LỜI MỞ ĐẦU
Trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế , phù hợp với các điều kiện
kinh tế, chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với những đặc thù riêng
biệt trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình chứng khoán
trên thế giới. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh đấu
bằng việc đưa vào vận hành trung tâm giao dịch chứng khoán tại Thành phố Hồ
Chí Minh và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Đến ngày
8/3/2005 thị trường chứng khoán Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh
đấu một bước phát triển mới của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại
Thế Giới trong năm qua đã đưa ra cơ hội lớn cho Việt Nam, taọ ra nhiều điều
kiện thuận lợi để phát triển thị trương chứng khoán. Tuy nhiên bên cạnh đó, Việt
Nam cũng gặp nhiều khó khăn và đặt ra nhiều yêu cầu và thách thức mới , đòi
hỏi chúng ta phải thúc đẩy phát triển kinh tế với tốc độ và hiệu quả cao hơn nữa.
Muốn vậy chúng ta phải từng bước xây dựng và phát triển đồng bộ các loại thị
trường trong đó có thị trường vốn mà nổi bật là thị trường cổ phiếu.
Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cơ bản của thị trường chứng khoán,
hoạt động của thị trường này diễn ra khá sôi nổi và nhạy cảm, phụ thuộc vào kết
quả sản xuất kinh doanh của công ty. Với những chức năng, vai trò quan trọng
của thị trường cổ phiếu trong việc góp phần phát triển kinh tế thì việc phát triển
thị trường cổ phiếu ở Việt Nam hiện nay là thực sự cần thiết, có thể nói là nhu
cầu thiết yếu giúp chúng ta hội nhập nhanh chóng và tiến kịp với trình độ của các
nước trên thế giới.
Xuất phát từ thực trạng thị trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay. Chúng tôi
chọn đề tài “ Thị trường cổ phiếu” để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về thực trạng thị
trường cổ phiếu Việt Nam hiện nay, sự quan trọng của thị trường cổ phiếu đối
với nền kinh tế, phân tích những thành tựu đạt được cùng những tồn tại yếu kém.
Từ đó đề ra những giải pháp góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt
Nam hiện nay.
1
Chương 1: Cơ sở lý luận về cổ phiều
1.Cổ phiếu:
1.1 khái niệm
Cổ phiếu là giấy chứng nhận cổ phần, nó xác định quyền sở hữu của cổ đông,
đối với công ty cổ phần. người mua cổ phiếu thường là trở thành cổ đông thường
hay cổ đông phổ thông. Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường là một trong những
chủ doanh nghiệp nên là người trực tiếp thụ hưởng kết quả sản xuất kinh doanh
cũng như chịu mọi rủi ro trong kinh doanh.
Theo Luật Chứng khoán Viện Nam:” Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận
quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ
chức phát hành”.
1.2 Phân loại: Cổ phiếu đang lưu hành trên thị trường có nhiều loại
- Căn cứ vào hình thức, cổ phiếu có hai loại: cổ phiếu vô danh và cổ phiếu đích
danh.
Lúc mới ra đời cổ phiếu tồn tại dưới dạng cổ phiếu ký danh có tên người sở hữu
nó, sau này khi thị trường cổ phiếu phát triển loại cổ phiếu ký danh gây trở ngại
cho việc lưu thông và chuyển nhượng cổ phiếu. Do đó, loại cổ phiếu không ghi
danh người sở hữu ra đời và ngày càng phát triển.
- Căn cứ vào quyền lợi được hưởng, cổ phiếu gồm hai loại phổ biến là cổ phiếu
ưu đãi và cổ phiếu thừơng.
+ Cổ phiếu thường: là một loại chứng khoán vốn, không có kỳ hạn, tồn tại cùng
với sự tồn tại của công ty, cổ tức được trả vào cuối năm để quyết toán. Vì vậy, cổ
đông mua loại cổ phiếu này rất quan tâm đến hoạt động của công ty và họ thường
là những người đứung trong ban quản trị chịu trách nhiệm điều hành hoạt động
của công ty. Trên thị trường giá của loại cổ phiếu thường biến động nhiều hơn so
với cổ phiếu ưu đãi.
