ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN XÃ HỘI HỌC
TRẦN THỊ THANH LOAN
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG RƯỢU BIA
TRONG THANH THIẾU NIÊN HÀ NỘI
Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số: 603130
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC
Hà Nội - 2011
0
Công trình được hoàn thành tại: Viện Xã hội học- Viện Khoa
học xã hội Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học: TS. Trương Xuân Trường
Phản biện 1: PGS. TS Vũ Tuấn Huy
Phản biện 2: PGS. TS Phạm Văn Quyết
Luận văn sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại Viện Xã hội học vào lúc 08h00 ngày 16 tháng 01 năm
2012
Có thể tìm luận văn tại:
Trung tâm Thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
0
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
2
Nội dung
12
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn nghiên cứu về việc 12
sử dụng rượu, bia
1. Cơ sở lý luận nghiên cứu về rượu, bia
12
1.1 Một số khái niệm công cụ
12
1.2 Cách tiếp cận nghiên cứu
13
2. Cơ sở thực tiễn – Các chính sách nghiên cứu về rượu, 13
bia
Chương 2: Thực trạng và các nhân tố tác động đến 18
việc sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên hà Nội
2.1 Thực trạng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên 18
Hà Nội
2.2 Các nhân tố tác động đến việc sử dụng rượu, bia trong 21
thanh thiếu niên Hà Nội
Chương 3: Hệ quả của việc sử dụng rượu, bia và xu 22
hướng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà
Nội
3.1 Hệ quả của việc sử dụng sử dụng rượu, bia
22
3.2 Xu hướng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà 23
Nội
Kết luận
24
1
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã mở ra một thời kỳ
mới cho sự phát triển của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng.
Sử dụng rượu là một thói quen mang đậm nét văn hóa truyền
thống tại nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam. Vào thời điểm năm
2006, mức tiêu thụ bia bình quân/người/năm ở nước ta là 15,8 lít,
gần bằng 2/3 so với mức tiêu thụ chung của toàn thế giới (22 lít).
Mức tiêu thụ rượu bình quân/người/năm ở nước ta là 3,9 lít trong
khi đó mức tiêu thụ chung trên toàn cầu là 6 lít…
Thanh thiếu niên là lực lượng lao động trí thức cần thiết cho sự
phát triển của đất nước. Sự giàu có và phồn vinh của quốc gia được
cấu thành từ nhiều yếu tố - trong đó có yếu tố con người, và có sự
góp sức của lứa tuổi thanh thiếu niên. Cùng với sự phát triển mạnh
mẽ của nền công nghệ tiên tiến, toàn cầu hóa đang diễn ra mọi nơi
trên thế giới, thanh thiếu niên Việt Nam cũng có cơ hội hòa vào
dòng thác công nghệ, nhiều cơ hội để phát hiện và phát triển bản
thân. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội đó, thì thanh thiếu niên
Việt Nam phải đối đầu với những thách thức mới: đó là sư xâm
nhập lối sống tự do, tệ nạn xã hội, những thước phim quảng cáo
rượu, bia mang tính toàn cầu. Lối sống được du nhập từ phương
Tây: hút thuốc lá, uống rượu, ma túy và tình dục không an toàn
đang
là
vấn
đề
lớn
của
thanh
thiếu
niên
(http://tcyh.yds.edu.vn/2008/2008 PB T12 so 4 - YTCC). Vì vậy, tình
hình sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên vẫn là chủ đề mang
đầy tính thời sự và cần được quan tâm, tìm hiểu nhiều hơn nữa. Đó
cũng chính là lý do khiến tác giả lựa chọn vấn đề: Thực trạng sử
dụng rượu bia trong thanh thiếu niên Hà Nội để nghiên cứu. Tác
2
giả thực hiện nghiên cứu này nhằm trả lời cho câu hỏi: Sử dụng
rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội như thế nào? Những nhân
tố tác động đến việc sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên? Và,
xu hướng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên trong thời gian
tới diễn ra như thế nào?
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1 Các nghiên cứu của phương Tây về rượu, bia
Các nghiên cứu gần đây của nhiều nước trên thế giới như Thụy Điển,
Anh,… cho thấy xu hướng trẻ hóa tuổi bắt đầu uống rượu, gia tăng trong
tần suất và lượng rượu tiêu thụ ở nhóm tuổi thanh niên (WHO, 2004). Đối
với học sinh khi mà hoạt động chủ đạo của họ là học tập thì việc sử dụng
đồ uống có cồn sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình học tập của các
em. Trong năm 2004 - 2005, cứ 100.000 học sinh trung học ở Anh thì có
146 học sinh bị nhà trường tạm thời cho nghỉ học vì có liên quan đến đồ
uống có cồn và 06 trên 100.000 học sinh bị đuổi khỏi trường học
(http://www.apho.org.uk/apho/indications.htm). Và, đồ uống có cồn còn
được xác định là có mối liên quan đến tình trạng trốn học. Ở Lôn đôn,
trong độ tuổi 14-16 có hơn 2/3 lạm dụng rượu, bia và đó là những đối
tượng thường xuyên trốn học (Best, D; Manning, V; Gossop, M et al.
