màng thất bát. Vì vậy, người Thái có câu "...phai vỡ như cha chết" để nói lên tầm quan trọng của phai trong quá trình canh tác nông nghiệp ruộng nước. Ưu điểm nổi bật của phai là: lực nước càng đẩy mạnh sẽ càng làm tăng thêm sức nén chặt các tầng phai xuống và phai càng bám vào đáy sông suối. Như vậy trong lúc chưa biết dùng đến xi măng cốt thép để xây móng thì việc ken đập toàn bằng gỗ, tre theo kiểu phai là một thành tựu to lớn của hệ thống thủy lợi Thái. Phai cũng như mương là một trong những phương tiện quan trọng nhất đảm bảo cho việc làm ruộng nước. Bởi vậy tập quán của người Thái quy định mọi thành viên trong mường đều phải có nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ mương phai. Nghĩa vụ đắp phai, đào mương được quy định thành một khoảng "việc mường". Ở mỗi một mường đều có một viên "quan nà" và đội trực phiên của mường thường xuyên xem xét và sửa chữa mương phai... Cũng như mương, hiện nay phai phai thường được cây dựng bằng xi măng đá hoặc kè đá rất kiên cố. Lái bao gồm những phai của hệ thống cọn nước, đồng thời cũng bao gồm những phai phụ của phai chính dùng để ngăn nước ở các khúc mương hay bị vỡ, tiếp tục dâng nước mương lên cao cho chảy vào ruộng, dẫn nước mương chảy qua các chướng ngại vật to như tảng đá, cây cối... Lái cũng là những đoạn phai ngắn đắp ở đoạn cuối phía trên bờ lở để tránh nước xói mòn vùng bờ ruộng hoặc xói vào các điểm tựa cảu phai... Lín là hệ thống dẫn nước vào ruộng. Hệ thống này người Thái thường làm bằng các loại cây có dóng như tre, bương, vầu; thân gỗ đục hoặc vỏ cứng bên 16 ngoài như cây báng, cây móc. Máng cũng có nhiều loại và mỗi loại có tên gọi khác nhau. Mỗi máng có một tác dụng riêng như máng ngầm, ngắn gọi là "to" hay "áy" thường dùng để đưa nước vào các thửa ruộng sát mương, rút hết nước ở ruộng cao xuống ruộng thấp hoặc tháo toàn bộ nước của một thửa ruộng ra cho cạn... Bởi vậy loại máng này thường có nắp đậy để khi đóng thì giữ nước và khi mở thì tháo hết nước. Cũng có những máng dài tới hai, ba trăm mét dẫn nước từ trên cao xuống thấp để tưới vào ruộng cũng gọi là lín. Những máng bắc qua sông, suối phải đặt trên cầu treo thì gọi là "cuộm". Ống dẫn nước qua chướng ngại vật cao hơn nguồn nước áp dụng theo nguyên tắc lợi dụng lực đẩy của áp suất nước ở trên cao thì gọi là "lín cun"... Có thể thấy qua việc tạo ra hệ thống thủy lợi "mương, phai, lái, lín", người Thái đã tích lũy được một số kinh nghiệm để dẫn nước tưới vào ruộng theo phương pháp thủ công. Song do trình độ kỹ thuật còn kém phát triển dẫn đến đồng bào Thái còn nhiều bất lực trước những khó khăn về nước. Khó nhất vẫn là vấn đề đưa nước lên cao hoặc đưa nước đi xa qua nhiều chướng ngại vật khổng lồ. Bởi vậy, nhiều ruộng, nhiều bản lẽ ra có nhiều nước để dùng, để tưới mà không có. Cũng vì vậy mà có nhiều bản hoặc ruộng mang tên liên quan đến vấn đề khan nước như "bản phạ" (bản trời), "bản na lạnh" (bản ruộng hạn), "na hâu thả" (thửa ruộng chờ)... Tuy nhiên chính nhờ có những biện pháp thủy lợi thô sơ này đã góp phần ổn định đời sống của cư dân người Thái. Cùng với việc phát triển nông nghiệp ruộng lúa nước, người Thái dần ổn định nơi cư trú, lập bản, dựng mường và phát triển thành "mười sáu châu Thái" hùng mạnh. Cùng với làm ruộng nước, canh tác nương rẫy cũng là một nghề quan trọng, có nhiều tác dụng trong đời sống xưa nay của người Thái. Khác với ruộng chỉ độc canh cây lúa nước thì trên nương cho phép người ta mở rộng việc trồng trọt, có thể xen canh các loại cây trồng rất tốt, trồng được cả lúa cạn và các loại cây hoa màu khác như ngô, sắn, khoai, lạc, vừng... đặc biệt là trồng bông để giải quyết