+ Cổ phiếu ưu đãi có mức cổ tức cố định và được ghi rõ trên cổ phiếu lúc phát
hành. Với cổ phiếu này mức cổ tức không phụ thuộc vào chính sách chia lãi hàng
năm của công ty.
♥ Ưu đãi về cổ tức cố định
♥ Ưu đãi hoàn lại vốn
♥ Ưu đãi về quyền biểu quyết
- Căn cứ vào phương thức góp vốn:
+ Cổ phiếu hiện kim: dành cho những cổ đông góp vốn bằng tiền
+ Cổ phiếu hiện vật: dành cho những cổ đông góp vốn bằng tài sản như nhà
xưởng, máy móc, thiết bị…
- Căn cứ vào quyền tham gia vào bỏ phiếu:
+ Cổ phiếu đơn phiếu
+ Cổ phiếu đa phiếu
2
1.3 Đặc điểm
- Cổ phiếu là chứng nhận góp vốn do đó không có kỳ hạn và không hoàn vốn
- Cổ tức của cổ phiếu thường tùy thuộc vào kết quả kinh doang của doanh
nghiệp, do đó không cố định. Khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt cổ đông cũng
được hưởng lợi nhuận cao hơn nhiều so với loại chứng khoán khác có lãi xuất cố
định. Nhưng ngược lại cổ tức có thể rất thấp hoặc hoàn roàn không có khi công
ty làm ăn thua lỗ.
- Khi công ty phá sản, cổ đông thường là người cuối cùng được hưởng giá trị còn
lại của tài sản thanh lý
- Giá cổ phiếu biến động rất nhanh nhạy, đặc biệt trên thị trường thứ cấp, do
nhiều nhân tố nhưng nhân tố cơ bản nhất là hiệu quả kinh doanh và giá trị thị
trường của công ty.
1.4 Điều kiện phát hành
- Là công ty cổ phần có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành
cổ phiếu tối thiểu 5 tỷ VND
- Hoạt động kinh doanh năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi đồng
thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán
- Có phương án khả thi về việc sử dụng vốn thu được từ đợt phát hành cổ phiếu.
1.5. Quyền lợi và nghĩa vụ của cổ đông thường
a. Trách nhiệm
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường của công ty cổ phần đại chúng chịu trách
nhiệm hữu hạn theo phần vốn góp của mình trên 2 mặt:
- Thứ nhất, phần vốn góp xem như góp vĩnh viễn không được rút lại. Lúc cần
lấy lại vốn, họ có quyền sở hữu cổ phần trên thị trường bằng cách bán cổ phiếu
cho nhà đầu tư khác.
- Thứ hai, trách nhiệm của cổ đông đối với việc làm ăn thua lỗ hay tình trạng phá
sản của công ty chỉ giới hạn trên phần vốn góp trên cổ phiếu. Nếu công ty làm ăn
không hiệu quả xem như họ mất phần vốn đã bỏ ra để mua cổ phiếu
b. Quyền lợi
Là một trong những người chủ công ty, những cổ đông có những quyền lợi sau:
- Quyền có thu nhập: cổ đông thường được hưởng phần lợi nhuận tương ứng với
số cổ phiếu gọi là cổ tức từ kết quả có lãi của hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty
3
- Quyền được chia tài sản thanh lý: trong trường hợp rủi ro, công ty bị giải thể,
cổ đông cũng được chia phần những giá trị tài sản khi thanh lý, nhưng là người
cuối cùng được hưởng giá trị tài sản còn lại khi thanh lý.
- Quyền bỏ phiếu: cổ đông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ
quản lý trong công ty, có quyền tham gia các đại hội cổ đông và bỏ phiếu quyết
định các vấn đề quan trọng của công ty
- Quyền mua cổ phiếu mới: khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới để tăng
vốn, các cổ đông hiện đang nắm giữ cổ phiếu phổ thông có quyền được mua
trước cổ phiếu mới, trước khi đợt phát hành được chao bán ra công chúng, trong
một thời hạn nhất định.