(2006). Excessive drinking and other problem behaviours among 14-16
year old children. Addictive Behaviours. 31(8): 1424-1435).
Độ tuổi và địa điểm sử dụng rượu, bia có mối liên hệ với việc
sử dụng rượu, bia của giới trẻ, theo một cuộc khảo sát ở North West
của Anh cho thấy: Khoảng 90% số học sinh (tuổi 15 và 16) được
khảo sát cho biết họ thỉnh thoảng uống rượu. 38,0% thường rơi vào
trạng thái “hũ chìm”, 24,4% là thường xuyên uống (uống hai hay
nhiều lần một tuần) và 49,8% uống tại các nơi công cộng (chẳng
hạn như tại các câu lạc bộ, đường phố và công viên). Trẻ em
3
thường uống rượu ở các nơi công cộng nhiều hơn là uống tại gia đình
(Trích lại từ Alcohol and adolescents, 2010).
Nghiên cứu của Victoria White và Jane Hayman, 2006 về “Sử
dụng đồ uống có cồn của học sinh trung học Úc vào năm 2005”.
Kết quả, tỷ lệ học sinh hiện đang uống rượu, bia trước thời điểm
khảo sát tăng lên theo lứa tuổi với 10% ở tuổi 12 và tăng lên tới
49% ở độ tuổi 17. Cha mẹ là yếu tố có sự tác động phổ biến nhất
đến việc sử dụng rượu, bia của học sinh, với 37% nam giới và 38%
nữ giới cho thấy họ đã được cha mẹ họ cho uống rượu trong tuần
qua. Ba địa điểm mà giới trẻ thường uống rượu là tại gia đình, tại
nhà của bạn bè hoặc tại các bữa tiệc.
Các kết quả khảo sát mới nhất của Anh cho thấy không có sự
khác biệt về giới tính trong việc sử dụng rượu, bia của giới trẻ và sự
tác động của bạn bè cũng như áp lực tự thân là một trong yếu tố
khiến giới trẻ tìm đến rượu, bia: nữ giới ngày nay đã “bắt kịp” nam
giới về việc tiếp cận và sử dụng rượu, bia. Ở Anh, dưới 18 tuổi
không được phép mua rượu cho mình nhưng 63% của những người
tuổi từ 16 – 17 và 10% ở độ tuổi 12 – 15 người đã say sưa trong
năm qua nói rằng họ thường mua rượu trong quán rượu, quầy bar
và câu lạc bộ đêm. Giới trẻ coi rượu như là một phương tiện giao lưu
xã hội với bạn bè (62%). Uống rượu để gia tăng sự tự tin cũng là một chỉ
báo quan trọng (www.ias.org.uk/resources/factsheets/adolescents.pdf).
Các chương tình quảng cáo về rượu, bia trên các phương tiện
truyền thông đại chúng có sự tác động nhất định đến việc sử dụng
rượu trong thanh thiếu niên. Một nghiên cứu gần đây về ảnh hưởng
của việc quảng cáo rượu đối với thanh thiếu niên ở Ai-len cho thấy:
Đa số những thanh thiếu niên được khảo sát đều khẳng định là họ
yêu thích các chương trình quảng cáo về rượu. Và, hầu hết các
4
thanh thiếu niên tin rằng nội dung của các chương trình quảng cáo
sẽ góp phần định hướng cho hành động hay mục tiêu cho họ, bởi vì
các chương trình quảng cáo mô tả cảnh - nhảy múa, sự giải trí ở
hộp đêm, âm nhạc sôi động... Thanh thiếu niên coi những quảng
cáo về rượu, bia như là những gợi ý, những chương trình quảng cáo
rượu, bia tạo nên khuynh hướng bao trùm rằng rượu sẽ đem đến
thành công trong cuộc sống và tình dục… (Trích lại từ Alcohol and
advertising, 2010).
Việc lạm dụng rượu, bia còn gây ra các gánh nặng lớn về
kinh tế cho xã hội chủ yếu do các chi phí khám chữa bệnh và thiệt
hại do tai nạn. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới tử vong do
tai nạn giao thông ở huyện Tirana – Albania, năm 2000 - 2005 cho
biết những người có sử dụng rượu, bia có nguy cơ bị tử vong do tai
nạn giao thông cao gấp 6,15 lần người không sử dụng rượu, bia
(Trích lại từ Tạp chí Y học dự phòng, 2009, số 5 (104):130). Theo
nghiên cứu về nước Pháp, các vấn đề do rượu, bia gây ra thiệt hại
chiếm 1,5% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 1997, cao hơn so
với thuốc lá (1,2%). Nghiên cứu khác ở Mỹ báo cáo một con số cao
hơn là 2,1% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) (Trích lại từ điều tra Y
tế Việt Nam, 2006:97).