vấn đề mặc của đồng bào. Đây được xem là lợi thế của việc làm nương cổ truyền. Chính nhờ lợi thế đó mà đại bộ phận nông dân đã định canh, định cư với việc làm ruộng và thực hiện việc luân canh trên nương để tăng gia thêm của cải vật chất. Nương và ruộng do đó trở thành hai đối tượng lao động của cư dân Thái trong lĩnh vực sản xuất và tái sản xuất nông nghiệp. Nương của người Thái có nhiều loại: nương dốc, nương bằng, nương một vụ, nương hai vụ, nương lúa, nương ngô, nương bông... Song nếu rút lại phân theo loại hình kinh tế thì chỉ có thể có hai loại chính: dùng cày trên đất khô vì phải dùng đến sức kéo của đại gia súc như trâu và loại khá phổ biến hơn vẫn là nương dùng cuốc hoặc dùng tay. Theo lối làm ăn của người Thái xưa có những loại nương chuyên canh đồng thời xen canh như nương lúc thường trồng xen đậu, bầu, bí; nương bông trồng xen dưa; nương kê trồng xen vừng và dành một khoảng để trồng lạc; ngoài ra còn có nương sắn trồng xen ngô gối vụ... Hiện nay, nương của người Thái chủ yếu trồng ngô, khoai, sắn, cây màu, bí, khoai sọ... và được trồng theo thời vụ, đúng kĩ thuật, gieo trồng, làm cỏ, thu hoạch, phòng bệnh theo kĩ thuật mới. Việc thu hoạch sản phẩm trên nương vẫn theo phương pháp thủ công, dựa vào sức người là chính, tuy nhiên các khâu sơ chế 17 như tách hạt, phơi khô, vận chuyển, bảo quản đã được áp dụng kĩ thuật mới. Năng suất ngô hiện tại đạt 7 - 10 tấn/ha, tương đương thu nhập từ 30 - 40 triệu đồng/ha, tuy vậy việc đầu tư giống, phân bón, công lao động khá cao... nên nhìn chung hiệu quả thu nhập thực tế của người dân vẫn còn thấp. Bên cạnh đó, người Thái còn chú trọng canh tác vườn để trổng cây ăn quả, rau xanh phục vụ đời sống và phát triển kinh tế hộ gia đình. Sự xuất hiện nghề làm vườn mới của người Thái theo hướng thâm canh như có vườn rau chuyên sản xuất để bán bắt đầu xuất hiện từ sau những năm 1970 trở lại đây, khi mà người Thái học được nghề trồng cải bắp, trồng hành, trồng cà, trồng tỏi... của đồng bào miền xuôi lên xây dựng vùng kinh tế mới vì sống xen canh với đồng bào người Thái. Nghề làm vườn mới như trồng rau xanh có ý nghĩa như một cuộc cách mạng trong sản xuất rau của người Thái, từ năm 1976 - 1986 tại gia đình một người Thái ở Bản Nà Bó xã Mường Sang, Mộc Châu đã sản xuất mỗi năm hàng chục tấn rau bắp cải, su hào... để bán tại thị trấn Nông trường, thị trấn Mộc Châu. Tiếp đó, bà con Bản Cọ, xã Chiềng An, thị xã Sơn La trước đây đã hình thành nên hợp tác xã chuyên sản xuất rau xanh để bán phục vụ đô thị được phát triển. Đây là những yếu tố mới có tính chất cách mạng trong nghề làm vườn của người Thái. Họ trồng rau, thâm canh tưới, tỉa, bón phân chuồng, phân hóa học và thu hái đi bán như người xuôi vậy. Hiện nay, người Thái còn phát triển thêm nghề trồng nấm, trồng hoa cũng với mục đích để bán ra thị trường. Đối với vườn quả của người Thái trồng thành vườn cho thu hoạch có giá trị kinh tế bắt đầu phát triển từ những năm 1980 trở lại đây. Các cây ăn quả được trồng chủ yếu là mận, mơ, đào tại các địa phương Mộc Châu, Mai Sơn, thành phố Sơn La, Thuận Châu, Sông Mã mang lại thu nhập cao cho người dân. Một loại vườn, nương đồi mới xuất hiện từ những năm 1990 trở lại đây là vường đồi cà phê với diện tích toàn tỉnh trên 1.200 ha (báo cáo tại Hội thảo Cà phê năm 2012) đã cho đồng bào thu nhập khá cao. Cà phê được trồng từ năm 1994, diện tích lúc đầu khoảng 30 ha, qua các năm dần tăng lên, đến năm 2008 cả tỉnh đã có 698,7 ha, năm 2012 là 1.200 ha với bình quân gần 1 ha/hộ. Cà phê của người Thái Sơn La được trồng chủ yếu tại các địa phương Thuận Châu, thành phố Sơn La và Mai Sơn. Đây là ba huyện trong