1.6. Các loại cổ phiếu thường
Phần lớn cổ phiếu của các công ty cổ phần là cổ phiếu thường với những đặc
điểm trên, nhưng đôi khi công ty cũng phát hành những loại cổ phiếu thường
khác, với những đặc điểm riêng từ sự khác biệt liên quan đến quyền bầu cử hay
quyền được hưởng cổ tức.
+ Cổ phiếu thường loại “A”: là loại cổ phiếu phát hành ra công chúng và được
hưởng cổ tức nhưng không có quyền bầu cử. Do đó loại cổ phiếu này có giá thấp
hơn loại cổ phiếu thường được bỏ phiếu.
+ Cổ phiếu thường loại “B”: thường được gọi là cổ phiếu sáng lập viên, có quyền
bầu cử, nhưng chỉ được hưởng cổ tức khi khả năng sinh lợi của công ty đã đến
một giai đoạn tăng trưởng nhất định.
+ Cổ phiếu thường gộp lãi: người cầm loại cổ phiếu này không đươc nhận cổ tức
bằng tiền mặt mà sẽ được nhận cổ tức bằng một số cổ phiếu- có giá trị tương
đương- mới phát hành mà không phải bỏ thêm vốn
Ngoài ra, tùy theo đặc điểm của công ty mà còn những loại cổ phiếu thường
khác:
Cổ phiếu thượng hạng
Cổ phiếu tăng trưởng
Cổ phiếu thu nhập
Cổ phiếu chu kỳ
Cổ phiếu theo mùa
Công ty tăng trưởng và cổ phiếu tăng trưởng
Công ty thận trọng và cổ phiếu thận trọng
Công ty chu kỳ và cổ phiếu chu kỳ
Công ty đầu cơ và cổ phiếu đầu cơ
2. Thị trường cổ phiếu
2.1 Khái niệm
- Thị trường cổ phiếu là một bộ phận cở bản của thị trường chứng khoán. Vì cổ
phiếu là loại chứng khoán có lãi suất thường phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty do đó những nhân tố có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
4
đến tình hình hoạt động của công ty như khủng hoảng giá dầu, giá USD, đình
công, lạm phát, thất nghiệp, chiến tranh đều ảnh hưởng đến giá cả của thị trường
cổ phiếu.
- Thị trường chứng khoán là hình thức vận động điển hình của thị trường vốn với
khối lượng giao dịch và sức thu hút mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư, thị trường
này luôn giữ vị trí chủ yếu trong kết cấu của thị trường vốn các nước
2.2 Phân loại
Căn cứ vào cơ cấu tổ chức thị trường chứng khoán bao gồm:
- Thị trường sơ cấp: là nơi mua bán các loại chứng khoán chưa phát hành. Thị
trường sơ cấp tạo điều kiện tăng quy mô vốn đầu tư và là nơi cung ứng chứng
khoán vào lưu thông.
- Thị trường thứ cấp: là nơi chuyển nhượng quyền sở hữu các loại chứng khoán
đã phát hành và đang lưu thông trên thị trường. Thị trường thứ cấp không làm
thay đổi quy mô vốn đầu tư trong nền kinh tế. Thị trường thứ cấp thường được tổ
chức theo hai cách đó là thị trường tập trung và thị trường phi tập trung
+ Thị trường tập trung là nơi mà các hoạt động giao dịch được thực hiện tại
các sở giao dịch, chứng khoán được mua bán tại đây thỏa mãn các điều kiện
được niêm yết, hay các loại hàng hóa được đưa vào thị trường tập trung pahỉ nằm
trong danh mục thị trường như thị giao dịch lúa mì, cà phê, sữa bò…
+ Thị trường phi tập trung được thực hiện ở mọi nơi, việc mua bán được
thông qua đường dây viễn thông hoặc hệ thông máy tính, tại đây thực hiện
phương thức mua bán thẳng cho những ai chấp nhận giá được đưa ra nên còn
được gọi là thị trường trao tay
2.3 Chức năng của thị trường chứng khoán:
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi
cảu họ được đưa vào sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất
xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội
lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường rất khác nhau về tính
chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn cho loại hàng
hóa phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của chính mình. Chính vì vậy,
TTCK góp phần đáng kể làm tăng mức tiết kiệm quốc gia.