Như vậy, qua các nghiên cứu của mình, các tác giả phương
Tây cho thấy rằng, lứa tuổi lần đầu tiếp cận rượu, bia đang được trẻ
hóa. Sử dụng rượu, bia khác nhau theo lứa tuổi và không có sự khác
biệt về giới trong việc sử dụng rượu, bia. Địa điểm mà giới trẻ sử
dụng rượu, bia là tại gia đình, tại nhà của bạn bè hoặc tại các bữa
tiệc. Cùng với gia đình thì yếu tố nhóm bạn, các chương trình
quảng cáo về rượu, bia cũng có sự tác động nhất định đến hành vi
sử dụng rượu, bia của giới trẻ.
5
2.2 Các nghiên cứu của Việt Nam về rượu, bia
Ở Việt Nam các vấn đề về rượu, bia đã được nghiên cứu từ những
năm 90 của thập kỷ trước. Các nghiên cứu chỉ ra rằng: tuổi lần đầu sử
dụng rượu, bia có sự chênh lệch với các nước trong khu vực, nam giới sử
dụng, lạm dụng và nghiện rượu, bia nhiều hơn so với nữ giới, tỉ lệ đã từng
uống hết một cốc rượu, bia tăng theo độ tuổi.
Nghiên cứu tại phường Trung Trực, Hà Nội năm 1994 với số
mẫu là 7.986 người từ 15 tuổi trở lên cho thấy nghiện rượu chỉ có ở
nam giới, với 1,9% nghiện rượu, bia và 50 – 60% tổng số người
nghiện rượu ở lứa tuổi 30 đến 50. Cuộc Điều tra Y tế quốc gia
(2001 – 2002), đã phát hiện 22,2% dân số trên 15 tuổi có uống rượu
bia từ một lần trở lên trong tuần, trong đó nam chiếm 46% và nữ
chiếm 2%; 77,9% dân số trên 10 tuổi đang dùng rượu, bia đã bắt
đầu uống trong độ tuổi 15 – 25. Nghiên cứu về các bệnh lý liên
quan đến rượu tại huyện Ba Vì khám lâm sàng trên 585 đối tượng từ
18 đến 60 tuổi năm 2003 cho thấy ở nam giới tỷ lệ nghiện rượu là 8%
trong khi đó tỷ lệ này ở nữ là 0% (Trích lại từ điều tra Y tế Việt Nam,
2006:101).
Năm 2006, được sự uỷ quyền của Dự án thành phần Chính
sách Y tế; Viện Chiến lược và Chính sách Y tế, Bộ Y tế đã tiến
hành nghiên cứu đánh giá về “Tình hình lạm dụng rượu bia tại Việt
Nam”, cuộc điều tra đã chỉ ra rằng: Tỷ lệ sử dụng rượu (ít nhất là 1
lần/tuần) tại các địa bàn nghiên cứu là 33,5%. Tỷ lệ sử dụng rượu
trong nhóm nam là 64%, cao hơn so với số liệu điều tra về tình hình sử
dụng rượu, bia tại 12 quốc gia đang phát triển (50%) và thấp hơn so với tỷ
lệ sử dụng rượu của nam giới trong khu vực Tây Thái Bình Dương là
84%.(http://www.hspi.org.vn/vcl/vn/home/InfoDetail.jsp?area=1&cat=67
&ID=951).
6
Cuộc Điều tra quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam (SAVY) do Tổng cục Thống kê và Bộ Y tế phối hợp với một
số tổ chức quốc tế thực hiện năm 2003 (SAVY 1) với tổng số mẫu
là 7.584 vị thành niên và thanh niên từ 14 – 25 tuổi tại 42 tỉnh, cho
thấy uống rượu, bia là hiện tượng phổ biến ở nam thanh niên (69%)
và ít phổ biến hơn ở nữ thanh thiếu niên với 28,1% nữ cho biết họ
đã từng uống rượu, bia. Tỷ lệ thanh niên đã từng uống rượu, bia
tăng lên theo độ tuổi. Cuộc điều tra lần thứ hai SAVY 2 năm 2009
đã được tiến hành với 10.044 VTN/TN trong độ tuổi 14-25 sống ở
khắp 63 tỉnh/thành trên toàn quốc bao gồm cả nông thôn và thành
phố lớn, cho thấy, tỷ lệ chung những người được hỏi đã từng uống
hết (một cốc rượu/bia?) là khá cao, 58,6%, trong đó 79,9% đối với
nam và 36,5% đối với nữ. Tỷ lệ từng uống hết một cốc rượu, bia
tăng lên theo độ tuổi, với 47,5% ở nhóm tuổi 14-17, 66,9% ở nhóm
tuổi 18-21 và 71,2% ở nhóm tuổi 22-25.
