Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng và biện pháp khắc phục lạm phát ở việt nam ...

Tài liệu Thực trạng và biện pháp khắc phục lạm phát ở việt nam

.PDF
26
151
53

Mô tả:

Lời mở đầu 1. Giới thiệu chung về lạm phát Cơ chế thị trường đã rung lên hồi chuông cảnh báo bao sự thay đổi của nền kinh tế Việt Nam trong những thập niên gần đây. Trong nền kinh tế thị trường hoạt động đầy sôi động và cạnh tranh gây gắt để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường. Các nhà kinh tế cũng như các doanh nghiệp phải nhanh chóng tiếp cận, nắm bắt những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vân đề cần có để kinh doanh còn là những vấn đề nổi cộm khác trong kinh tế. Một trong những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát như một căn bệnh của nền kinh tế thị trường, nó là vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong mốn đặt được kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân,đến đời sống xã hội đặc biệt là giới lao động. Nét đặc trưng của thực trạng nền kinh tế có lạm phá, giá cả hầu hết các hang hóa đều tăng cao và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh. Ở nước ta, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20. Lạm phát diễn ra nghiêm trọng và kéo dài. Phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế - xã hội mà nguồn gốc của nó là do hậu quả nặng nề của chiến tranh, cơ cấu kinh tế bất hợp lý kéo dài. Trong thời gian gần đây, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và đế xuất phương án khác phục. Và ở nước ta hiện nay, chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát triển ổn định, cân đối là mục tiêu rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. 2. Sự cần thiết phải phân tích lạm phát Trước hết ta nói về ảnh hưởng của lạm phát. Nhìn chung, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều lợi bên cạnh những tác hại không đáng kể; còn lạm phát cao và siêu lạm phát gây ra những tác hại nghiêm trọng đối với kinh tế và đời sống. Tác động của lạm phát còn tùy thuộc vào lạm phát đó có dự đoán trước được hay không, nghĩa là công chúng và các thể chế có tiên tri được mức độ lạm phát hay sự thay đổi mức độ lạm phát là một điều bất ngờ. Nếu như lạm phát hoàn toàn có thể dự đoán trước được thì lạm phát không gây nên gánh nặng kinh tế lớn bởi người ta có thể có những giải pháp để thích nghi với nó. Lạm phát không dự đoán trước được sẽ dẫn đến những đầu tư sai lầm và phân phối lại thu nhập một cách ngẫu nhiên làm mất tinh thần và sinh lực của nền kinh tế. Tác động phân phối lại thu nhập và của cải 1 Tác động chính của lạm phát về mặt phân phối phát sinh từ những loại khác nhau trong các loại tài sản và nợ nần của nhân dân. Khi lạm phát xảy ra, những ngươi có tài sản, những người đang vay nợ là có lợi vì giá cả của các loại tài sản nói chung đều tăng lên, con giá trị đồng tiền thì giảm xuống. Ngược lại, những người làm công ăn lương, những người gửi tiền, những người cho vay là bị thiệt hại Tác động đến phát triển kinh tế và việc làm Trong điều kiện nền kinh tế chưa dạt đến mức toàn dụng, lạm phát vừa phải thúc đẩy sự phát triển kinh tế vì nó có tác dụng làm tăng khối tiền tệ trong lưu thông, cung cấp thêm vốn cho các đơn vị sản suất kinh doanh, kích thích sự tiêu dùng của chính phủ và nhân dân. Giữa lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ nghịch biến: khi lạm phát tăng lên thì thất nghiệp giảm xuống và ngược lại khi thất nghiệp giảm xuống thì lạm phát tăng lên. Nhà linh tế học A.W. Phillips đã đưa ra “Lý thuyết đánh đổi giữa lạm phát và việc làm”, theo đó một nước có thể mua một mức độ thất nghiệp tháp hơn nếu sẵn sàng trả giá bằng một tỷ lệ lạm phát cao hơn. Các tác động khác Vì vậy phân tích, nghiên cứu lạm phát là một điều tất yếu, cần thiết, cấp bách. 2 CHƯƠNG I. CÁC LÝ THUYẾT CHUNG VỀ LẠM PHÁT 1. Các khái niệm về lạm phát - Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi cá yêu cầu của các quy luật kinh tế hang hóa không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thong tiền tệ. Ở đâu còn sản xuất hàng hóa, còn tồn tại những quan hệ hàng hóa tiền tệ thì ở đó ẩn nấu khả năng lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu thông tiền tệ bị vi phạm. - Trong bộ “Tư bản” nổi tiếng của mình C.Mác viết: “việc phát hành tiền giấy phải được giới hạn ở số lượng vàng hoặc bặc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình”. Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do nhà nước phát hành vào lưu thông vượt quá số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống và tình trạng lạm phát xuất hiện. - Theo các nhà kinh tế học hiện đại: “Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”. Định nghĩa này được sử dụng rộng rãi trên thị trường. Lạm phát được đặc trưng bởi chỉ số lạm phát. Nó chính là GNP danh nghĩa/ GNP thực tế. trong thực tế nó được thay thế bằng chỉ số giá tiêu dung hoặc chỉ số bán buôn Ip = ip.d ip: chỉ số giá của từng loại nhóm hàng d: tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng 2. Tác động của lạm phát 2.1 Tác động đến lĩnh vực sản suất Đối với nhà sản xuất, tỷ lệ lạm phát cao làm cho giá đầu vào và đầu ra biến động không ngừng, gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của đồng tiền làm vô hiệu quả hoạt động hạch toán kinh doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh ở một vài xí nghiệp có thể thay đổi, gây ra những xáo động về kinh tế. Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn. Tuy nhiên, xét ở một góc độ nào đó, khi tỉ lệ lạm phát thấp, không ảnh hưởng đế nền kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các 3 doanh nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng kích thích tiêu dung, cầu tiêu dùng tăng lên do đó hàng hóa bán chạy làm sản lượng tăng 2.2 Tác động đến lĩnh vực lưu thông Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa. Các nhà doanh nghiệp thấy rằng khi lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sán xuất sẽ gặp rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào quá trình lưu thông nên lĩnh vực này trở nên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán xong lại nhanh chóng bị đẩy ra khỏi kênh lưu thông, tốc độ lưu thông tăng vọt thúc đẩy lạm phát gia tăng. Người giầu thùa tiền dùng tiền vơ vét, thu gom hàng hóa, tài sản làm mất cân đối cung- cầu hàng hóa, giá cả hàng hóa tăng lên làm lạm phát gia tăng 2.3 Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều. Về phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với sự sụt giá của đồng tiền quá nhanh, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an tâm những người đang có lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Về phía người đi vay, họ là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền. Do vậy, hoạt động của hệ thống ngân hàng không còn bình thường nữa mà lâm vào khủng hoảng. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, các chức năng của tiền tệ không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát chẳng có ai tích trữ tiền mặt. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động vốn, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lãi suất ổn định mà lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, vậy muốn giữ lãi suất ổn định thì lãi suấy danh nghĩa cùng một tỉ lệ với tỷ lệ lạm phát. Trong khi đó người đi vay lại thấy có lợi lớn nhờ sự mất giá nhanh chóng của đồng tiền nên đi vây nhiều hơn. Do vậy hoạt động của ngân hàng không còn cân bằng nữa. Chức năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế bởi khi có lạm phát không ai muốn tích trữ tiền dưới hình thức tiền mặt nữa. 2.4 Tác động đến cán cân ngân sách - chính của Nhà nước Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa, khi lạm phát xảy ra những thông tin trong xã hội bị phá hủy do biến động giá cả làm cho thị trường bị rối loạn. Người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và kém. Đồng thời, lạm phát làm cho nhà nước thiếu vốn, do đó nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho phúc lợi, an sinh xã hội… các ngành, các 4 lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư và hỗ trợ vốn bị thu hẹp lại hoặc không có. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện được. Như vậy, lạm phát đã ảnh hưởng đế mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, tuy nhiên không nên chỉ nhìn nhận mặt tiêu cực của vấn đề, ở đây cũng vậy, cần thấy rằng, lạm phát vừa phải có thể đem lại những điều kiện thuận lợi góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bên cạnh những tác hại không đáng kể. Vì vậy, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát là bài toán luôn thường trực trên bàn nghị sự của các Chính phủ nhưng cũng khó giải nhất đối với tất cả các nền kinh tế, kể cả nền kinh tế thị trường phát tiển. Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. 3. Phân loại lạm phát Có nhiều cách khác nhau để phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có cách phân loại khác nhau Căn cứ vào định lượng: - Lạm phát vừa phải: Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10%/năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này nền kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động được ổn định. Những tác động của lạm phát này là không đáng kể vì vậy nó thường được các nước duy trì để thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Lạm phát phi mã: Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số trong một năm. Lạm phát này sẽ làm cho giá cả tăng nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế. Lúc này người dân tich trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và không cho vay với mức lãi suất bình thường, ngân hàng không huy động được vốn… Lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập, là mối đe dọa đối với sự ổn định của nền khinh tế- xã hội. - Siêu lạm phát: 3 con số 1 năm, lạm phát xảy ra khi giá cả hàng hóa tăng lên với tốc độ rất nhanh. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã. Lạm phát này làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh chóng: tiền lương thực tế giảm mạnh, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng, hoạt động sản xuất kinh doanh lâm vào tình trạng bị rối loạn, mất phương hướng Căn cứ vào định tính 5 - Lạm phát cân bằng: giá cả tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động, tăng phù hợp với hoạt động sản xuất hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và đến nền kinh tế nói chung. - Lạm phát không cân bằng: Giá cả tăng không tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động - Lạm phát dự đoán trước được: là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời ký tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo. Về mặt tâm lý, người dân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước, nên lạm phát này không gây ảnh hưởng đến đời sống – kinh tế. - Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước đến giờ chưa xuất hiện. Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi. Từ đó, loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin của người dân vào chính quyền có phần giảm sút. 4. Nguyên nhân gây ra lạm phát 4.1 Lạm phát do cầu kéo (Demand pull – inflation): Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung - cầu. Nguyên nhân dẫn đến việc tăng cầu hoặc hàng hóa dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. Áp lực lạm phát sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. 4.2 Lạm phát do chi phí đẩy (cost push- inflation): Lạm phát này phát sinh khi chi phí gia tăng một cách độc lập với tổng cầu. Ta có một số trường hợp chi phí đẩy: - Chi phí tiền lương: tiền lương gia tăng do áp lực từ chính sách tăng lương của chính phủ, từ áp lực của công đoàn… Cần lưu ý trường hợp tiền lương tăng lên do sức ép của thị trường, do nhu cầu mở rộng của doanh nghiệp thì chỉ được xem là lạm phát do cầu kéo. 6 - Lợi nhuận: nếu doanh nghiệp thuộc loại có quyền lực trên thị trường (doanh nghiệp độc quyền, nhóm độc quyền), để nhằm mục tiêu kiếm lợi nhuận cao, doanh nghiệp sẽ đẩy giá tăng lên độc lập với tổng cầu. - Nguồn tài nguyên cạn kiệt: khi các nguồn tài nguyên bị khai thác ngày càng cạn kiệt thì tất yếu sẽ làm cho giá cả dần tăng lên, gia tăng chi phí của doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp muốn có lời phải đẩy giá cả háng hóa tăng lên. 4.3 Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục: Theo quan điểm cảu các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng và kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài gây lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng cung tiền tệ để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều. Có nhiều nhà máy, xí nghiệp bị đóng của chưa đi vào hoạt động. Do nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất nghiệp cao… trong trường hợp này khi tăng cung tiền tệ thì dẫn đến lãi xuất giảm đến một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều. Từ đó các nhà máy, xí nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh. Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt đầu được khai thác, người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên. Ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất, nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị han hiếm… Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát. Lúc đó sản lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra. Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc cung tiền. Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách: Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh doanh tốt) hoặc các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và dài hạn, điều đó dẫn đến cầu và hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ được bù đắp bằng việc tăng giá. Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm trọng. Ví dụ năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những chi phí leo thang của cuộc chiến tranh tại Việt Nam, lạm phát tăng từ 3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). 7 Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến nguyên nhân này. 4.4 Các nguyên nhân khác: Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên ,một số các nguyên nhân khác cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư. Khi người dân không tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó… Như thế cầu sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát. Thứ hai thâm hụt ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm phát cao. Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt. Biện pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính phủ phải áp dụng biện pháp in tiền. Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, đối với các nước đang phát triển, việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn. Còn đối với các quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc tiến hành trái phiếu có lợi hơn. Nhưng việc tiến hành trái phiếu này kéo dài sẽ làm cầu về về vốn sẽ tăng và làm lãi suất sẽ tăng cao hơn. Lúc này để giảm lãi suất trên thị trường Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào các trái phiếu đó. Như thế mức cung tiền lại tăng thêm dễ gây lạm phát. Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn. Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá 8 hàng lên tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng ,chi phí cho các nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng lên cao. Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế, chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát. 5. Biện pháp khắc phục lạm phát Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. Ở mỗi nước tỷ lệ lạm phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động khác nhau. Do đó chính phủ ở các nước sẽ có những biện pháp khác nhau. Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp dụng biện pháp tình thế và các biện pháp có tính chiến lược . Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước ta có những biện pháp điển hình sau: - Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm giảm tức thời cơn sốt lạm phát Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Đây được gọi là biện pháp thắt chặt lượng cung tiền tệ hay còn gọi là đóng bảng tiền tệ. Cụ thể là Ngân hàng trung ương ngừng thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền đề bù đắp bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, để làm giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng trung ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế. Và ngân hàng cũng có thể ấn định mức lãi xuất cao, từ đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp gửi tiền không kì hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm. Tiếp đến, để khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp thắt chặt chi tiêu của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng nhanh của tổng cầu. Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm lượng cầu chi tiêu của dân cư. Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài… Một biện pháp nữa được áp dụng là cải cách tiền tệ khi tỷ lệ lạm phát tăng quá cao trong khi các biện pháp nêu trên chưa đạt được hiệu quả. - Cùng với những biện pháp tình thế, các nước còn sử dụng các biện pháp chiến lược nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và làm cho cơ số tiền tệ ổn định bền vững. Đó là các biện pháp: 9 Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá. Hàng hoá trong nước ngày càng nhiều, quỹ hang tăng lên với số lượng, chủng loại đa dạng phong phú. Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để bổ xung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước. Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ để bán cho dân chúng, phát triển các ngành sản xuất hàng hoá xuất khẩu và ngành du lịch. Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh hoàn hảo: Sản phẩm để người tiêu dùng chấp nhận được là yếu tố quan trọng. Như vậy cần phải cạnh tranh giá cả bằng việc tìm mọi cách giảm chi phí. Biện pháp chiến lược khác là kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý hành chính. Điều này sẽ làm giảm mức chi tiêu thường xuyên của Ngân sách nhà nước. Mặt khác cần phải tăng cường công tác quản lý điều hành Ngân sách nhà nước dựa trên việc tăng các khoản thu cho Ngân sách một cách hợp lý chống thất thu như thất thu về thuế và điều chỉnh các khoản chi phí CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM 1. Lịch sử của lạm phát triển Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại của nó không công khai, các nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng cụm từ “chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền" "Thị trường vật giá không ổn định…” Sau một thời gian, lạm phát đã bộc phát công khai với mức bộc phát phi mã. Đảng đã kịp thời nhận định tình hình này. “Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thâm hụt ngân sách trầm trọng”. Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ để chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay, kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của chính phủ, của các nhà quản lý vì sự phát triển và ổn định. Và về phương diện này, Việt Nam đã thành công. Lạm phát đã giảm từ hơn 70% một năm vào năm 1986 xuống còn 35% một năm vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả từ nhiều yếu tố như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, người dân không còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la bắt đầu tích luỹ bằng đồng 10 tiền trong nước, xuất khẩu dàu thô ngày càng tăng…Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các nhu năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm. Lịch sử lạm phát ở Viêt Nam có thể chia thành những thời kì như sau: - Giai đoạn thứ nhất: Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát được hiểu giống như chủ nghĩa Mác, cho nên chống lạm phát là tìm mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào lưu thông. Giai đoạn 1938-1945: Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để voư vét của cải của nhân dân Việt Nam. Số tiền đó được đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến chống phát xít Đức. Hậu quả năng nề của lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25 lần. - Giai đoạn 1946-1954: chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đòng Đông Dương và sau đó là đòng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước. - Giai đoạn 1955-1965: chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát đồng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ khổn lồ, giá trị hàng trăm tỉ USD cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra. - Giai đoạn 1965-1975: ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thốn nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp 3 lần tiền lưa thông của năm1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc các nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này. - Giai đoạn 1981-1988: Lạm phát Việt Nam đã có từ rất lâu song ở đây tôi muốn nói đến giai đoạn 1981-1988. Trong giai đoạn 1976-1980, lạm phát Việt Nam “ngầm”, nghĩa là tuy chỉ số giá cả do nhà nước ấn định tăng không nhiều, nhưng chỉ số giá cả ở 11 thị trường tự do tăng khá cao, mức tăng đã vượt xa mức tăng giá trị tổng sản lượng, cũng như thu nhập quốc dân: trong thời gian 1976-1980, giá trị tổng san lượng tính theo giá năm 1982 đã tăng 5,8%, thu nhập quốc dân sản xuất tăng 1,5%, nhưng mức giá trị đã tăng 2,62 lần. Bước vào những năm 80, lạm phát đã bột phát “công khai”, và trở thành lạm phát phi mã với mức tăng giá 3 chứ số. Thị trường mà nhà nước kiểm soát là thị trường mà các giá cả do nhà nước quy định. Lạm phát ở Việt Nam đã ở mức phi mã, năm cao nhất đã đạt tới chỉ số tăng giá 557% vượt qua mức lạm phát phi mã. Song những biểu hiện và tác hại của nó không kém gì siêu lạm phát. Thứ nhất, từ năm 1981-1988 chỉ số giá tiêu dùng tăng điều trên 100% một năm, những năm đầu 80 mức tăng này là trên 200%, đến năm 1983 và 1984 đã giảm xuống, nhưng từ năm 1986 đã tăng vọt tới mức cao nhất 557%, sau đó có giảm; như vậy là mức lạm phát cao và không ổn định. Thứ hai, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng nhanh vì dân chúng không ai muốn giữ tiền, người ta bán song hàng phải mua ngay hàng khác, hoặc vàng hoặc đô la, không ai dám giữ tiền lâu trong tay, vì tốc độ mất giá của nó quá nhanh. Song ở Việt Nam vòng quay của đồng tiền qua ngân hàng nhà nước lại không tăng lên mà giảm đi, vì cơ chế hoạt động của ngân hàng quá kém không đáp ứng được nhu cầu gửi và rút tiền của các chủ kinh doanh và dân cư. Thứ ba, tiền lương thực tế của dân cư bị giảm mạnh, ở Việt Nam trước năm 1988, hầu hết các giá cả do nhà nước qui định. Trong những năm 80 nhà nước đã nhiều lần tăng giá. Trước năm 1985, mức tăng giá do nhà nước qui định không lớn, tuy mức tăng giá ở thị trường tự do cao hơn nên nhà nước đã không bù giá vào lương, tiền lương thực tế đã giảm xuống. Từ năm 1986 nhà nước đã bù giá vào lương ngay sau khi tăng giá. Nhưng tiền lương thực tế vẫn giảm mạnh vì nhà nước đã không khống chế được thị trường tự do. Giá nhà nước tăng một lần thì giá thị trường tự do tăng 1, 5 lần. Nhà nước lại không cung cấp đủ hàng cho dân cư theo giá nhà nước, nên mọi người phải mua hàng ngoài thị trường tự do với giá cao hơn, mặt khác những người được nhà nước bù giá chỉ là những người làm trong khu vực nhà nước còn số đông dân cư thì không được bù giá như vậy. Thứ tư những người gửi tiền và có tiền cho vay đều bị tước đoạt, vì mức lãi suất so với lạm phát. 12 Thứ năm, các yếu tố của thị trường Việt Nam bị thổi phồng và bóp méo. Do giá cả nhà nước định đã không phải là giá cả thị trường, luôn thấp hơn giá cả thị trường tự do, và lại tăng theo từng chu kỳ, nên đã khuyến khích xu hướng đầu cơ và tích trữ hàng hoá kiếm lợi. Các xí nghiệp đã tìm mọi cách để dự trữ vật tư, không cần kinh doanh cũng có lợi. Dân chúng phải dự trữ nhu yếu phẩm. Tình trạng khan hiếm hàng hoá, khan hiếm vốn được phóng đại, các nhu cầu giả tạo tăng lên, bức trang thực của nền kinh tế bị xuyên tạc, lãi giả, lỗ thật. Những biểu hiện trên đây của lạm phát Việt Nam tuy mới trong giai doạn phi mã, nhưng cũng đã gần như đầy đủ các nét chung của giai đoạn siêu lạm phát. Một điều đáng chú ý là trước năm 1988, nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp, nghị