5
3. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Các dự báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh
tế tăng trưởng; Và ngược lại giá chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu
cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tếvà
là công cụ quan trọng để chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
2.4 Vai trò của TTCK
1. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khóan.
Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển đổi các chứng khoán họ sở hữu
thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. TTCK hoạt động
càng năng động và hiệu quả thì càng có khả năng nâng cao tính thanh khoản của
các của các chứng khoán giao dịch trên thị trường.
2. Đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp.
Thông qua giá chứng khoán, hoạt động của các doanh nghiệp được phản ánh một
cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của các
doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra được môi
trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn, kích thích áp
dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Sự biến đổi không ngừng giá của giá cổ phiếu, nhà đầu tư có thể đánh gia doanh
nghiệp một cách khách quan và khoa học tại bất kỳ thời điểm nào.
Ngoài ra, đối với các công ty niêm yết, nghĩa vụ công khai thông tin trên TTCK
Giúp các nhà đầu tư, các nhà quản trị thị trường có thể đánh giá sự tăng trưởng
ổn định hay suy thoái bất ổn định của các công ty.
3. Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển.
TTCK hỗ trợ chương trình cổ phần hóa cũng như việc thành lập và phát triển của
các công ty cổ phần qua việc quảng bá thông tin, định giá doanh nghiệp, bảo lãnh
phát hành, phân phối chứng khoán một cách nhanh chóng, tạo tính thanh khoản
cho chúng và như thế hút các nhà đấu tư đến góp vốn vào công ty cổ phần
4. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài
TTCK không những thu hút vốn đầu tư nội địa mà còn giúp Chính phủ hoặc
doanh nghiệp có thể phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu công ty ra thị trường vốn
quốc tế để thu hút thêm ngoại tệ
6
Chương 2: Tình hình thị trường chứng khoán
Việt Nam
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi , ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị
định số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị
trường chứng khoán Việt Nam ra đời.
Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập Trung tâm Giao dịch Chứng
khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội. Việc chuẩn bị cho TTCKVN thực ra đã do Uỷ
Ban Chứng khoán Việt Nam ra đời bằng Nghị định 75/CP ngày 28-11-1996.
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (TTGDCK TP.HCM) được thành
lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11-7-1998 và chính thức đi vào
hoạt động thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28-7-2000.
Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) Hà Nội đã chính thức chào đời
vào ngày 8/3/2005. Khác với TTGDCK TP.HCM (vốn là nơi niêm yết và giao
dịch chứng khoán của các công ty lớn), TTGDCK Hà Nội sẽ là “sân chơi” cho
các DN nhỏ và vừa (với vốn điều lệ từ 5 đến 30 tỷ đồng).
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng
căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết. Với hệ thống
chỉ số này, nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng
quát..
Chỉ số VN -Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ
sở vào ngày gốc 28-7-2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt
động.
Giá trị thị trường cơ sở trong công thức tính chỉ số được điều chỉnh trong các
trường hợp như niêm yết mới, huỷ niêm yết và các trường hợp có thay đổi về vốn
niêm yết.
2.1. Năm 2011: thị trường chứng khoán rơi vào vòng xóay
suy giảm trầm trọng
Năm 2011, chính sách tiền tệ thắt chặt được triệt để thực thi nhằm đối phó với
sự bùng phát của lạm phát. Dưới tác động của việc thực thi chính sách tiền tệ
này, TTCK- lĩnh vực được xem là phi sản xuất- đi vào vòng xoáy suy giảm trầm
trọng cả về điểm số lẫn thanh khoản. TTCK VN trở thành một trong những thị
trường có mức suy giảm mạnh nhất trong khu vực. kết thúc năm 2011,
VNINDEX còn 351,55 điểm và HNINDEX còn 58,74 điểm, giảm lần lượt 27,5%
và 48,6% so với cuối năm 2010
7
Những giai đoạn chính của TTCK năm 2011
Xu hướng chủ đạo của năm 2011 là giảm điểm, với hai đợt giảm mạnh nhất
diễn ra vào 5/2011 và ba tháng cuối năm
Giai đoạn 1: năm tháng đầu năm.
Thị trường bám sát và phản ứng khá mạnh với những biến động của nền kinh
tế vĩ mô và các trạng thái chính sách tiền tệ. các sóng giảm diễn ra trong giai
đoạn này đánh dấu biến động khắc nghiệt của nền kinh tế vĩ mô như tỉ giá bất
ngờ bị điều chỉnh tăng mạnh, lạm phát bùng phát dẫn đến sự ra đời của nghị
quyết 11 về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, đặc biệt với lĩnh vực phi sản
xuất. Nghị quyết 11, trong đó ra hạn mức cụ thể cho tăng trưởng tín dụng ở các
lĩnh vực phi sản xuất, là nút thắt cản trở dòng tiền chảy vào thị trường chứng
khoán. Thị trường trải qua đợt suy giảm mạnh và nhanh nhất vào tháng 5/2011
khi thời hạn đưa tỉ trọng tín dụng phi sản xuất về dưới 22% gần kề, buộc các
NHTM tiến hành thu nợ chứng khoán dẫn đến làn sóng bán giải chấp mạnh. Chỉ
trong 5 tháng đầu năm VNINDEX giảm 20% và HNINDEX giảm 40% so với
cuối năm 2010
8
Giai đoạn 2: Sóng giảm nhẹ trong ba tháng tiếp theo do thiếu vắng thông tin
Sau khi giảm mạnh và lập đáy vào ngày 25/5, thị trường có một tuần phục hồi
khá tôt sau đó. Đợt phục hồi này chủ yếu mang tính kĩ thuật khi giá cổ phiếu đã
giảm xuống mức thấp nhất sau hơn 1 năm. Sau tuần phục hồi này, các chỉ số liên
tục đi vào kênh giảm điểm với mức độ nhẹ hơn do vắng bóng thông tin hỗ trợ và
trong bối cảnh rủi ro lạm phát đang khá cao và hiện tượng vượt trần lãi suất diễn
ra ngày càng phổ biến
Giai đọan 3: thị trường trải qua giai đoạn biến động mạnh nhất trong 4
tháng cuối năm
Một số tin tức vĩ mô tích cực bắt đầu xuất hiện trong gia đọan này như lạm
phát lập đỉnh và đi vào chu kì giảm, dữ trữ ngọai hối cải thiện và kì vọng khả
năng kéo giảm lãi suất như công bố của thống đốc NHNN. Nhờ vậy, thị trường
chứng khoán đã có 3 tuần phục hồi- đợt tăng điểm dài và mạnh nhất trong nămcuối tháng 8 đến nửa đầu tháng 9 năm 2011 tuy nhiên sau đợt tăng này, thị
trường trải qua giai đoạn suy giảm thứ 2 trầm trọng hơn do tác động từ nhiều yếu
tố như sự xuất hiện của các vụ đổ vỡ tín dụng đen, khó khăn dẫn đến yêu cầu tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán, mối quan hệ quan ngại
về khả năng thoái vốn của NĐT ngọai và quan trọng hơn là sự suy giảm lòng tin
của NĐT. Đà suy giảm của thị trường theo đó vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt khi
kết thúc năm 2011 mặc dù hai chỉ số đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng
5/2009
9
Thanh khoản suy giảm trầm trọng năm 2011
Triển vọng kinh tế 2011 khó khăn đã được nhận thức từ đầu năm. Ngoài ra,
diễn biến kinh tế thê giới khó khăn đang là động lực thuận lợi cho giá vàng và kì
vọng vào khả năng sinh lợi ở kênh đầu tư ngọai tệ còn lớn đã làm giảm đáng kể
sức hấp dẫn của chứng khoán. Cùng với đó là chính sách tiền tệ thắt chặt càng
góp phần bóp nghẹt dòng vốn dành cho kênh đầu tư này thanh khoản trên TTCK
đã đi vào giai đoạn suy kiệt. Năm 2011, tổng giá trị khớp lệnh bình quân của một
phiên trên cả hai sàn chỉ đạt xấp xỉ 1.126 tỉ đồng, giảm 50% so với mức bình
quân của năm 2010. trái với họat động giao dịch trên sàn , họat động mua bán
sáp nhập tỏ ra khá sôi động. trong năm này, giao dịch thỏa thuận trên sàn HSX
tăng khoản 30% chủ yếu do chuyển nhượng ở nhóm cổ phiếu Bluechips, nổi bật
là STB, VNM, FPT, VIC và HAG
NĐT nước ngoài rút vốn khỏi các thị trường đầu tư mới nổi và dấu hiệu của
làn sóng M&A
Không chỉ nền kinh tế trong nước, kinh tế thế giới cũng trải qua năm 2011
với nhiều biến động tiêu cực: sau khá nhiều gói kích thích, đà phục hồi ở các nền
kinh tế phát triển chậm hơn kì vọng, thậm chí đang mấp mé bờ vực suy thoái
trong khi lạm phát làm mối đe dọa lớn; khủng hoảng nợ công ở khu vực châu Âu
lan rộng; và thảm họa kép khiến kinh tế Nhật Bản chưa thoát khỏi chu kì suy
thoái. Trước những khó khăn này, dòng vốn đầu tư nước ngòai có xu hướng rút
khỏi các thị trường mới nổi để bù đắp các khoản đầu tư trong nước. Làn sóng rút
vốn đặc biệt diễn ra mạnh mẽ ở quý cuối năm 2011. Tại thị trường Việt Nam nhà
đầu tư nước ngoài mua ròng hơn 1.800 tỉ đồng trong năm 2011, chỉ bằng 10%
tổng giá trị mua ròng trong năm 2010 mặc dù vẫn giữ vị thế mua ròng song khối
10
này bán ra khá nhiều bluechips. Cụ thể, các cổ phiếu bị bán ròng mạnh nhất là
STB, với 69 triệu cổ phiếu tương đương 1.017 tỉ đồng tiếp đến là VIC 17,6 triệu
cổ phiếu tương đương 1.819 tỉ đồng, HAG (-9,9 triệu cp), PPC(-8,2 triệu cp),
SAM(-7,6 triệu cổ phiếu)…
Trái với giao dịch hạn chế trên sàn niêm yết, nhà đầu tư nước ngoài tỏ ra khá
tích cực đối với các thương vụ M&A trên thị trường việt nam. Theo Vneconomy,
giá trị giao dịch trên M&A của nhà đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 81,3% tổng
giá trị giao dịch M&A năm 2011, tương đương khoảng 2,17 tỉ USD. Các thương
vụ nổi bật là Pokphand trung quốc vào CTCP chăn nuôi Cp. Việt Nam; IFC của
CTG; Mizuho vào VCB; Diageo vào Halico; Vimpelcom vào BeeLine;
Unicharm mua Diana…
Tác động từ các quỹ đầu tư chỉ số
Các quỹ đầu tư chỉ số nước ngòai bắt đầu thực hiện đầu tư tại thị trường việt
nam từ cuối năm 2010 và đã có tác động không nhỏ đến biến động các mã trụ cột
và là nguyên nhân gây ra hiện tượng “xanh vỏ đỏ lòng” thường thấy trên sàn
HSX. Sang năm 2011, trái với bức tranh ảm đạm chung của toàn thị trường, một
số cổ phiếu vẫn lội ngược dòng khá tốt khi có thông tin được đưa vào rổ tính chỉ
số sau mỗi đợt soát xét lại danh mục của các quỹ đầu tư chỉ số này điển hình
trong nhóm này là một số cổ phiếu như BVH, VIC, PNJ và IJC
Khó khăn bộc lộ nhóm công ty chứng khoán và yêu cầu cần thiết cần tái cấu
trúc
Thực trạng thực tế năm 2011 khó khăn là vấn đề đã được nhận thức từ trước
đó, do đó, kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết không phải là yếu
tố nhà đầu tư mong đợi. năm 2011, diễn biến thị trường hầu như không bị tác
động nhiều bởi tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp này. Thay vào đó, vấn
đề nợ xấu của ngành ngân hàng và vấn đề thanh khoản của các công ty chứng
khoán được quan tâm hơn cả.
11
Trong bối cảnh nền kinh tế khan hiếm tín dụng, dòng tiền dành cho TTCK
cũng đột ngột bị cắt giảm mạnh. Thêm vào đó, thị trường suy giảm và thanh
khoản suy yếu đã tác động lớn đến kết quả kinh doanh của nhóm công ty chứng
khoán thống kê số lượng của 24 công ty chứng khoán đã niêm yết và có báo cáo
kết quả kinh doanh đầy đủ trong 4 năm gần nhất cho thấy doanh thu trong năm
2011 của nhóm công ty này đã giảm 30% so với năm 2010. trong khi đó, lợi
nhuận sau thuế 3 liên tiếp từ mức gần 3000 tỉ đồng của năm 2009 xuống mức lỗ
ước tính khoang 750 tỉ đồng vào năm 2011 nhiều công ty âm cả và vốn chủ sở
hữu
Diễn biến của các ngành
Cùng với sự suy giảm của các chỉ số thị trường, hầu hết các ngành giảm mạnh
trong năm 2011. ngành hàng tiêu dùng là nhóm ngành duy nhất sinh lợi trong
năm này, với mức tăng khoảng 6% . Hai ngành khác có tỷ suất sinh lợi giảm nhẹ
hơn so với VNInex là công nghệ (-26%) và Y tế (-17%). Sáu nhóm ngành còn lại
đều có mức giảm mạnh hơn VNInex, trong đó các ngành viễn thông, dịch vụ tiêu
dùng, nguyên liệu cơ bản, công nghiệp là những nhóm ngành giảm mạnh nhất,
với mức giảm xấp xỉ 40% đến 70%. Do là nhóm ngành tập trung khá nhiều cổ
phiếu trụ cột nên nhóm ngành tài chính giảm không khá mạnh so với VNIndex
mức sụt giảm trong năm 2011 của ngành này 29%
12
13
2.2 Giai đoạn 2012: 6 tháng đầu năm
a. Tình hình thị trường chứng khoán 6 tháng đầu năm
2012
488,07 là mốc điểm cao nhất mà VN-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm 2012
(xác lập ngày 8/5/2012). 336,73 là mốc điểm thấp nhất mà VN-Index đạt được
trong 6 tháng đầu năm (xác lập ngày 6/1/2012). Như vậy, VN-Index từng có thời
điểm đạt mức tăng trưởng tới 44,94%.
14
83,79 là mốc điểm cao nhất mà HNX-Index đạt được trong 6 tháng đầu năm
2012 (xác lập ngày 7/5/2012). 55,27 là mốc điểm thấp nhất mà HNX-Index đạt
được trong 6 tháng đầu năm 2012 (xác lập ngày 9/1/2012). Như vậy, HNX-Index
đã có mức tăng trưởng tới 51,60%. Tuy nhiên, nếu tính từ đỉnh thị trường tháng
5/2012, hiện tại cả hai chỉ số đã sụt giảm khoảng 15% giá trị.
15
Trên sàn UPCoM, chỉ số UPCoM-Index trong 6 tháng đầu năm 2012 xác lập
mức đỉnh cao nhất là 36,49 điểm (ngày 25/5), mức thấp nhất là 33,31 điểm (ngày
13/1). Như vậy, chỉ số UPCoM-Index chỉ có mức tăng trưởng 9,55%. So với mức
đỉnh đã thiết lập trong nửa đầu năm, hiện UPCoM-Index cũng chỉ giảm chưa đầy
1% giá trị.
16
Trong 6 tháng đầu năm, nhà đầu tư ngoại đã mua ròng tổng cộng hơn 195,376 tỷ
đồng trên TTCK Việt Nam. Cụ thể, khối ngoại mua ròng gần 970 tỷ đồng trên
HNX, bán ròng hơn 780 tỷ đồng trên HOSE và mua ròng 6,1 tỷ đồng trên
UPCoM. Đáng chú ý, khối ngoại tập trung thoái vốn nhiều nhất vào tháng 1,
tháng 4 và tháng 6.