tỉnh có lượng cà phê lớn nhất và được Hội cà phê Việt Nam đánh giá là sản phẩm có chất lượng và ngon. Về kinh tế, cà phê là loại cây công nghiệp có giá trị cao nhất trong những năm gần đây. Có thể nhận thấy, người Thái ngày nay đã biết cải tạo vườn tạp thành vườn thâm canh, có tác động khoa học kĩ thuật và tạo được nhiều loại vườn có giá trị kinh tế như vườn rau chuyên canh, vườn cây ăn quả, vườn đồi cà phê. Các loại vườn mới đã có tác động tốt trong việc nâng cao đời sống và thu nhập cho đồng bào Thái nhưng không phá vỡ tập quán truyền thống văn hóa dân tộc. Nghề thủ công của người Thái rất phong phú, phát triển đạt trình độ cao. Các nghề thủ công truyền thống phải kể đến đó là nghề dệt, nghề đan lát và một số nghề thủ công khác đã tồn tại trong truyền thống, tồn tại hiện tại và có những phát triển ở giai đoạn tiếp theo. Phổ biến trong các gia đình người Thái xưa kia là nghề đan lát mây tre để tạo ra các sản phẩm thủ công sử dụng trong cuộc sống 18 hàng ngày như nong, nia, dần, sàng, mặt bàn, mặt ghế… Ngày nay, dưới tác động của khoa học kĩ thuật làm tăng năng suất, tăng lao động cũng đã tác động làm thay đổi nghề đan lát của bản Thái. Hiện chỉ còn một số cụ già trong bản còn biết đan lát một số đồ dùng trong gia đình như đan ép khảu, đan ghế mây, đan mâm, ấp, xá… đồng thời nhiều sản phẩm đan lát thủ công truyền thống trong các gia đình cũng dần được thay thế bằng các sản phẩm công nghiệp khác như túi nhựa, túi ni lông, bao tải… được mua từ chợ về hoặc cái bem trước đây nay đã được thay thế bằng những hòm, những tủ đựng rất đẹp mắt. Nghề dệt cũng là một nghề thủ công truyền thống và đạt đến trình độ phát triển cao cảu người Thái. Nghề dệt gắn liền với người phụ nữ Thái. Tục ngữ Thái có câu “xấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá”. Nếp sống xưa cho rằng biết làm vải thì mới là phụ nữ, bằng không thì cho dù người phụ nữ đó có chăm chỉ mọi việc khác đến đâu cũng bị xã hội cho là chây lười, thường thì sẽ không có ai muốn lấy làm vợ. Người đàn bà sành nghề làm vải thì được bản mường tặng danh hiệu “đàn bà tám cạnh sắc nét”. Điều đó cho thấy, kéo sợi, dệt vải đã trở thành thước đo chuẩn mực của người phụ nữ Thái trong xã hội trước đây. Sản phẩm của nghề dệt rất đa dạng. Từ đôi bàn tay khéo léo của mình, người phụ nữ Thái đã tạo ra các sản phảm phẩm độc đáo như khăn piêu, túi thổ cẩm, vỏ chăn khít, mặt gối, vải trắng, vải màu kẻ ca rô và nhiều sản phẩm khác… hiện nay tại một số địa phương như Yên Châu, Mộc Châu, thành phố Sơn La, Thuận Châu… nghề dệt thổ cẩm vẫn còn tồn tại nhưng số lượng hộ còn duy trì nghề này không nhiều vì công nghệ dệt thủ công quá cũ, giá thành cao không đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của Trung quốc nhập vào thị trường. Ngoài ra, người Thái còn có một số nghề thủ công mang tính chuyên nghiệp khác như nghề làm nông cụ cuốc, xẻng, dao, kéo… Người Thái còn biết dùng bàn xoay, độ nung cao trong nghề làm gốm tạo thành các chum, vại, nồi, chõ đất, bát đĩa đạt đến trình độ mĩ thuật và kĩ thuật. Người Thái trước đây có tập quán nuôi trâu thả rông trong những Púng rào giậu kín, tự chúng sống, sinh đẻ, đến mùa mới bắt trâu về kéo cày. Nay họ đã nuôi trâu theo gia đình, có chuồng trại riêng. Việc chăn nuôi gà, lợn, ngan, ngỗng cũng rất phát triển. Vật nuôi vừa trở thành hàng hoá, vừa để sử dụng trong các dịp lễ tết. Kinh tế hái lượm vẫn chiếm một địa vị đáng kể trong đời sống của người Thái. Rừng cung cấp các loại rau, quả, hạt. các loại thú lớn nhỏ. Rừng còn cho các loại cây thuốc, tre, nứa, gỗ… Các khe suối cho tôm, cua, cá, ốc, các khe suối lớn cho cá to. Họ còn có thói quen nuôi cá trong ruộng lúa, ngày nay họ nuôi cá trong lồng dọc theo hai bên các dòng sông. Nhìn chung có thể nhận thấy, kinh tế của người Thái ngày nay đã có những bước phát triển đáng kể. Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, mang tính chất tự cấp tự túc trong các bản mường, hiện nay người Thái đã bắt đầu áp dụng khoa học kĩ thuật vào quá trình sản xuất, tích cực tham gia vào nền kinh tế thị trường, mở rộng các mối quan hệ giao thương hàng hoá với các vùng miền trong cả nước và các dân tộc lân cận trong miền. Kinh tế hộ gia đình nói riêng 19 và kinh tế của cộng đồng người Thái nói chung từng bước phát triển, đảm bảo cho đời sống người dân ngày một nâng cao. 1.2.3.2. Đặc điểm xã hội. Người Thái là tộc người có thiết chế xã hội khá phát triển trong xã hội truyền thống. Cộng đồng người Thái trong xã hội cổ truyền được tổ chức từ gia đình – dòng họ - bản – mường (chiềng) – châu mường (chiềng). Đó là mô hình tổ chức xã hội đạt trình độ khá cao mà không phải dân tộc nào ở nước ta trong xã hội truyền thống cũng có. Thiết chế xã hội đầu tiên phải kể đến đó là gia đình, trong xã hội của người Thái hôn nhân theo kiểu phụ hệ, nguyên tắc cơ bản trong hôn nhân là ngoại hôn dòng họ và hôn nhân một vợ một chồng bền vững. Gia đình của người Thái trước năm 1954 tồn tại phổ biến hình thái tàn dư của chế độ đại gia đình – nhiều thế hệ chung sống trong một ngôi nhà sàn lớn, làm chung, ăn chung… Sau năm 1954 đến nay gia đình cộng đồng người Thái chủ yếu là gia đình hạt nhân ( một vợ một chồng). Cơ cấu, sự vận hành gia đình của người Thái thể hiện sự bình đẳng, tôn trọng nhau giữa các thành viên. Phụ nữ Thái trong gia đình được tôn trọng và chủ yếu làm các công việc là nội trợ và sản xuất. Nam giới tham gia các công tác xã hội nhiều hơn. Có thể nói hôn nhân và gia đình của người Thái đã có sự chuyển đổi theo chế độ và theo pháp luật mới, đảm bảo sự hội nhập và tồn tại hài hòa giữ yếu tố mới và bản sắc tộc người. Thiết chế xã hội thứ hai cần đề cập tới là quan hệ dòng họ. Dòng họ của người Thái cũng mang yếu tố gia đình lớn. Dòng họ là tập hợp người theo quan hệ dòng máu và cùng ý thức về cùng một gốc tổ tiên trước đây. Đến nay dòng họ của người Thái vẫn tồn tại với phương thức là tính cố kết cộng đồng bền chặt. Mỗi một dòng họ Thái thường có liên quan đến một “vật tổ” (totem), vật tổ đó có thể liên quan đến một loài vật hoặc một vật vô tri vô giác đó hoặc hoặc một hành động gì trùng tên với dòng họ. Ví dụ họ Lò kiêng giết, ăn thịt chim Táng Lò, không ăn măng lò; họ Quàng kiêng giết, ăn thịt Hổ; họ Cà kiêng giết, ăm thịt chim cốt ca… Người Thái có ba mối quan hệ về họ hàng, đây là nét đặt trưng và thể hiện sức sống lâu bền tạo nên tính cố kết cộng đồng quan trọng qua thời gian và các thời đại lịch sử, những quan hệ đó đó gồm: Ải noọng gồm những thành viên nam của từng dòng họ cùng tổ tiên, cùng thế hệ được quan hệ hôn nhân với những người con gái thuộc những dòng họ đã quy định. Lúng ta là thành viên nam của dòng họ có quan hệ hôn nhân với thành viên nam của Ải noọng, tức là con gái về làm dâu bên Ải noọng. Nhính xao là những thành viên nam của những dòng họ có quan hệ hôn nhân với thành viên gái của Ải noọng, tức là con trai về làm rể bên Ải noọng. Mối quan hệ trên nhấn mạnh đến quan hệ và cố kết của các thành viên nam trong cộng đồng dòng họ xoay quanh cái trục hôn nhân . Có thể nói đây là nét rất đặc trưng của cộng đồng Thái trong quan hệ hôn nhân, quan hệ xã hội – một trong những thành tố quan trọng tạo nên sức sống lâu bền của tộc người bên cạnh những giá trị văn hóa khác. 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan