Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ,
công chức xã từ nay đến năm 2020
Đến nay đội ngũ Cán bộ xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp
chiếm 55,94%; trình độ trung cấp lý luận chính trị chiếm 68,35%; Công chức
xã có trình độ chuyên môn từ trung chiếm 89,44%; trình độ chính trị sơ
chiếm 39,15%, so với 2005 tăng 14,05%; Những người họat động không
chuyên
trách
xã có
trình
độ chuyên
môn:
từ
sơ
cấp
trở
lên chiếm 29,96%, trình độ chính trị: từ sơ cấp trở lên chiếm 5,51%.
I. Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các xã nông
thôn:
Địa bàn nông thôn tỉnh Kiên Giang khá rộng (118/145 xã, phường, thị
trấn), có vị trí chiến lược về kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng, là nhân tố
quyết định cho nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của tỉnh được bền vững. Thực
hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) “Về đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở đảng xã, phường, thị trấn”; Nghị quyết Trung
ương 7 (khoá X), về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Nghị định 92/2010/ NĐCP của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên
trách ở xã…Thực trạng về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã nông thôn
ngày phát triển nâng lên toàn diện, trên các mặt, như sau:
HĐND xã nhiệm kỳ (2011-2016), tổng số 3.650 Đại biểu. Trong đó cơ
cấu nữ tăng 5,35%, tôn giáo tăng 1,91%; độ tuổi dưới 35 tăng 3,01%, tuổi 35 đến
50 giảm 4,48%. Trình độ chính trị: sơ cấp giãm 1,18%, trung cấp tăng 7,25%, cao
cấp Đại học tăng 2,26% . Trình độ chuyên môn: sơ cấp giãm 3,5%, trung cấp tăng
24,22%, cao đẳng Đại học tăng 8,72%, so với nhiệm kỳ (2004-2011).
UBND xã nhiệm kỳ (2011–2016), tổng số 670 thành viên, cơ cấu nữ
tăng 1,4%, tuổi dưới 35 tăng 4,05%, tuổi trên 35-50 giãm 3,3%. Trình độ chính trị:
sơ cấp giãm 1,29%, cao cấp Đại học tăng 1,34%. Trình độ chuyên môn: sơ cấp
giãm 0,66%, sau Đại học tăng 0,62%, so với nhiệm kỳ (2004-2011).
Về thực hiện Nghị định 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ, tỉnh đã căn cứ
vào dân số, diện tích, địa hình (biên giới, hải đảo), bố trí xã loại I: 25 người có 102
đơn vị; xã loại II: 23 người, có 42 đơn vị; xã loại III: 21 người, có 1 đơn vị; Những
người hoạt động không chuyên trách xã loại I: 22 người, xã loại II: 20 người xã
loại III:19 người. Tổng số cán bộ, công chức cấp xã bố trí theo Nghị định số 92 là:
3.526 người (cán bộ: 1.740 người; công chức: 1.786 người); những người hoạt
động không chuyên trách xã 4.496 người. Tổng số cán bộ, công chức cấp xã là
2.906 người; cán bộ không chuyên trách xã, ấp, khu phố là 14.179 người, trong đó
(xã: 4.189 người; ấp, khu phố: 9.990 người). Tăng chung là 1.037 người so với
thực hiện Nghị định 121/2003/NĐ-CP của Chính phủ.
Thực hiện Nghị định số 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ,
công chức xã, phường, thị trấn; UBND tỉnh ban hành Quyết định số 12/2008/QĐUBND ngày 14/3/2008 về Quy chế tuyển dụng, quản lý, sử dụng cán bộ, công
chức xã, phường, thị trấn. Từ năm 2009 đến nay đã tuyển dụng 669 công chức (Đại
học 42; Cao đẳng 28; Trung cấp 599). Đi đôi với việc tuyển dụng công chức xã;
Hội đồng nhân dân tỉnh (khóa VIII) đã ra Nghị quyết 51/2007/NQ-HĐND, ngày
01-7-2007, theo đó Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 25/2007/QĐUBND, ngày 27-7-2007 “Về chính sách trợ cấp đối với cán bộ xã, phường, thị trấn
nghỉ việc và nghỉ hưu trước tuổi”, đã giải quyết 2.216 người (cán bộ: 178; công
chức: 29; những người hoạt động không chuyên trách cấp xã: 376; những người
hoạt động không chuyên trách ấp, khu phố 1.633 trường hợp), với tổng kinh phí
chi trả: 26.379.316.098 đồng. Kết quả đó đã góp phần nâng lên một bước về chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã và những người hoạt động không chuyên trách xã,
ấp.
Thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 về việc phê
duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đọan 2006-2010; Quyết
định 1956/QĐ-TTg của Chính phủ ngày 27/11/2009 về phê duyệt “Đề án đào tạo
nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020” của Thủ tướng Chính phủ. UBND
tỉnh ban hành kế hoạch số 46/KH-UBND ngày 15/9/2006 về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức của tỉnh giai đoạn 2006-2010, Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ công chức tỉnh giai đoạn 2011-2015, Phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực
tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011-2020. Đến nay Cán bộ xã có trình độ chuyên môn
từ trung cấp chiếm 55,94% so với năm 2005 tăng 34,66%; trình độ trung cấp lý
luận chính trị chiếm 68,35%, so với năm 2005 tăng 10,71%; Công chức xã có trình
độ chuyên môn từ trung chiếm 89,44%, so với năm 2005 tăng 45,69%; trình độ
chính trị sơ chiếm 39,15%, so với 2005 tăng 14,05%; Những người họat động
không
chuyên
trách
xã có
trình
độ chuyên
môn:
từ
sơ
cấp
trở
lên chiếm 29,96%, trình độ chính trị: từ sơ cấp trở lên chiếm 5,51%.
Nhìn chung, công tác tuyển dụng; đào tạo, bồi dưỡng; thực hiện chính
sách đối với cán bộ, công chức cấp xã, đã được các cấp uỷ Đảng, chính quyền quan
tâm chỉ đạo, thực hiện, từ đó về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã từng
bước được nâng lên, ngày càng đáp ứng tốt hơn về tiêu chuẩn hoá cán bộ và hiệu
quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Nguồn cán bộ giử chức vụ bầu cử phần
lớn là người tại chổ, cũng là cán bộ nguồn bổ sung cho cấp huyện. Số lượng và chế
độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã có nhiều thuận lợi so với trước,
được sự đồng tình nhất trí cao nhất là chế độ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội đối
với những người hoạt động không chuyên trách cấp xã, đại bộ phận cán bộ, công
chức cơ sở an tâm phấn khởi, hoàn thành nhiệm vụ chính trị địa phương.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có mặt tồn tại, hạn chế là:
- Chính sách đải ngộ đối với cán bộ cơ sở còn nhiều bất hợp lý: đối với
những người hoạt động không chuyên trách cấp xã hưởng mức phụ cấp quy định
không quá 1,00 lần so với mức lương tối thiểu chung như hiện nay là quá thấp; một
số chức danh Trưởng các Ban Đảng không là công chức là chưa phù hợp; từ đó
chưa động viên cán bộ cơ sở yên tâm công tác; chính sách thu hút, chưa khuyến
khích được cán bộ, công chức giỏi, sinh viên có trình độ chuyên môn cao về công
tác ở cơ sở.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng tuy có nhiều cố gắng nhưng còn chạy theo
số lượng (một số địa phương, đơn vị chưa cử đúng đối tượng, nhu cầu, chuyên
ngành cần đào tạo), chưa cân đối giữa đào tạo với sử dụng, chưa quản lý chặt che
đội ngũ cán bộ dự nguồn sau đào tạo (hiện nay còn nhiều trường hợp được cử đi
đào tạo tại các trường trung cấp và đại học đã tốt nghiệp chưa được bố trí công
việc theo quy hoạch), chưa có kế hoạch cụ thể để thực hiện tốt quá trình chuyển
đổi các thế hệ cán bộ cấp xã.
- Nội dung và chất lượng đào tạo (nhất là hệ tại chức) chưa cao; một số
cán bộ, công chức cấp xã có hiện tượng học nhằm hợp thức hoá bằng cấp. Việc đào
tạo lại đội ngũ cán bộ cấp cơ sở chưa được thực hiện đồng bộ về mọi mặt, mới chỉ
đào tạo về lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ mà chưa chú ý bồi dưỡng về
kỹ năng quản lý điều hành, tổ chức thực hiện, nhất là xử lý những tình huống khó
khăn ở cơ sở; phương thức đào tạo chưa đa dạng hoá.