Trong 6 tháng đầu năm, nhà đầu tư đã đặt lệnh mua 24,568 tỷ cổ phiếu và đặt
lệnh bán 23,524 tỷ cổ phiếu trên cả 3 sàn chứng khoán. Bình quân, mỗi tháng nhà
đầu tư đặt mua 1,364 tỷ cổ phiếu và đặt bán 1,306 tỷ cổ phiếu, gấp hơn 2 lần so
với bình quân năm 2011.
17
Tổng giá trị vốn hóa của TTCK Việt Nam tính đến 26/6/2012 là 799.783 tỷ đồng.
Trong đó, sàn Hà Nội hiện có 398 cổ phiếu, tổng giá trị vốn hóa đạt hơn 104.618
tỷ đồng. Trên sàn HOSE, có 302 cổ phiếu và 5 chứng chỉ quỹ niêm yết, tổng giá
trị vốn hóa đạt hơn 671.386 tỷ đồng. Trên sàn UPCoM, tổng giá trị vốn hóa của
129 công ty đăng ký giao dịch là 23.779 tỷ đồng. 344.546 tỷ đồng là tổng vốn
điều lệ của 700 doanh nghiệp niêm yết trên cả 2 sàn chứng khoán Việt Nam.
6 tháng đầu năm, có 7 doanh nghiệp niêm yết mới trên HNX là AMC, KHL,
LAS, ASA, CTX, DHL, VPC với tổng số cổ phiếu lưu hành là 102.868.543 đơn
vị, tổng vốn điều lệ đạt 1.068,788 tỷ đồng (chiếm khoảng 1,2% vốn điều lệ toàn
18
thị trường). Có 4 doanh nghiệp niêm yết mới trên HOSE là TCO, SVI, DRL,
GAS với tổng số cổ phiếu niêm yết là 1.926.288.990 đơn vị (chiếm khoảng
8,02% vốn điều lệ toàn thị trường).
624,02 tỷ đồng/phiên là giá trị giao dịch trung bình của sàn Hà Nội, trong khi
1.164,34 tỷ đồng là giá trị giao dịch trung bình của sàn TP. HCM. Trong khi đó,
bình quân mỗi phiên, sàn UPCoM chỉ có 29,2 tỷ đồng giá trị được chuyển
nhượng trong 6 tháng đầu năm. Như vậy, tổng giá trị giao dịch bình quân mỗi
phiên trên TTCK Việt Nam trong 6 tháng đầu năm đạt hơn 1.817 tỷ đồng, tăng
74% so với con số 1.044 tỷ đồng bình quân cả năm 2011.
b. Tình hình kinh doanh chứng khoán
Dù khó khăn chung toàn nền kinh tế, các công ty kinh doanh chứng khoán vẫn
kiếm "bộn tiền" trong 6 tháng đầu năm 2012 nhờ đà tăng của thị trường
cùng những khoản thu ổn định như phí môi giới.
Theo báo cáo hợp nhất đã kiểm toán do Công ty
chứng khoán VNDIRECT cung cấp, trên tổng số
26 công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
khoảng 80% doanh nghiệp niêm yết ở 2 sàn chứng
khoán báo lãi quý II/2012 và lũy kế 6 tháng đầu
năm. Trong đó, Công ty cổ phần Chứng khoán Sài
Gòn (SSI) có lợi nhuận sau thuế cao nhất sàn
HOSE, đạt 304,09 tỷ đồng. Tại HNX, vị trí này
19
thuộc về Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt
(BVS) với 65,56 tỷ đồng.
Biểu đồ doanh thu 6 tháng đầu năm của các công ty kinh doanh tài
chính trên sàn HOSE. Đơn vị tính: Tỷ Đồng. Nguồn: VNDIRECT
Đặc biệt, trong danh sách này, cả 5 công ty kinh doanh chứng khoán niêm yết
trên sàn HOSE đều báo lãi. Xét về doanh thu, Chứng khoán Nông nghiệp và phát
triển nông thôn Agriseco (AGR) đạt mức cao nhất, lên tới 482,88 tỷ đồng qua 6
tháng đầu năm 2012, kết quả này chủ yếu do hoạt động tự doanh tại công ty mang
lại. Trong khi đó, Chứng khoán Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam chỉ đạt 157,8
tỷ đồng,
20
- Xem thêm -