Hiện nay chưa có một nghiên cứu về rượu, bia nào đặc biệt
quan tâm đến đối tượng thanh thiếu niên nói chung và thanh thiếu
niên đang sống, lao động và học tập tại Hà Nội nói riêng. Cuộc
Điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và thanh niên
Hà Nội 2006 (với số lượng mẫu 6.363 vị thành niên và thanh niên)
cũng không phải là cuộc nghiên cứu riêng về việc sử dụng rượu, bia
của thanh thiếu niên Hà Nội, vì vậy, vấn đề chưa thể đi sâu và là
hạn chế nhất định với triển khai đề tài luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Nêu lên thực trạng sử dụng rượu, bia và làm rõ các nhân tố tác động
đến việc sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội. Đồng thời chỉ ra
các hệ quả của việc sử dụng rượu, bia và xu hướng sử dụng rượu, bia
7
trong thanh thiếu niên Hà Nội. Những thông tin này sẽ bổ sung tư liệu cho
việc nhận định tình hình sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên hiện
nay, góp phần định hướng cho thanh thiếu niên có lối sống lành mạnh
hơn.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Đề tài đặt ra 04 nhiệm vụ phải giải quyết là:
Thứ nhất là tổng quan về tình hình sử dụng rượu, bia của thanh
thiếu niên.
Thứ hai, làm rõ cơ sở lý luận và những khái niệm cơ bản có liên
quan. Vận dụng các cách tiếp cận nghiên cứu và khái niệm liên
quan vào lý giải và làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. Các cách tiếp
cận nghiên cứu: Cách tiếp cận xã hội hóa; cách tiếp cận tương tác
biểu trưng. Các khái niệm công cụ: Rượu, bia, lạm dụng rượu, bia,
vị thành niên và thanh thiếu niên.
Thứ ba là phân tích thực trạng sử dụng rượu, bia của thanh thiếu
niên Hà Nội.
Cuối cùng, phân tích các nhân tố tác động đến việc sử dụng rượu,
bia và chỉ ra những hệ quả của việc sử dụng rượu, bia cũng như xu
hướng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1 Phương pháp luận
Trong phân tích này, tác giả sử dụng 02 cách tiếp cận: Cách
tiếp cận xã hội học về xã hội hóa; cách tiếp cận tương tác biểu
trưng để phân tích thực trạng sử dụng rượu, bia và các nhân tố tác
động đến việc sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội.
4.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Tác giả không tiến hành một nghiên cứu riêng, mà thông qua
phân tích tài liệu, tổng quan tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực rượu,
8
bia. Và sử dụng phương pháp số liệu có sẵn dựa trên bộ số liệu định
lượng có sẵn của cuộc Điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị
thành niên và thanh niên tại Hà Nội do Viện Gia đình và Giới phối
hợp với Bộ Y tế Việt Nam, Đại học Jonhs Hopkins (Hoa Kỳ) thực
hiện năm 2006 cùng với một số trường hợp phỏng vấn sâu và các tư
liệu gần đây.
Cuộc điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và
thanh niên tại Hà Nội được tiến hành năm 2006 tại 07 quận: Cầu
Giấy, Đống Đa, Ba Đình, Thanh Xuân, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng,
Hoàng Mai và 5 huyện: Sóc Sơn, Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì,
Từ Liêm của Hà Nội (trước khi mở rộng). Có 6.363 vị thành niên
và thanh niên độ tuổi 15-24 đã tham gia vào cuộc điều tra này.
Cuộc điều tra này đã thu thập thông tin bằng cách thức: phỏng vấn
trực tiếp bằng bảng hỏi và có áp dụng phương thức phỏng vấn để
thanh niên tự trả lời. Phương pháp phân tích số liệu: Số liệu gốc của
cuộc điều tra sẽ được xử lý bằng chương trình SPSS. Các phân tích
tần suất, tương quan hai chiều, đa biến.
Bên cạnh đó, tác giả còn tiến hành phỏng vấn sâu: 10 trường hợp
trong đó có 06 trường hợp thanh niên có nghề nghiệp khác nhau (03 nam,
03 nữ); 02 trường hợp là phụ huynh; 02 trường hợp là học sinh, sinh viên
về chủ đề liên quan đến hành vi sử dụng rượu, bia.
Kết quả nghiên cứu được trình bày theo 03 hình thức phân tích như
sau:
Thứ nhất: Phân tích mô tả (tần suất): cung cấp thông tin chung về
thực trạng sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên.
Thứ hai: Phân tích nhị biến (tương quan hai chiều): Kiểm nghiệm
mối quan hệ giữa từng yếu tố (giới tính, tuổi, trình độ học vấn...)
9
đối với việc sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên. Kiểm định X2
được sử dụng để xem xét mức độ mối quan hệ giữa các biến số.
Thứ ba: Nhằm xác định các yếu tố tác động đến hành vi sử dụng
rượu, bia của thanh thiếu niên, vì vậy, trong luận văn còn sử dụng
phân tích hồi quy đa biến. Kiểm định thống kê X2 được sử dụng để
xem xét mối quan hệ giữa các biến số đó có ý nghĩa về mặt thống
kê hay không.
5. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng sự dụng rượu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội
5.2 Khách thể và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Thanh thiếu niên trong độ tuổi 15-24 tuổi
Phạm vi nghiên cứu: Thành phố Hà Nội trước khi mở rộng
6. Giả thuyết nghiên cứu
Đề tài đưa ra 04 giả thuyết nghiên cứu như sau:
Giả thuyết 1: Hành vi sử dụng rượu, bia có sự khác biệt giữa nam,
nữ thanh thiếu niên và khu vực cư trú, độ tuổi.
Giả thuyết 2: Các yếu tố: trình độ học vấn; học lực; môi trường học
tập, bị ghi sổ học bạ vì hành vi ứng xử kém và hiện đang đi học là
những yếu tố có thể làm tăng hoặc giảm nhu cầu sử dụng rượu, bia
của thanh thiếu niên.
Giả thuyết 3: Việc hiện có/không đi làm kiếm tiền tạo ra sự khác
biệt trong tần suất sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên.
Giả thuyết 4: Các yếu tố: gia đình, phương tiện truyền thông đại
chúng và nhóm bạn có sự tác động đến hành vi sử dụng rượu, bia
của thanh thiếu niên. Trong đó, phương tiện truyền thông đại chúng
và nhóm bạn là những nhân tố tác động mạnh đến hành vi sử dụng
rượu, bia trong nam thanh thiếu niên.
10
7. Đóng góp của luận văn
Bổ sung thêm thông tin cho những khoảng trống trong nghiên cứu
về tình hình sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên.
Gợi mở các hướng nghiên cứu tiếp theo cho chủ đề này.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo bổ ích cho việc nghiên cứu và truyền thông về chủ đề này.
8. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo, các bài viết có liên quan đến luận văn. Phần nội
dung gồm 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn; Chương
2: Thực trạng và các nhân tố tác động đến việc sử dụng rượu, bia
trong thanh thiếu niên Hà Nội; Chương 3: Hệ quả của việc sử dụng
rượu, bia và xu hướng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà
Nội và một số khuyến nghị.
9. Hạn chế của đề tài
Do đặc điểm của đề tài là sử dụng số liệu có sẵn và đây là một
nghiên cứu chung về tình dục và sức khỏe sinh sản vị thành niên và
thanh niên Hà Nội, không phải là cuộc nghiên cứu riêng về việc sử
dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên Hà Nội nên luận văn chưa đủ
các bằng chứng để giải thích một số vấn đề cần làm rõ trong đề tài.
Bên cạnh đó, do đây là một nghiên cứu cắt ngang nên khó xác định
được yếu tố nào xảy ra trước, yếu tố nào xảy ra sau, trong khi đó
trong phần phân tích hồi quy lại tìm hiểu yếu tố nào xảy ra trước,
yếu tố nào xảy ra sau, yếu tố nào tác động đến yếu tố nào nên kết
quả phân tích không được như mong đợi.
11
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU
VỀ SỬ DỤNG RƯỢU, BIA
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU VỀ SỬ DỤNG RƯỢU, BIA
1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
Sử dụng rượu, bia
Khái niệm sử dụng rượu bia trong nghiên cứu này được định
nghĩa là: Thanh thiếu niên đã có ít nhất 01 lần uống rượu, bia tính
đến thời điểm điều tra.
1.1.2 Lạm dụng rượu, bia
Lạm dụng rượu, bia được xác định theo quy chuẩn của Tổ
chức Y tế thế giới: Nam uống trên 3 đơn vị rượu/ngày (Một đơn vị
rượu tương đương 10 gram rượu nguyên chất chứa trong dung dịch
uống – pure nit of alcohol = 01 cốc chuẩn. Một cốc chuẩn tương
đương: 01 lon bia 330ml nồng độ 5%, 01 cốc rượu vang 125ml
nồng độ 11%, 01 ly rượu vang mạnh 75ml nồng độ 11%, 01 ly rượu
vang mạnh 75ml nồng độ 20%, 01 chén rượu mạnh 30ml nồng độ
30%) hoặc 21 đơn vị rượu/tuần; nữ uống trên 02 đơn vị/ngày hoặc
14 đơn vị/tuần (Tạp chí Y học thực hành (650) – Số 3/2009:40).
1.1.3 Vị thành niên và thanh niên
Vị thành niên là một trong những khái niệm được hiểu một
cách đa nghĩa và dễ gây tranh luận nhiều cả về nội hàm lẫn ngôn từ
của nó trong tư duy xã hội học. Tuỳ thuộc vào vị trí tiếp cận, góc
nhìn cũng như chức năng, nhiệm vụ của mỗi chuyên ngành mà vị
thành niên lại được giải thích theo một cách thức riêng.
Tổ chức y tế thế giới đã đưa ra một tiêu chí cơ bản để chỉ nhóm
vị thành niên. Đó là: “nhóm nhân khẩu xã hội có tuổi đời từ 10 đến
18 tuổi”. Trong nhóm vị thành niên nói trên, người ta lại phân nhỏ
12
thành ba nhóm khác nữa: nhóm vị thành niên nhỏ từ 10-13 tuổi,
nhóm vị thành niên trung bình từ 14-16 tuổi, nhóm vị thành niên
lớn từ 17-18 tuổi (Đặng Vũ Cảnh Linh, 2004).
Căn cứ theo các quy định trong các luật về độ tuổi của vị thành niên
và căn cứ theo cách chia độ tuổi của Tổ chức Y tế Thế giới, theo tác
giả luận văn độ tuổi của vị thành niên từ 10 tuổi đến 18 tuổi là hợp
lý hơn cả.
Theo Luật Thanh niên được thông qua vào ngày 29/11/2005 tại
kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XI và được Chủ tịch nước công bố tại
lệnh số 24/2005/L/CTN ngày 09/12/2005 thì độ tuổi của Thanh
niên là “từ đủ 16 tuổi đến 30 tuổi”
1.2 CÁCH TIẾP CẬN NGHIÊN CỨU
Đề tài tiếp cận vấn đề nghiên cứu dựa trên cách tiếp cận xã hội hóa
và cách tiếp cận tương tác – biểu trưng.
1.2.1 Cách tiếp cận xã hội hóa
Theo Neil Smelser: “Xã hội hóa là quá trình mà trong đó cá
nhân học cách thức hành động tương ứng với vai trò của mình”.
Theo định nghĩa này, vai trò của cá nhân trong quá trình xã hội hóa
chỉ giới hạn trong việc tiếp nhận các kinh nghiệm, giá trị, chuẩn
mực. Chưa đề đập tới khả năng cá nhân có thể tạo ra những giá trị,
kinh nghiệm, chuẩn mực để xã hội học theo. Như vậy, dường như
cá tính của con người bị tan biến vào những đặc điểm xã hội mà cá
nhân tiếp thu được. Một nhà xã hội học khác của Mỹ Fichter đã
xem: “Xã hội hóa là một quá trình tương tác giữa người này và
người khác, kết quả là một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành
động, và thích nghi với những khuôn mẫu hành động đó”. Như vậy,
Fichter đã chú ý hơn tới tính tích cực của cá nhân trong quá trình xã
hội hóa. (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng, 2001:258).
13
Định nghĩa của nhà khoa học người Nga G.Andreeva đã nêu
được cả hai mặt của quá trình xã hội hóa. Bà cho rằng: “Xã hội hóa
là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội
bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan
hệ xã hội. Mặc khác, cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ
thống các mối quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào
các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội. Như vậy,
mặt thứ nhất của quá trình xã hội hóa là sự thu nhận kinh nghiệm
xã hội thể hiện sự tác động của môi trường tới con người. Mặt thứ
hai của quá trình này thể hiện sự tác động của con người trở lại môi
trường thông qua hoạt động của mình ” (Phạm Tất Dong, Lê Ngọc
Hùng, 2001:259).
Bên cạnh sự ảnh hưởng xã hội hóa của gia đình và bạn bè thì
phương tiện truyền thông đại chúng cũng có những ảnh hưởng
không nhỏ đến quá trình xã hội hóa của mỗi cá nhân. Trong các
phương tiện truyền thông đại chúng thì truyền hình là phương tiện
truyền thông đại chúng thuyết phục nhất, tác động mạnh đến quá
trình xã hội hóa, truyền hình là một phương tiện lập trình thái độ và
niềm tin của chúng ta và truyền hình vẫn còn là chủ đề tranh luận
đến mức làm méo mó các mối quan hệ của chúng ta bằng cách ủng
hộ các mẫu rập khuôn truyền thống (Jonh. Macionis, 2004: 172).
Tóm lại, cách tiếp cận xã hội hóa được vận dụng vào trong
nghiên cứu này nhằm làm sáng tỏ sự tác động của gia đình, bạn bè,
môi trường học tập và phương tiện truyền thông đại chúng đến hành vi
sử dụng rượu, bia của thanh thiếu niên Hà Nội.
1.2.3 Cách tiếp cận tương tác – biểu trưng
Thuyết tương tác biểu trưng, đại diện là George H.Mead
(1863-1931). Lý thuyết này chỉ ra rằng các cá nhân chịu ảnh hưởng
14
bởi cấu trúc xã hội và sự tương tác xã hội, đặc biệt là mối quan hệ
với những người trong nhóm.
Theo Herbert Blumer – một trong những người phát triển lý
thuyết này, khái niệm “tương tác biểu trưng” dùng để chỉ một đặc
trưng cơ bản của tương tác giữa người với người. Đó là việc các cá
nhân luôn phải lý giải, định nghĩa, xác định hành động của nhau
chứ không đơn thuần là đáp lại hành động của nhau. Điều đó có
nghĩa là hành động của cá nhân không phải là sự phản ứng trực tiếp
đối với hành động của người khác.
Tóm lại, Blumer nhấn mạnh rằng con người là những chủ thể tích
cực, hành động trên cơ sở những ý nghĩa mà họ gán cho vào tương tác xã
hội của họ. Đây là quá trình xã hội trong đó đời sống nhóm, nó tạo ra và
xác nhận các quy tắc, chứ không phải các quy tắc tạo ra và xác nhận đời
sống nhóm. Theo những học giả của thuyết tương tác biểu trưng, trải
nghiệm cá nhân được bắt nguồn từ sự tương tác đang tiến triển với những
người quan trọng khác và/hoặc những nhóm xã hội quan trọng. Sự tương
tác này được hoạt động trung gian thông qua việc sử dụng những biểu
tượng cho phép con người hiểu, xây dựng và chia sẻ những sự trải nghiệm
của họ, bao gồm những hành động của họ trong xã hội. Một số đặc điểm
và tính chất của mối quan hệ giữa con người và xã hội được thuyết tương
tác biểu trưng xem xét trong phức thể các bộ phận chủ thể - khách thể, các
trải nghiệm, các hình ảnh về bản thân được hình thành dưới tác động của
các yếu tố xã hội nhất định và bộc lộ trong những tình huống xã hội cụ thể
(Lê Ngọc Hùng, 2002:303). Như vậy, theo thuyết tương tác biểu trưng,
hành vi của một người sẽ bị ảnh hưởng đáng kể bởi mối quan hệ tương hỗ
với những người khác, đặc biệt những người trong nhóm phi chính thức.
Trên cơ sở vận dụng lý thuyết tương tác biểu trưng vào phân tích thực
trạng sử dụng rượu, bia trong thanh thiếu niên nhằm tìm hiểu và lý giải
15
mối quan hệ giữa phần lớn bạn thân của thanh thiếu niên có sử dụng rượu,
bia với việc thanh thiếu niên có sử dụng rượu, bia, mối quan hệ giữa việc
thanh thiếu niên thấy cần thiết phải sử dụng rượu, bia để chứng tỏ mình
để hòa nhập với bạn bè với hành vi sử dụng rượu, bia của họ trên thực tế.
2. CÁC CHÍNH SÁCH VỀ PHÒNG CHỐNG RƯỢU, BIA
Nước ta đã từng có thời kỳ cấm tư nhân nấu rượu, bán rượu
hoặc đã có chính sách hạn chế quảng cáo rượu bia, cấm lái xe khi
say rượu, cấm lực lượng vũ trang uống rượu, bia trong giờ làm
việc, cấm say rượu, bia nơi công cộng và cấm bán rượu cho trẻ em.
Chính phủ còn có Nghị định số 53/CP ngày 26/6/1994 quy định
biện pháp xử lý hành chính đối với cán bộ, viên chức nhà nước và
người có hành vi liên quan đến say rượu, bê tha. Chỉ thị của Thủ
tướng Chính phủ số 351/TTG ngày 25 tháng 8 năm 1996 về việc
cấm bán các loại rượu và nước uống có nồng độ cồn từ 14 độ trở
lên cho người chưa thành niên và rượu, bia cho trẻ em dưới 16 tuổi.
Nghiêm cấm việc bán và uống rượu, bia trong các trường phổ
thông… Năm 1998, Chính phủ đã đưa ra luật áp thuế tiêu thụ đặc
biệt với mặt hàng rượu, bia. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban
hành quyết định số 35/2001/QĐ – TTg ngày 19/3/2001 phê duyệt
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân giai đoạn 20012010, trong đó có mục tiêu phòng, chống nghiện rượu (Trích theo
Tạp chí Dân tộc học số 6/2006:3). Ngày 07 tháng 04 năm 2008
Chính phủ có Nghị định số 40/2008/NĐ-CP về sản xuất, kinh
doanh rượu... Quy định về việc cấm sử dụng rượu, bia khi tham gia
giao thông từ 2007 và luật Giao thông đường bộ có hiệu lực từ
01/07/2009 cấm người điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên
dùng trên đường mà trong máu và hơi thở có nồng độ cồn; cấm
người điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ
16
cồn vượt quá 50mg/100ml máu hoặc 0,25mg/l khí thở. Đặc biệt,
chưa có quy định phù hợp trong quảng cáo, khuyến mãi và đưa
hình ảnh sử dụng rượu, bia trên các phương tiện truyền thông và
cũng chưa có chính sách truyền thông giáo dục về tác hại của rượu,
bia. Các chính sách còn tản mạn, chưa đồng bộ, chưa đầy đủ.
Nguyên nhân của tình trạng này là do chưa có cơ chế triển khai
thực hiện, chưa được các cấp, cơ quan, đoàn thể quan tâm, thiếu sự
tham gia của người dân và thiếu sự đầu tư nguồn lực cũng như
thiếu kiểm tra giám sát thực hiện.
Hiện nay, Chính phủ đã giao cho Bộ Y tế làm đầu mối xây
dựng dự án Luật Phòng, chống tác hại của lạm dụng rượu, bia.
Theo lộ trình, trong năm 2010, Bộ Y tế sẽ chủ trì xây dựng hoàn
thiện và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chính sách quốc gia
phòng chống tác hại của lạm dụng rượu, bia. Trong dự thảo đề
cương Chính sách quốc gia phòng chống tác hại lạm dụng rượu, bia
giai đoạn 2010 - 2020, một trong những nội dung cơ bản là cấm
quảng cáo, khuyến mãi rượu, bia dưới mọi hình thức. Nhà nước sẽ
tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, quy định về thời gian và mật độ các
điểm bán lẻ rượu, bia, cấm trẻ em dưới 18 tuổi và phụ nữ mang thai
sử dụng rượu, bia… Với sự ra đời của Luật Phòng, chống tác hại
của lạm dụng rượu, bia cũng như Chính sách quốc gia về phòng
chống tác hại lạm dụng rượu, bia.
Tóm lại, chương 1 đã cung cấp những luận cứ khoa học quan
trọng cho việc xây dựng phương pháp phân tích việc sử dụng rượu,
bia trong thanh thiếu niên Hà Nội.
17
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN VIỆC SỬ DỤNG RƯỢU, BIA TRONG THANH THIẾU
NIÊN HÀ NỘI
2.1 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG RƯỢU, BIA TRONG THANH
THIẾU NIÊN HÀ NỘI
* Mối tương quan giữa việc đã từng sử dụng rượu, bia của thanh thiếu
niên với giới tính và khu vực cư trú
Trên cơ sở kết quả điều tra tình dục và sức khỏe sinh sản vị
thành niên và thanh niên Hà Nội 2006, với tổng số đối tượng tham
gia trong mẫu khảo sát này là 6.363 thanh thiếu niên. Khi so sánh
tương quan giữa nam và nữ, ta thấy, tình trạng sử dụng rượu, bia
của thanh thiếu niên không chỉ diễn ra ở nam giới mà ngay cả một
số bạn nữ cũng coi việc uống rượu như là thứ "gia vị" không thể
thiếu được trong các buổi gặp gỡ, liên hoan với chúng bạn… mà
mình tham gia. Tỷ lệ nam và nữ đã từng sử dụng rượu, bia với
33,5% nam và 15,5% là nữ đã từng uống rượu, bia. Nam thanh
thiếu niên đã từng sử dụng rượu, bia cao gấp 02 lần so với nữ thanh
thiếu niên. Điểm phần trăm chênh lệch giữa nam và nữ thanh thiếu
niên đã từng sử dụng rượu bia là 18.
* Mối tương quan giữa việc đã từng sử dụng rượu, bia của thanh
thiếu niên với môi trường học tập
Đối với thanh thiếu niên thì môi trường học tập trong nhà trường
vừa là yếu tố bảo vệ nhưng đồng thời cũng là yếu tố nguy cơ. Kết quả cho
thấy trong 6.363 thanh thiếu niên được hỏi có 111 trường hợp cho rằng
trường học của họ là môi trường không tích cực thì có 58,6% đã từng sử
dụng rượu, bia; với 903 trường hợp cho rằng môi trường học tập của họ là
bình thường không tích cực mà cũng không tiêu cực, có 56,2% đã từng sử
dụng rượu, bia. Đối với 5.322 trường hợp còn lại cho rằng trường học của
18
- Xem thêm -