quyết chống lạm phát, nhưng vẫn không kiềm chế và kiểm soát được lạm phát. Chỉ số giảm phát vẫn tăng giảm thất thường ngoài dự tính của nhà nước. - Giai đoạn 1989-1994: Sau một thập kỉ lạm phát cao liên tục nền kinh tế rơi vào khủng hoảng nhưng đến năm 1989 đã chuyển sang một giai đoạn mới của lạm phát được đặc trưng bởi sự hạ sốt lạm phát và đến năm 1994 triển vọng bước qua thời kì lạm phát một con số là có thể thực hiện được.Trong giai đoạn này,lạm phát giảm nhanh và giảm dần song song với tiến trình đổi mới kinh tế.,chuyển hẳn và chuyển toàn diện sang nền kinh tế thị trường. - Giai đoạn 1995-2007: Thực trạng lạm phát tại Việt Nam 12 năm qua (1996-2007) có thể tóm lược lại trong mấy điểm nổi bật sau đây: Thứ nhất, Việt Nam đã “kéo” được chỉ số lạm phát (CPI) từ mức ba con số(774,7%/1986; 223,1%/1987; 393,8%/1988) xuống một con số (5,2%/1993) và duy trì nó trong hơn mười năm qua. Nổi bật hơn hết là việc kiềm chế được lạm phát ở mức thấp mà chúng ta không phải “đánh đổi”, hay “lựa chọn” giữa mục tiêu tăng trưởng và lạm phát như nó thường diễn ra tại nhiều nước. Đó thật sự là một thành tựu lớn. Thứ hai, sau 11 năm lạm phát giữ ở mức một con số, năm 2007 chỉ số này đã tăng lên mức hai con số. Điểm khác biệt của lạm phát trong năm này là sự tăng giá diễn ra đồng loạt ở cả nhóm hàng lương thực và phi lương thực. Đứng đầu về tốc độ tăng giá trong nhóm các hàng hóa tính CPI là thực phẩm (tăng 21,16%, riêng tháng 12 tăng 4,69%). Nhóm hàng nhà ở và vật liệu xây dựng tăng cao thứ hai (tăng 17,12%, riêng tháng 12 tăng 3,28%). Đứng thứ ba là 13 nhóm hàng lương thực (tăng 15,4%, riêng tháng 12 tăng 2,98%). Phương tiện đi lại và bưu điện đứng thứ tư (tăng hơn 7%, riêng tháng 12 tăng 0,7%). Tiếp đến là nhóm hàng may mặc và giày dép (tăng 7%, riêng tháng 12 tăng 1,16%); dược phẩm và y tế (tăng 7%), v.v... Hiện tượng giá tăng diễn ra ở hầu hết các nhóm hàng hoá và dịch vụ như vậy cho thấy, nguyên nhân của lạm phát không chỉ hoàn toàn do tác động của giá cả thế giới hay từ cung hàng hoá, dịch vụ; mà rõ ràng là có nguyên nhân từ tiền tệ. Thứ ba, khác với tình trạng lạm phát của những năm trước, chỉ số giá tiêu dùng các tháng trong năm 2007 tăng liên tục ngoài dự đoán, vượt qua chỉ tiêu Quốc hội đề ra hết lần này đến lần khác (nói khác đi là không kiểm soát được!). Ví dụ, tại thời điểm cuối năm 2006, lạm phát năm 2007 được dự báo ở mức 6 7%, và tỷ lệ tăng trưởng kinh tế là 9 - 10%. Nhưng, mới đến tháng 7/2007 chỉ số lạm phát đã đạt mức 6,19%, trong đó riêng tháng 7 là 0,94%. Trước tình hình đó, thay vì chỉ tiêu lúc đầu là 6% - 7%, Chính phủ đã phải điều chỉnh chỉ tiêu lạm phát cả năm ở mức dưới 8%, với niềm tin là chỉ số giá tiêu dùng của các tháng còn lại giữ ở mức tăng khoảng 0,4%/tháng. Nhưng rồi, ngay trong tháng 8 giá đã tăng thêm 0,55% (cao hơn dự đoán), rồi tháng 9 vẫn tiếp tục tăng 0,51%, tháng 10 tăng 0,74%, tháng 11 tăng 1,23% và tháng 12 tăng kỷ lục: 2,91% (cao nhất so với các tháng trong năm, kể cả tháng 2/2007 là tháng có Tết Nguyên Đán; và cũng cao nhất so với các tháng 12 của 11 năm trước đó). Kết thúc năm 2007, tốc độ tăng giá tiêu dùng chung đã lên đến 12,63% so với năm trước, gần gấp rưỡi tốc độ tăng trưởng kinh tế (8,44%). Điều đó đã khiến cho nhiều người phải lo lắng, nhất là những người nghèo. Họ lo lắng không phải vì mức lạm phát cao (bởi nền kinh tế Việt Nam cũng đã từng đối mặt với lạm phát cao trong nhiều năm, như 1990: 67,4%; 1991:67,6%; 1992: 17,6%; 1994: 14,4%; và 1995: 12,7%, thậm chí còn rất cao, như các năm trước 1990), mà lo vì tốc độ tăng giá diễn ra quá nhanh, trong khi các nhà hoạch định chính sách lại lúng túng trong cách xử. Thứ tư, với mức 12,63%, chỉ số lạm phát năm 2007 đ. cao hơn nhiều so với lãi suất huy động tiết kiệm (lãi suất của các ngân hàng thương mại nhà nước khoảng trên 8%, và của các ngân hàng thương mại cổ phần khoảng 9,5%). Điều đó đã khiến cho người có tiền gửi tiết kiệm bị thiệt thòi lớn do lãi suất thực âm, và kết quả là dòng tiền ồ ạt được rút khỏi ngân hàng để đầu tư vào “kênh” khác có hiệu quả hơn (người giàu thì mua nhà ở và bất động sản, đầu tư chứng khoán; còn người nghèo thì có được đồng nào đều đổi hết thành vàng). Kết quả là 14 lượng tiền trong lưu thông càng lớn thêm, làm cho giá cả càng tăng cao hơn, đồng thời lại tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng thanh khoản cho hệ thống ngân hàng. Thứ năm, lạm phát cao trên thực tế đã làm cho đồng tiền Việt Nam có xu hướng tăng giá so với đồng đô la Mỹ, dù cho trên danh nghĩa đồng Việt Nam vẫn mất giá tương đối so với đô la Mỹ một cách đều đều qua các năm (tỷ giá giữa USD/VND năm 2001 là 14.725 VND; năm 2002: 15.280 VND; năm 2003: 15.510 VND; năm 2004: 15.740 VND; năm 2005: 15.859 VND; năm 2006: 15.994 VND; và năm 2007: 16.241 VND). Nhưng do giá cả tại Việt Nam tăng cao hơn giá cả tại Mỹ (12,63% so