- Trong quy hoạch cán bộ cơ sở, mới chỉ dừng lại ở các chức danh cán
bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt mà chưa chú ý đến các chức danh khác và đội ngũ
làm công tác chuyên môn, còn 44,1% cán bộ cấp xã chưa qua đào tạo trung cấp
chuyên môn; 31,65% chưa qua đào tạo lý luận chính trị sơ cấp; 10,55% công chức
chưa qua đào tạo từ trung cấp chuyên môn; 60,84% công chức chưa qua đào tạo lý
luận chính trị sơ cấp. Riêng những người họat động không chuyên trách cấp xã
chưa qua đào tạo lý luận chính trị: 94,49%; chưa qua đào tạo chuyên
môn: 70,04%; không chuyên trách ấp, khu phố chưa qua đào tạo chính
trị: 85,85% và chuyên môn chiếm95,59% (do chưa tốt nghiệp trung học phổ
thông).
Từ đó công tác chỉ đạo, điều hành một số nơi còn bọc lộ yếu kém về
năng lực, trình độ, nhất là việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước vào tình hình cụ thể địa phương còn lúng túng, chưa đủ sức giải
quyết những vấn đề nảy sinh phức tạp theo thẩm quyền, tính tự chủ trong công
việc còn hạn chế.
* Nguyên nhân tồn tại:
- Một số cấp ủy Đảng, chính quyền cơ sở chưa coi trọng đúng mức công
tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở nên một số chỉ
tiêu theo tiêu chuẩn quy định đạt thấp.
- Cán bộ chủ yếu vừa học vừa làm nên thời gian học tập trung không
nhiều; một số cán bộ cơ sở, nhất là cán bộ là người dân tộc thiểu số, vùng sâu,
vùng khó khăn, xa trung tâm, những cán bộ đã có tuổi còn có tâm lý ngại đi học,
nên ảnh hưởng đến công tác tuyển sinh đào tạo. Mặt khác do hoàn cảnh kinh tế gia
đình của không ít cán bộ còn khó khăn cũng ảnh hưởng nhiều tới việc học tập của
cán bộ.
- Một số cơ sở cán bộ có trình độ giáo dục phổ thông, chuyên môn,
nghiệp vụ, lý luận chính trị còn thấp và thiếu đồng đều giữa các địa phương nên
việc bố trí cùng lúc nhiều cán bộ đi đào tạo còn khó khăn.
- Giáo trình đào tạo tuy đã được cải tiến song vẫn chưa thật phù hợp với
đối tượng cán bộ cơ sở.
- Chế độ chính sách cho cán bộ được cử đi đào tạo, bồi dưỡng tuy
đã được điều chỉnh, bổ sung, nâng cao hơn so với trước, song còn thấp và chưa phù
hợp với giá cả của thị trường hiện nay.
- Công tác sử dụng sau đào tạo còn hạn chế, một số cán bộ dự nguồn
được cử đi đào tạo đã tốt nghiệp trở về địa phương nhưng chưa được bố trí, sử
dụng, vì số cán bộ hiện đang công tác chưa đủ tuổi nghỉ hưu nên chưa thể thay thế,
cá biệt có nơi còn hiện tượng cục bộ địa phương.
II. Một số nhiệm vụ, giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ, công
chức xã đảm bảo thực hiện chương trình, mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010-2020 như sau:
Một là, Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền cơ sở về nhiệm
vụ xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Cần có kế hoạch “dài hơi” để xây
dựng chiến lược cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý bao gồm các chức danh
Bí thư, Chủ tịch HĐND, UBND cấp xã, tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ hiện có, chú trọng tạo nguồn để bổ sung vào bộ máy cấp uỷ, chính quyền cơ sở.
Hai là, Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng theo từng nhóm chức danh,
làm cơ sở cho việc sắp xếp bố trí và xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo sử dụng
cán bộ. Thường xuyên rà soát, định kỳ, hàng năm tiến hành công tác đào tạo bồi
dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, bồi dưỡng phù
hợp với từng đối tượng theo chức danh; khuyến khích cán bộ, công chức tự học, tự
đào tạo để nâng cao trình độ. Đào tạo cán bộ, công chức phải căn cứ vào quy
hoạch, tiêu chuẩn chức danh và nhu cầu bố trí, sử dụng cán bộ, công chức. Đối với
số cán bộ, công chức tre có triển vọng, lớp tạo nguồn cần phải đào tạo cơ bản, toàn
diện để có kiến thức cơ bản, có năng lực thực tiễn và có kỹ năng thực hành để đáp
ứng yêu cầu về lâu dài.
Ba là, Cần tre hoá đội ngũ cán bộ ở cơ sở, ưu tiên tuyển dụng công chức
xã là người ở địa phương, con em dân tộc trên địa bàn có trình độ chuyên môn cao,
tình nguyện về công tác tại địa phương. Xây dựng kế hoạch luân chuyển, tăng
cường cán bộ tỉnh, huyện về những cơ sở còn yếu kém hoặc có nhiều cán bộ chưa
được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ để tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ này đi
đào tạo. Cần có chính sách, cơ chế cụ thể, đồng bộ trong việc tạo nguồn cán bộ cơ
sở tại chỗ và thu hút cán bộ tre có trình độ bậc đại học chính quy, có chuyên ngành
phù hợp về công tác ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải
đảo,xem đây là việc rèn luyện thực tế sau học tập, là thời gian tập sự, thử thách để
sinh viên trở thành cán bộ, công chức, là nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
tương lai.
Bốn là, Các trường Cao Đẳng, trường Chính trị tỉnh và Trung tâm bồi
dưỡng chính trị các huyện, thị, thành cần nghiên cứu đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp đào tạo, tập trung đào tạo đối tượng là cán bộ chủ chốt theo
hướng lòng ghép, kết hợp giữa đào tạo chuyên môn, với lý luận chính trị, quản lý
nhà nước, tinh học và kỷ năng hành chính. Hướng việc đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực gắn với tạo nguồn cán bộ để bổ sung, thay thế, xây dựng nguồn nhân lực
tại chỗ, trong đó đặt biệt chú ý con em ở địa phương không có điều kiện đi học xa,
bộ đội hoàn thành nghĩa vụ quân sự xuất ngũ, tình nguyện về công tác tại địa
phương đạt tiêu chuẩn được lựa chọn đi đào tạo về lý luận chính chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ và QLNN để bố trí bổ sung cho đội ngũ cán bộ xã. Việc tuyển,
chọn người đi đào tạo phải đảm bảo đúng đối tượng, đúng địa chỉ, trong quy
hoạch, đồng thời cần đánh giá, kết quả sử dụng cán bộ, công chức xã sau đào tạo,
để bổ sung giáo trình đào tạo cán bộ cơ sở cho phù hợp.
Năm là, Tỉnh cần tăng cường kinh phí cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức cấp xã trong những năm tới, có chế độ ưu tiên đãi ngộ đặc biệt dành
riêng cho cán bộ, công chức dân tộc thiểu số đi học, đặc biệt ưu tiên cho việc đào
tạo cán bộ nguồn, cán bộ vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, nhằm động
viên họ yên tâm học tập để nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo và quản lý, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Sáu là, Bổ sung hoàn thiện quy chế, quy trình đánh giá, nhận xét quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử,
thực hiện tốt chính sách đối với cán bộ... nguồn quy hoạch cán bộ tre từ 25-30 tuổi
đạt từ 30%, nử đạt 20%, cán bộ trình độ kỷ thuật, chuyên môn đạt 20%, trở lên.
Đến 2020 có 100% cán bộ, công chức xã đạt chuẩn (trong đó 50% cán bộ, công
chức có trình độ cao đẳng, đại học); 100% cán bộ xã biết sử dụng máy vi tính, từng
bước thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu kém về năng lực, trình độ,
không đủ uy tín để thực hiện nhiệm vụ. Đồng thời, cần giải quyết thỏa đáng chính
sách, chế độ đối với cán bộ cấp tỉnh, huyện được tăng cường về cơ sở, kể cả chế độ
phụ cấp, khen thưởng, đề bạt, đào tạo bồi dưỡng...
* Đề xuất, kiến nghị:
1. Trung ương nghiên cứu có cơ chế tăng thêm 01 Phó Bí thư; 01 Phó
Chủ tịch cấp xã so với quy định chung hiện nay đối với những xã vùng sâu, vùng
xa, biên giới, hải đảo, những xã có địa bàn rộng, có đông dân tộc để thực hiện kế
hoạch rèn luyện và phục vụ công tác luân chuyển, đào tạo cán bộ theo quy hoạch.
2. Trung ương cho phép tăng thêm số lượng mỗi xã 2 biên chế công chức
dự bị để phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cơ sở và công tác tăng cường
cán bộ về cơ sở để rèn luyện thực tiễn.
3. Trung ương nghiên cứu ban hành chính sách đầu ra cho các đối
tượng là cán bộ, công chức cấp xã được nghỉ công tác trước tuổi, nhằm từng bước
tre hoá, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã./.
- Xem thêm -