với 4,1% năm 2007), nên dù tỷ giá danh nghĩa có phần hạ thấp giá trị đồng Việt Nam thì trên thực tế đồng đô la vẫn đang bị hạ thấp giá trị so với VND (USD đã bị mất giá 8,1% so với năm 2006, do lạm phát 4,1%, tại Mỹ 1 đô la năm 2007 có sức mua tương đương với 0,959 đô la năm 2006, và bằng 16.241 đồng Việt Nam năm 2007. Cũng do lạm phát 12,63%, tại Việt Nam 16.241 đồng năm 2007 chỉ có sức mua tương đương với 14.189 đồng của năm 2006; còn 1 đô la tại Việt Nam năm 2006 chỉ còn bằng 14.795 đồng vào tháng 12/2007. Như vậy, nếu so với sức mua là 15.994 đồng của năm 2006, thì đồng đô la tại Việt Nam vào cuối năm 2007 đã bị mất 8,1% giá trị. Điều đó vô hình chung đã góp phần hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu. Thực tế là năm 2007 Việt Nam nhập siêu kỷ lục, với 12,45 tỷ USD, bằng 25,6% tổng kim ngạch xuất khẩu. Có thể thấy, sự biến động của các chỉ số giá tiêu dùng, giá vàng, và giá đô la là rất khác nhau qua các tháng. Những tháng đầu và cuối năm, nhất là cuối năm chỉ số giá biến động mạnh hơn. Dù so sánh theo cách nào, thì sự biến động của giá cả cũng vẫn thể hiện một xu hướng chung là chỉ số giá tiêu dùng và giá vàng tăng cao, đặc biệt là giá vàng tăng rất cao và liên tục không chỉ trong năm 2007, mà cả trong suốt 7 năm qua (năm 2001 tăng 5%, năm 2002 tăng 19,4%, năm 2003 tăng 26,6%, năm 2004 tăng 11,7%, năm 2005 tăng 11,3%, năm 2006 tăng 27,2%, năm 2007 tăng 27,35%). Còn giá đô la tăng chậm, thậm chí trong vài năm gần đây có xu hướng giảm nhẹ. Nếu so với tháng 12/2000, giá vàng năm 2007 đã tăng gấp 2,2 lần, còn giá tiêu dùng tăng hơn 1,5 lần, và giá USD tăng 1,1 lần. - Năm 2008: Nếu như năm 2007, lạm phát tăng đến 2 con số đã gây nên hoang mang cho người dân và cả các nhà lãnh đạo đất nước, thì đến năm 2008, lạm phát thực sự bùng nổ và thực sự gây nên những bất ổn vĩ mô. Chỉ số giá khởi đầu năm 2008 với mức tăng cao 2,38%, đã báo hiệu một năm đầy khó khăn và nỗi lo lạm phát thực sự đã xuất hiện vào ngày 21/2 khi chỉ số giá tiêu dùng 15 tháng 2/2008 đạt mức tăng 3,56% so với tháng trước, tháng Ba tăng 2,99%; tháng Tư là 2,2%, tháng Năm đạt đỉnh tăng của năm 2008 là 3,91%, tháng Sáu tăng 2,14%, tính trung bình 6 tháng đầu năm 2008 lạm phát lên tới 2,86% cho mỗi tháng. Lạm phát đỉnh điểm vào tháng 7 năm 2008 khi lên tới trên 30%. Qua đến tháng 9 năm 2008, lạm phát đã giảm mạnh so với những tháng trước đó và liên tiếp 3 tháng 10, 11 và 12/2008 CPI tăng trưởng âm. Tất cả là do các chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNN, các biện pháp kìm chế lạm phát của chính phủ đồng thời từ tháng 9 năm 2008 khủng hoảng tài chính từ Mỹ bắt đầu lan rộng ra toàn cầu làm giá cả nhiều mặt hàng giảm mạnh. Đối với từng nhóm hàng cụ thể, nhìn chung trong năm 2008 có 4 nhóm hàng có chỉ sốgiá bình quân tăng cao so với năm trước là: hàng ăn - dịch vụ ăn uống tăng 36,57% (riêng lương thực tăng 49,16%, thực phẩm tăng 32,36%); nhà ở - vật liệu xây dựng tăng 20,51%; phương tiện đi lại - bưu điện tăng 16% và đồ dùng - dịch vụ khác tăng 13,17%. Ngoài ra, chỉ số giá bình quân của vàng trong năm 2008 đã tăng 31,93%, trong khi chỉ số giá USD chỉ tăng bình quân 2,35% so với năm 2007. Bên cạnh đó, tác động tâm lý đã đẩy nhiều loại hàng hóa tăng giá bất hợp lý. Tại một số thời điểm, trong lúc giá xi măng xuất xưởng của một số nhà cung cấp chỉ có 53.00055.000 đồng/bao, thì giá bán trên thị trường lên 80.000 - 90.000 đồng/bao...CPI cũng đẩy lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương mại tăng liên tục trong giai đoạn này, có những thời điểm vượt trên 18-19%, đối với huy động tiền gửi, và 21-24% với cho vay. Bình quân mức tăng CPI thời kỳ này đạt 2,48%/tháng, dù đã được điều chỉnh bởi các nhóm giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ. Kết thúc năm 2008, lạm phát lùi về còn 19,89%, đây là mức cao nhất trong vòng Biểu đồ: lạm phát của Việt Nam so với các nước Châu Á giai đoạn 2005-2008 16 17 năm qua. Trong đó CPI của lương thực tăng cao nhất và đạt 49,16%, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2008 giảm 0,68% so với tháng trước, nhưng so với tháng 12 năm 2007 tăng 19,89% và chỉ số giá bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng 22,97%; đặc biệt, so với kỳ gốc năm 2005 đã tăng 46,07%. - Giai đoạn 2009-2010: Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều. Khép lại với mức tăng CPI trong vòng kiểm soát, nhưng gạo và xăng dầu, hai mặt hàng có quyền số lớn trong rổ hàng hóa, dịch vụ tính CPI vẫn luôn là yếu tố bất định trong năm. Một số chuyên gia nhận định, chỉ số giá năm 2009 đang nằm trong mức như mong đợi, tuy nhiên vẫn còn một số lo ngại bởi, so với cùng kỳ năm ngoái một số mặt hàng thiết yếu vẫn đang có xu hướng tăng cao, từ 8,53 đến 9,56%. Mức lạm phát 2 con số của Việt Nam trong năm 2010 đã chính thức được khẳng định. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. Diễn biến CPI năm 2009(%) Tính chung trong năm 2010 thì giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng 17 (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Tính chung trong cả năm 2010, giá vàng đã tăng tới 30% trong khi mức tăng của đôla Mỹ là xấp xỉ 10%. - Năm 2011: Diễn biến CPI các tháng năm 2011. Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của dòng tiền, khi không tạo được đột phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các kỷ lục mới. Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến, đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 1/2011 bất ngờ giảm tốc nhẹ xuống mức tăng 1,74% so với tháng trước. Nhiều nhận định khi đó đã lạc quan cho rằng, xu hướng này là tích cực, có thể là một mở đầu thuận lợi cho một năm mà Chính phủ đặt quyết tâm kiềm chế lạm phát ngay từ đầu, với chỉ tiêu “khắc nghiệt” chỉ có 7%. Lạm phát liên tiếp bị đẩy lên, CPI theo tháng tăng 2,17% vào tháng 3. Chưa kịp hết ngỡ ngàng về sự gia tốc sau Tết Nguyên đán, CPI lập tức đạt đỉnh vào tháng 4 ở mức 3,32%, cao nhất trong 3 năm trở lại đây. Đến lúc này, CPI so với cuối năm trước đã tăng 9,64%, vượt xa mục tiêu 7%, hiện thực hóa nỗi lo lạm phát. Diễn biến CPI năm 2010- 2011(%) 18 Đầu tư Nguyễn Văn Trung, tại một cuộc họp vào tháng 10 cho biết, trong số khoảng 57 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, có tới 47 nghìn được xác định đã ngừng hoạt động. Cho nên sang nửa thứ hai của năm, nền kinh tế ở vào thời khắc “nao núng” với con đường đang chọn: chấp nhận giảm tăng trưởng để kiềm chế lạm phát. Chính vì thế, các ngân hàng thương mại Việt Nam phải đối mặt 4 vấn đề: rủi ro thiếu thanh khoản; rủi ro sai lệch cơ cấu đồng tiền; rủi ro nợ xấu; và rủi ro tổng dư nợ với thị trường bất động sản. - Năm 2012: Báo cáo Giám sát kinh tế vừa công bố của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế Đông Á sẽ tiếp tục chậm lại trong 2012 khi Mỹ và châu Âu có nguy cơ rơi vào suy thoái sâu do khủng hoảng nợ. Trong báo cáo, ADB dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam ở 5,8% trong năm nay và 6,3% trong năm 2012, giảm so với dự báo 6,5% mà ADB đưa ra trong tháng 9. Kinh tế Việt Nam được dự báo tăng trưởng mạnh mẽ khi tình hình kinh tế vĩ mô ổn định. Thắt chặt tiền tệ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong năm 2011, nhưng sẽ thúc đẩy tăng trưởng trong năm 2012. Theo ADB, kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong 3 quý đầu năm nay với lần lượt 5,4%, 5,7% và 6,1% nhờ tăng trưởng mạnh mẽ sản lượng công nghiệp và tiêu dùng. Lạm phát tại Việt Nam vẫn ở trên mức mục tiêu. Tính 19 tới tháng 10, lạm phát so với cùng kỳ năm trước của Việt Nam là 19,8%. Lạm phát lõi vẫn cao do giá kim loại quý tăng cao, tính tới tháng 10/2011 lạm phát lõi ở mức 7,7% so với cùng kỳ năm trước. ADB cho biết, trong số các đồng tiền khu vực, VNĐ giảm giá mạnh nhất so với USD, giảm 7,2% khiến thâm hụt tài khoản vãng lai mở rộng và giảm dự trữ ngoại hối. 2. Đặc trưng của lạm phát Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc gia khác như : chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm. Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể. - Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có địa vị thống trị. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên thế giới. Thế nhưng, khu vực với số vốn đầu tư lớn và tỷ lệ chất xám cao này lại chỉ có thể làm ra từ 30%-37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung nộp cho ngân sách nhà nước một số tiền rất thấp so với số tiền nhà nước cung cấp để bù lỗ, bù giá, cấp phát tín dụng, lãi xuất thấp. Ngược lại, khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả và đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách nhà nước. Chính những hoạt động của các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả lỗ thật đã làm cho thị trường hônx loạn, lỗ lãi khó kiểm tra, từ đó hiệu quả kinh doanh giảm sút. Do vậy mà công tác giảm sút của nhà nước không có hiệu quả dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát xảy ra. - Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thốn trị trên mọi lĩnh vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường, một công ty mới giành thế độc quyền phải tiến hành trang thiết bị máy móc, tổ chức lao động, tập trung nguồn vốn… và khi đã ở vị trí độc quyền, nó sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh. Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Và cùng với cơ chế quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu mất các quan hệ thị trường làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng là nguyên nhân góp phần làm tăng lạm phát. - Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu gồm những ngành kém hiệu quả có sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm) 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng