Chương 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM
2.1. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở
VIỆT NAM
2.1.l. Quá trình phát triển DNNVV ở Việt Nam
Một điểm mốc nổi bật trong lịch sử phát triển doanh nghiệp nói chung,
đặc biệt là DNNVV ở Việt Nam là thời điểm năm 2001, khi Chính phủ ban
hành Nghị định số 90/2001/NĐ-CP vào ngày 23-11-2001 về trợ giúp phát
triển DNNVV, đây là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên dành toàn bộ nội
dung để quy định trực tiếp đối với các DNNVV. Ngày 30-6-2009, Chính phủ
ban hành Nghị định 56 về trợ giúp phát triển DNNVV thay thế Nghị định 90.
Chính vì vậy, khi nghiên cứu về quá trình phát triển DNNVV ở Việt Nam
thông thường người nghiên cứu đi vào ba giai đoạn:
2.1.11. Giai đoạn trước năm 2001
* Giai đoạn trước năm 1986
Trước năm 1975, đất nước vẫn đang còn chiến tranh nhưng đã bắt đầu
thời kỳ xây dựng và phát triển nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Thời kỳ
này, các doanh nghiệp chủ yếu tồn tại dưới hình thức xí nghiệp quốc doanh và
các hợp tác xã và các xí nghiệp công tư họp doanh. Tuy nhiên, trong đó chỉ có
các doanh nghiệp nhà nước và các họp tác xã là được khuyến khích phát triển,
còn các doanh nghiệp thuộc loại hình khác phát triển cầm chừng. Năm 1975,
đất nước được thống nhất. Tại thời điểm này, cả nước có khoảng 1.913 xí
nghiệp quốc doanh và công ty hợp doanh, trong đó phần lớn là các doanh
nghiệp có số vốn nhỏ và lượng lao động ít hầu hết các doanh nghiệp hoạt
động kém hiệu quả. Nền kinh tế tập trung tỏ ra thích hợp trong thời chiến bắt
đầu bộc lộ rất nhiều điểm yếu trong thời bình. Trước thực tế đó, năm 1979,
Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá IV đã đề xuất một số định hướng cho
cuộc đổi mới kinh tế thông qua việc xử lý các vấn đề bức xúc lúc đó (lĩnh vực
sản xuất hàng tiêu dùng). Thời gian này xuất hiện một loạt biện pháp cải cách
như: “khoán 100”, “khoán 10” trong nông nghiệp; Quyết định số 217/HĐBT
vó'i “kế hoạch ba phần”; Quyết định số 38/HĐBT với đẩy mạnh liên kết kinh
tế trong công nghiệp quốc doanh, các biện pháp xoá bỏ ngăn sông, cấm chợ,
mở rộng giao lưu hàng hoá... Đó cũng chính là điểm khởi đầu cho quá trình
hồi phục khu vực kinh tế dân doanh.
Như vậy, đến cuối năm 1980, trong nền kinh tế Việt Nam bên cạnh kinh
tế quốc doanh, đã xuất hiện thành phần kinh tế tư nhân. Sự ra đời của thành
phần này do chính nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, hoạt động còn manh mún,
quy mô vốn còn nhỏ. Điều quan trọng hơn chưa có văn bản đảm bảo sự phát
triển lâu dài của thành phần kinh tế này.
* Giai đoạn sau năm 1986 đến trước năm 2001
Đại hội Đảng CSVN Khoá VI (năm 1986) đã chủ trương đổi mới nền
kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng
xã hội chủ nghĩa tạo động lực thúc đẩy đáng kể đối với sự tăng trưởng nền
kinh tế, trong đó có khu vực ngoài quốc doanh mà lực lượng chính là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cùng với những cải cách về chính sách kinh tế là
xây dựng một Nhà nước pháp quyền, với một nỗ lực to lớn trong việc ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật cần thiết nhằm thực hiện thành công
những chuyển đổi trong các chính sách kinh tế. Trong hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật đó, văn bản quan trọng nhất là Hiến pháp 1992. Hiến
pháp 1992 đã khẳng định vai trò và tính hợp pháp của các thành phần kinh tế
khác nhau, đặc biệt là sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong nền
kinh tế nhiều thành phần. Ngoài ra, còn có nhiều văn bản pháp luật được ban
hành để thực hiện nguyên tắc cơ bản này như Luật doanh nghiệp tư nhân,
Luật công ty, Luật đất đai (1988), Luật đầu tư nước ngoài (1987) Luật Thuế
Xuất khẩu Nhập khẩu (1992), Luật Thương mại, Bộ Luật lao động, Luật
Doanh nghiệp Nhà nước (1995), Luật Phá sản (1994), Luật Khuyến khích đầu
tư trong nước (1994), Luật thuế Doanh thu (1993), Luật Công ty Sửa đổi
(1994), Luật DN tư nhân sửa đổi (1994), Nghị định số 66/HĐBT ngày
2/3/1992 về Hộ kinh doanh cá thể...
Nhờ những cải cách kinh tế và pháp lý, đặc biệt là việc cơ cấu lại cấu
trúc của nền kinh tế, nên đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ: sự mất
cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu các thành phần kinh tế phát sinh trong
những năm 1980 đã giảm bớt; tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế đã đạt trên
7% từ năm 1990; tỷ lệ lạm phát đã giảm từ gần 70% năm 1990 xuống dưới
5% vào năm 1997; tỷ lệ tiết kiệm trong nước trong nước đã tăng đáng kể từ
7,4% năm 1990 lên 17% năm 1996. Và hệ quả của những thay đổi trên là số
lượng doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã giảm mạnh, song tính chung cho
toàn bộ nền kinh tế thì DNNVV lại có bước tăng trưởng đáng kể về số lượng
và chất lượng, chiếm tỷ lệ áp đảo trong tất cả các DN Việt Nam. Theo số liệu
thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, số lượng và tỷ trọng các DNNVV giai
đoạn này được thể hiện qua hai bảng dưới đây (tiêu chí phân loại DNNVV là
lao động bình quân dưới 200 người và vốn dưới 5 tỷ đồng- theo Công văn số
681-CP/KTN của Văn phòng Chính phủ, ngày 22 tháng 6 năm 1998):
Bảng 2.1. DNNVV theo tiêu chí lao động (khu vực vốn trong nước)
Năm 1995
Khu vực kinh tế
Tổng số
Năm 1999
DNNVV
Tổng số
DNNVV
Số DN
Tỷ lệ %
DN
Số DN
Nhà nước
5.873
4.277
73,0
5.718
5.244
91,7
Ngoài nhà nước
17.143
12.895
75,0
42.415
41.590
98,0
Tổng
23.016
17.172
75,0
48.133
Nguồn: [22.tr.69]
46.834
97,0
2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2008
Ngày 23-11-2001, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2001/NĐCP về trợ giúp phát triển DNNVV, đây chính là điểm tựa để thúc đẩy các
DNNVV phát triển.
Kể từ năm 2001 đến năm 2008, cả nước có 310.112 doanh nghiệp
được thành lập mới, gấp khoảng 5 lần số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh(61.245) của 10 năm trước (giai đoạn 1991- 2000). Thêm vào đó,
tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế còn có các
hộ gia đình, làng nghề và họp tác xã.
GDP của khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là các DNNVV)
chiếm 47% năm 2008, tạo ra 50,2% việc làm của toàn nền kinh tế. Trong giai
đoạn 2001- 2007, kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là các DNNVV) đóng
góp khoảng 24.3% giá trị sản xuất công nghiệp, 50% tổng kim ngạch xuất
khẩu. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong tổng vốn đầu tư xã hội
tăng lên hơn 40% năm 2008.
Hình 2.2: Tỷ trọng DNNVV trong các ngành
Tỷ trọng các DNNVV trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy
sản; công nghiệp đã có sự giảm chút. Sự gia tăng tỷ trọng trong các ngành
xây dựng và đặc biệt là sự gia tăng trong ngành thương mại, dịch vụ (từ
57,34% năm 2001 lên 61,01% năm 2008) cho thấy các DNNVV đang
chuyển dịch sang các lĩnh vực kinh doanh đa dạng hơn, bao gồm các khu
vực có tốc độ tăng trưởng cao như dịch vụ tài chinh, phần mềm và các dịch
vụ hỗ trợ kinh doanh khác.
Doanh thu thuần của các DNNVV tư nhân đã tăng đáng kể trong giai
đoạn này tăng từ 203.155 tỷ năm 2000 lên 2.973.456 tỷ năm 2008. Lợi
nhuận trước thuế của khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2008 đạt 35.566
tỷ.
Bảng 2.2: Một số chỉ tiêu tài chính của DNNVV Việt Nam
giai đoạn 2000 – 2008
Đơn vị: Tỷ VND
Năm
Doanh thu thuần
Lợi nhuận trước thuế
2000
203.155
2.041
2001
273.879
3.679
2002
364.844
5.486
2003
485.104
7.236
2004
644.087
8.050
2005
860.338
10.433
2006
2007
1.679.8
2008
1.142.571
19.822
46.887
2.973.456
36.566
Nguồn:. [53]
2.1.1.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Sự ra đời của Nghị định 56/2009/NĐ- CP ban hành ngày 30/6/2009 với
nhiều thay đổi so với Nghị định 90/2001/NĐ-CP số lượng các doanh nghiệp
đăng ký mới cũng đã tăng lên đáng kể. Theo nguồn số liệu của Trung tâm
thông tin doanh nghiệp, Cục Phát triển doanh nghiệp, Bộ Kế hoạch và Đầu
tư, năm có 84.531 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới và năm 2010 có
89.189 doanh nghiệp đăng- ký thành lập mới [6. tr. 32 ]
Hình 2.3: Số lượng DN thành lập mói năm 2009, 2010
Năm 2009, tổng nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân đạt 220,5 nghìn
tỷ đồng, chiếm hơn 31% tồng vốn đầu tư toàn xã hội (ước 708,5 nghìn tỷ
đồng). GDP của khu vực kinh tế tư nhân (trong đó chủ yếu là các DNNVV)
dự kiến đạt khoảng 48% GDP năm 2010.
Hình 2.4: Tỷ trọng DNNVV trong các ngành
Năm 2009, ngành thương mại, dịch vụ vẫn là ngành có tỷ trọng
DNNVV cao nhất (62,25%), sau đó là đến ngành công nghiệp (19,64%),
ngành xây dựng (14,23%), ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản chiếm
tỷ trọng thấp chỉ có 3,88% [ 52]
Sau những khó khăn kinh tế năm 2008, kinh tế dần được phục hồi vào
năm 2009. Do đó các chỉ tiêu tài chính trong giai đoạn này cũng có sự gia
tăng khá. Tổng vốn tăng từ trên 4.197 nghìn tỷ năm 2009 lên trên 6.338
nghìn tỷ năm 2010 (ước tính). Doanh thu thuần ước tính tăng từ trên 3.351
nghìn tỷ năm 2009 lên trên 4. 859 nghìn tỷ năm 2010 và lợi nhuận trước thuế
ước tính tăng từ trên 78 nghìn tỷ năm 2009 lên trên 105 nghìn tỷ vào năm
2010.
Bảng 2.3: Một số chỉ tiêu tài chính của DNNVV Việt Nam
giai đoạn 2009 - 2010
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm
Doanh thu thuần
Lợi nhuận trước thuế
2009
3.351.404
78.385,8
2010(UT)
4.859.535,80
105.820,83
Nguồn: [51,53]
2.1.2. Đặc điểm của DNNVV ở Việt Nam
- Phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ nên quy mô vốn rất hạn hẹp .
Theo số liệu của tảng cục thống kê [51; 53] năm 2010 trong các
DNNVV doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm đại bộ phận tới 86,29%, doanh
nghiệp vừa chiếm 13,71%. Với số lượng lớn các DN là nhỏ và siêu nhỏ thì
quy vốn ít là điều dễ hiểu. Năm 2007 số vốn bình quân là 8.616 triệu đồng,
đến 2010 thì số vốn bình quân là 16.920 triệu đồng, ước tính năm 2011 là
18.458 triệu đồng [54] gây khó khăn cho các DNNVV trong việc tiếp cận
nguồn vốn tín dụng, khó tiếp cận đến những cơ hội đầu tư lớn và đặc biệt chịu
nhiều rủi ro trong kinh doanh hơn các doanh nghiệp quy mô lớn...Đồng thời,
dễ dàng bị thâu tóm, hoặc bị cạnh tranh lớn nên dễ bị thua thiệt trong cạnh
tranh dẫn đến phá sản.
- Số lao động trong một doanh nghiệp vừa ít, vừa có xu hướng giảm
dân.
Tính đến thời điểm cuối năm 2009, trong tổng số doanh nghiệp đang
hoạt động tại Việt Nam, số doanh nghiệp có quy mô lao động từ 5-9 người
chiếm 37,31%, cao nhất so với các nhóm khác. Nhóm doanh nghiệp có quy
mô lao động từ 10-49 người đứng thứ hai, với tỷ lệ 31,30%. Nhóm doanh
nghiệp có quy mô lao động dưới 5 người đứng thứ 3, với 22,04%. Số doanh
nghiệp có quy mô từ 200-299, 300-499, 500-999, 1000-4999 và 5000 người
trở lên đều chiếm tỷ lệ thấp[7.tr.33]. Tồng số lao động làm việc trong các
DNNVV không ngừng tăng lên theo thời gian nhưng số lao động bình quân
làm việc trong 1 DNNVV có xu hướng giảm. Năm 2007 trung bình một
doanh nghiệp có 27 lao động nhưng đến năm 2010 con số này đã giảm
xuống chỉ còn 20 người và ước tính năm 2011 chỉ còn 18 người[54].
Hình 2.5: Số lượng lao động bình quân trong một DNNVV
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tham gia hoạt động đa ngành
nhưng chủ yếu tập trung vào ngành thương mại, dịch vụ.
Kết quả điều tra doanh nghiệp do Tổng cục Thống kê công bố cho thấy
một tỷ lệ lớn các doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong các ngành bán sỉ,
bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy (39% tổng số doanh nghiệp đăng ký trong các
năm 2006, 2007, 2008 và 2009). Các ngành công nghiệp (sơ chế) và xây
dựng lần lượt chiếm 17,69% và 14,29% tổng số doanh nghiệp đang hoạt
động vào 1-1-2010 [52].
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong mọi vùng miền nhưng
chủ yếu tập trung tại đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ
Các DNNVV tập trung chủ yếu ở những thành phố lớn như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ và Hải Phòng. Đồng bằng Sông Hồng,
Đông Nam Bộ là nơi tập trung phần lớn các DNNVV của Việt Nam, lần lượt
chiếm tỷ lệ 29,21% và 39,08% vào năm 2009.
Bảng 2.4: Phân bố DNNVV hoạt động 2005-2009 theo vùng
Đơn vị tính: DN
2005
2006
2007
2008
2009
Cả nước
131.318 155.771 205.732 248.842
Đồng bằng sông Hông
31.965
37.514
43.707
61.093
72.676.
7.175
7.802
9.153
11.564
11.627
16.223
19,344
23.476
31.033
36.608
3.564
4.039
6.576
7.294
Đông Nam Bộ
39.601
47.130
57.022
73.877
97.253
Đông bằng sông Cửu Long
14.258
15.325
17.652
21.425
23.220
Trung du và miền núi phía
Bắc
Bắc Trung Bộ và duyên hải
miền Trung
Tây Nguyên
Nguồn: [52]
Những khu vực khác có mật độ doanh nghiệp thấp. Vùng Tây Nguyên
và Trung du miền núi Phía Bắc có số doanh nghiệp hoạt động thấp nhất, chỉ
với 7.294 và 11.627 doanh nghiệp, lần lượt chiếm tỷ lệ 2,93% và 4,67%
tổng số doanh nghiệp đang hoạt động vào cuối năm 2009.
- Trình độ quản lý còn thấp, thiếu lao động có tay nghề cao
Theo đánh giá của các chuyên gia thì một trong những nguyên nhân
làm cho các doanh nghiệp không thể phát triển nhanh vì thiếu cán bộ giỏi.
Trình độ quản lý và tay nghề của lực lượng lao động còn thấp. Do nhiều
DNNVV phát triền lên từ kinh doanh hộ gia đình nên giám đốc, chủ doanh
nghiệp, và cán bộ quản lý còn rất nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng
quản lý. Một bộ phận lớn các chủ doanh nghiệp và giám đốc chưa được đào
tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế và xã hội.
Các chủ doanh nghiệp chủ yếu kinh doanh theo kinh nghiệm, chỉ chú trọng
vào khâu sản xuất và bán hàng, không có tầm nhìn chiến lược trong dài
hạn, thiếu kiến thức về thị trường, CNTT. Những khái niệm về phát triển
thương hiệu và chiến lược cạnh tranh là hoàn toàn mới đối với đa số doanh
nghiệp. Đến gần 50% các chủ DNNVV mới tốt nghiệp phổ thông trung học
nên họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các công cụ quản lý mới.
Thêm vào đó, DNNVV thường gặp khó khăn trong tuyển dụng và giữ
người tài ở lại làm việc cho doanh nghiệp vì nhiều lao động có trình độ cao
đều có tâm lý làm việc cho các công ty lớn, có danh tiếng.
Một vấn đề cũng cần phải bàn tới là chất lượng của nguồn lao động Việt
Nam. Chúng ta có một lực lượng lao động khá dồi dào, người lao động Việt
Nam được các chuyên gia nước ngoài đánh giá là cần cù, chịu khó, thông
minh và có khả năng tiếp cận với công nghệ hiện đại... Tuy nhiên, có một trở
ngại rất lớn là nước ta đi lên từ một nước nông nghiệp nên người lao động
Việt Nam thiếu một tác phong công nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng khá
lớn đến chất lượng việc. Tuy đã đạt được rất nhiều thành tựu trong công tác
đào tạo nguồn nhân lực nhưng nhìn chung chất lượng đào tạo vẫn chưa cao,
điều này được thể hiện trong hiệu quả làm việc, năng suất lao động và chất
lượng sản phẩm dịch vụ tạo ra. Năm 2009 có tới 62,93% lao động chưa qua
đào tạo. Nhiều doanh nghiệp 100% lao động chưa qua đào tạo nghề ở trường
lớp.
Hình 2.6: Phân loại trình độ lao động trong doanh nghiệp năm 2009
- Khoa học công nghệ còn lạc hậu, việc đầu tư cho hoạt động nghiên
cứu triển khai, còn rất thấp
Trình độ khoa học công nghệ và năng lực đổi mới trong các DNNVV
của Việt Nam còn thấp, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
khoa học công nghệ mới chỉ có 150 doanh nghiệp vào cuối năm 2008. Số
lượng nhà khoa học, chuyên gia làm việc trong các doanh nghiệp chỉ chiếm
0,025% trong tổng số lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp. Khoảng
80-90% máy móc và công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp của Việt
Nam là nhập khẩu và 76% từ thập niên 1980-1990, 75% máy móc và trang
thiết bị đã hết khấu hao [6S.tr.55].
Trong nhiều trường hợp, năng lực KH&CN của DNNVV còn thấp là
do doanh nghiệp chưa thực sự đánh giá đúng tầm quan trọng của nó. Với
trình độ công nghệ và thiết bị như vậy, có thể nói các doanh nghiệp gặp
rất nhiều khó khăn trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức
cạnh tranh trên thị trường.
Về mặt chuyền giao công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã cấp phép
cho 701 hợp đồng chuyển giao công nghệ từ năm 1993 đến 2009. Nhưng đa
số những họp đồng này là của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Rất ít DNNVV tư nhân có các hợp đồng chuyến giao công nghệ. Các hợp
đồng chuyến giao công nghệ có bao gồm điều khoản bảo vệ thiết kế công
nghiệp là rất hạn chế về mặt số lượng, chỉ chiếm 5% tổng số hợp đồng. Hầu
hết các hợp đồng này là nằm trong lĩnh vực chế tạo và lắp ráp xe máy. Từ
năm 2001 tới 2009, Bộ Khoa học và Công nghệ mới chỉ cấp được chứng nhận
cho 12 doanh nghiệp là doanh nghiệp công nghệ cao.
2.2. THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA DNNVV VIỆT
NAM
2.2.1.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng vốn
Vốn bình quân một doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng khá nhanh. Từ
năm đến nay mức độ tăng trưởng vốn đều ở mức trên hai con số. Ba năm
2009, 2011(UT) mức độ tăng trưởng lần lượt là 18,28%; 43,65% và 10,09%.
Năm 2010 mức vốn bình quân một DNNVV là 16.920 triệu đồng. Ước tính
năm 2011 mức vốn bình quân này sẽ đạt 18.458 triệu đồng tăng 114,23% so
với năm 2007. Trong các ngành, ngành công nghiệp và xây dựng có số vốn
bình quân một DNNVV là cao hơn. Năm 2010, bình quân một DNNVV trong
ngành công nghiệp có số vốn là 23.337 triệu đồng ước tính năm 2011 sẽ đạt
25.267 triệu đồng, trong ngành xây dựng lần lượt là 16.814 triệu đồng và
17.788 triệu đồng. Ngành thương mại dịch vụ có sự gia tăng vốn mạnh mẽ
trong năm 2010 đưa số vốn bình quân lên 15.370 triệu đồng và ước tính năm
2011 sẽ đạt mức 17.536 triệu đồng gần với mức vốn bình quân của ngành xây
dựng. Trong khi đó, ngành NN,LN và TS có số vốn nhỏ hơn nhiều chỉ có
6.681 triệu đồng năm 2010 và khoảng 6.938 triệu đồng năm 2011.
Hình 2.7 : Quy mô vốn bình quân trong các DNNVV Việt Nam
Nguồn: [54]
Cũng giống như xem xét chỉ tiêu vốn bình quân một DNNVV quy mô
vốn chủ sở hữu bình quân một doanh nghiệp có tốc độ tăng trưởng trên hai
con số. Từ vốn chủ sở hữu bình quân một DNNVV là 3.845 triệu đồng năm
2007 với tốc độ tăng của các năm lần lượt là 13,36%; 18,46%; 46%; 10,34%,
ước tính đến năm 2011 sẽ đạt mức 8.317 triệu đồng tăng 116,32% so với năm
2007. Khi xem xét quy mô vốn chủ sở hữu bình quân trong cho thấy ngành
CN có quy mô vốn chủ sở hữu cao nhất (năm 2010 là 9.434 triệu đồng, năm
2011 ước đạt khoảng 10.134 triệu đồng), sau đó là ngành XD (năm 2011 ước
đạt 9.258 triệu đồng) và ngành TM,DV (năm 2011 ước đạt 7.944 triệu đồng).
Thấp nhất là trong ngành NN.LN &TS quy mô vốn chủ sở hữu bình quân
năm 2011 khoảng 5.106 triệu đồng.
Hình 2.8 : Quy mô vốn chủ sở hữu bình quân trong các DNNVV
Việt Nam
Nguồn: [54]
So sánh quy mô vốn của DNNVV với DN lớn cho thấy quy mô vốn bình
quân nói chung và quy mô vốn chủ sở hữu bình quân nói riêng của DN lớn
cao hơn rất nhiều lần so với DNNVV. Quy mô vốn bình quân của DN lớn gấp
138,8 lần (năm 2007), gấp 99,54 lần (năm 2010) và gấp khoảng 97,75 lần
năm 2011 so với DNNVV. Khoảng cách này có hẹp hơn khi so sánh vốn chủ
sở hữu bình quân của DN lớn với DNNVV nhưng vẫn ở mức rất cao là gấp
80,54 lần năm 2007, gấp 65,62 lần năm 2010 và gấp khoảng 62.24 lần năm
2011 [54]. Điều này cho thấy với lợi thế về vốn của DN lớn sẽ tạo cho các
DN này có nhiều cơ hội kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận hon các
DNNVV. Đồng thời với quy mô vốn CSH cao hơn rất nhiều lần so với các
DNNVV, nghĩa là mức độ bảo đảm cao hơn nhò' đó DN lớn sẽ dễ dàng hơn
trong việc tiếp cận các nguồn tài chính so với các DNNVV.
Bảng 2.5 : Quy mô vốn và vốn CSH bình quân của DN Việt Nam (2007-2011)
Chỉ tiêu
Đon vị
- Quy mô vốn bình
tính
triệu
quân 1 DNNVV
Quy mô vốn bình
đồng
triệu
quân 1 DN lớn
đồng
3.8454.3585.1637.538
8.317Quy mô vốn
lần
bình quân 1 DN lớn /1
Quy mô vốn CSH
triệu
bình quân 1 DN
Quy lớntriệu
mô vốn bình
quân 1 DN lớn /1
đồng
lần
2007
2008
2009
2010
2011*
8.616
9.959
11.779
16.920
18.458
1.195.952 1.401.101 1.571.930 1.684.226 1.804.262
138,80
.140,69
133,46
99,54
97,75
309.661
389.345
435.606
494.639
517.640
80,54
89,33
84,37
65,62
62,24
DNNVV
Nguồn: [54]
Ghi chú: Năm 2011 là số liêu ước tính.
Quy mô vốn bình quân có sự tăng trưởng qua các năm với mức tăng
trưởng cao thuộc về ngành thương mại dịch vụ nhưng vốn bình quân một
DNNVV còn thấp. Điều này cho thấy năng lực tài chính của các DNNVV
chưa cao. Trong các ngành, quy mô vốn bình quân ngành công nghiệp và xây
dựng cao hơn hai ngành còn lại, vốn bình quân trong ngành NN,LN & TS là
thấp nhất. Đồng thời, khi xem xét thấy quy mô vốn chủ sở hữu bình quân
trong các DNNVV nói chung và từng ngcmh nói riêng đều thấp cho thấy năng
lực tài chính chủ sở hữu chưa cao ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng huy
động vốn bằng nguồn vay nợ từ đó ảnh hưởng đến năng lực tài chính tổng thể
của các DNNVV. Bên cạnh đó, khi so sánh quy mô vốn và quy mô vốn CSH
của các DNNVV so với các DN lớn cho thấy quy mô vốn nói chung và quy mỏ
vốn CSH nói riêng của 1 DNNVV quá nhỏ bé so với DN lớn. Cho thấy dấu
hiệu năng lực tài chính chủ sở hữu nói riêng cũng như năng lực tài chính tổ
thể của DNNVV thấp hơn so với DN lớn. Điều này gây cho DNNVV rất nhiều
khó khăn trong việc chớp các cơ hội kinh doanh và tiếp cận các nguồn tài
chính so với các DN lớn
2.2.2.
Khả năng tụ tài trợ và khả năng huy động vốn nợ
2.2.2.1. Khả năng tự tài trợ
Khả năng tự tài trợ là khả năng doanh nghiệp có thể sử dụng các nguồn
vốn của chủ sở hữu phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là tiêu
chí đánh giá năng lực tài chính chủ sở hữu.
Khả năng tự tài trợ của các DNNVV Việt nam có xu hướng tăng nhẹ
(xem hình 2.9). Trong 100 đồng đầu tư vào tài sản của doanh nghiệp có 44,62
đồng lấy từ nguồn vốn chủ sở hữu (năm 2007), đến năm 2008 giảm nhẹ còn
43,77 đồng. Sau đó gia tăng trở lại đạt mức 44,55 đồng năm 2010 và khoảng
45,06 đồng năm 2011. Theo phương pháp phân tích các chỉ tiêu tài chính của
một số ngân hàng trong nước như: Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam; Ngân
hàng V I P , . khả năng tự tài trợ của các DNNVV thuộc mức yếu và trung
bình yếu (45% đến cận 55%). Xét riêng trong từng ngành, ngành NL,NN và
TS có khả năng tự tài trợ cao nhất trong các. năm từ 2007 đến 2011 tuy có sự
biến động về mức độ tự tài trợ nhưng lúc nào khả năng tự tài trợ của ngành
này cũng trên 60% (năm 2011 khoảng 73,59%) đạt mức khá và tốt. Ngành
công nghiệp duy trì khả năng tự tài trợ trên năng tự tài trợ trên 40%. tuy nhiên
từ năm 2007 đến nay khả năng tự tài trợ có xu hướng giảm sút (từ 48,82%
năm 2007 xuống 40,43% năm 2011 và 40,11% năm 2011) chỉ ở mức yếu và
kém. Ngành TMDV có xu hướng giảm sút trong năm và tăng trở lại trong các
năm sau đạt mức 44,42% năm 2010 và khoảng 45,3% năm 2011 ở mức yếu.
Ngành xây dựng có xu hướng tăng khả năng tự tài trợ từ 41,58% năm 2007
lên mức 47,25% năm 2010 và 48,02% năm 2011 với xu hướng gia tăng, này
khả năng tự tài trợ đạt mức trung bình khá.
Hình 2.9: Khả năng tự tài trợ của các DNNVV Việt Nam
Nguồn: [54]
Thực trạng khả năng tự tài trợ của DNNVV Việt Nam như trên là sự
tổng hợp khả năng huy động vốn làm tăng vốn chủ sở hữu từ đó làm tăng
năng lực tài chính chủ sở hữu với những phương thức khác nhau, cụ thể:
* Sử dụng lợi nhuận để lại để tái đầu tư:
Đây là nguồn vốn rất quan trọng đối với các DNNVV nói riêng và các
DN nói chung vì nó sẽ bổ sung cho nguồn vốn chủ sở hữu, làm vững chắc
thêm tình hình tài chính của mỗi DN. Thực tế trong những năm vừa qua, hoạt
động SXKD của các DNVVN chưa có hiệu quả cao. Theo số liệu của VCCI
năm 2009[61], trong 8 ngành nghiên cứu là sản xuất trang phục, sản xuất sản
phẩm từ cao su và plastic, sản xuất hóa chất và sản phẩm có hóa chất, sản
xuất và phân phối điện, xây dựng, vận tải đường thủy, viễn thông, bảo hiểm
nhìn chung đều có tỷ lệ thua lỗ khá cao: cao nhất là sản xuất trang phục, sản
xuất sản phẩm từ cao su và plastic với tỷ lệ trên 50%. Ngành sản xuất hóa
chất và sản phẩm có hóa chất, vận tải đường thủy với tỷ lệ doanh nghiệp lỗ
lần lượt là 40,9% và 39,2%. Các ngành như bảo hiểm, xây dựng, viễn thông
có tỷ lệ doanh nghiệp lỗ ít hơn lần lượt là 32,9%, 31% và 23%. Tỷ lệ doanh
nghiệp bị lỗ thấp nhất là trong sản xuất phân phối điện với tỷ lệ 12%.
Qua tính toán cho thấy lợi nhuận sau thuế bình quân một DNNVV có sự
biến động qua các năm gắn với tình hình của nền kinh tế. Năm 2007 lợi nhuận
sau thuế bình quân một DNNVV là 255,69 triệu đồng. Cùng với xu hướng
khủng hoảng của nền kinh tế trong năm 2008 lợi nhuận sau thuế bình quân
một DNNVV giảm 37,97% xuống 158,61 triệu đồng. Khi nền kinh tế có dấu
hiệu hồi phục vào năm 2009, chỉ tiêu này tăng 111,74% và đạt mức 335,84
triệu đồng. Năm 2010, lợi nhuận sau thuế bình quân lại tiếp tục giảm và chỉ
còn ở mức 60,75 triệu đồng. Phần lớn lợi nhuận sau thuế của các DNNVV
không lớn nhưng ngoài việc có thể tăng vốn còn phải sử dụng vào nhiều mục
đích khác như: trích lập quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, phúc lợi.
Chính vì thế, lượng vốn huy động được từ nguồn này của các DNNVV là
không đáng kể.
Nếu xét theo từng ngành, ngành TMDV là ngành duy nhất thu lợi nhuận
trong tất cả các năm, năm 2010 lợi nhuận sau thuế binh quân trong ngành này
là 170,82 triệu đồng và năm 2011 ước đạt 216,24 triệu đồng. Trước năm
2010, lợi nhuận sau thuế bình quân một DNNVV trong ngành công nghiệp là
cao nhất duy trì ở mức trên 550 triệu đồng nhưng với tình hình khủng hoảng
ngày càng sâu rộng năm 2010, 2011 không chỉ ngành NN,LN&TS; XD,
ngành CN cũng bị thua lỗ. Lợi nhuận sau thuế bình quân của ngành xây dựng
là thấp nhất trong các ngành và liên tục trong bốn năm từ năm 2008 đến năm
2011 đều thua lỗ. Việc thua lỗ này chủ yếu do khủng hoảng kinh tế kéo dài,
lạm phát tăng cao các yếu tố đầu vào tăng lên trong khi các DNNVV khó
khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm.
Hình 2.10: Lợi nhuận sau thuế bình quân trong các DNNVV Việt Nam
Nguồn: [54]
Bên cạnh đó, khi so sánh với các DN lởn càng thấy lợi nhuận sau thuế
bình quân của các DNNVV rất thấp. Lợi nhuận sau thuế bình quân của DN
lớn so với các DNNVV gấp 202,82 lần năm 2007 và gấp 806,25 lần trong
năm 2011. Với quy mô vốn lớn, các DN lớn có nhiều cơ hội kinh doanh nhằm
tìm kiếm lợi nhuận hơn các DNNVV do đó lợi nhuận thu được cũng cao hơn
rất nhiều so với các DNNVV.
Bảng 2.6 : Lợi nhuận sau thuế bình quân của DN Việt Nam (2007-2011)
Chỉ tiêu
Lợi nhuận sau thuế
bình quân 1
DNNVV
Lợi nhuận sau thuế
Đơn vị
tính
2007
2008
2009
2010
335,84
60,75
75,24
51.858
46.762
72.351
56.696
60.659
202,82
294,83
215,43
933,29
806,25
Triệu
255,69
đồng
158,61
Triệu
bình quân 1 DN lớn
Lợi nhuận sau thuế
đồng
bình quân 1 DN
Lần
2011
lớn/ 1 DNNVV
Nguồn [54]
(Ghi chú: số liệu năm 2011 là số liệu ước tính).
Qua khảo sát 55 DNNVV Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2011 ta thấy
tỷ lệ lợi nhuận để lại để tái đầu tư trong các DNNVV Việt Nam bắt đầu từ
năm 2008 tỷ lệ này đã có sự gia tăng trở lại từ 13,29% năm 2008 lên 13,38%
năm 2009 và tăng 16,74% để đạt mức 15,61% năm 2010. Xu hướng này thể
hiện rất rõ ở ngành xây dựng. Các ngành NN.LN&TS; CN biến động theo xu
hướng giảm; ngành TMDV có xu hướng giảm từ 2007 đến 2009 và có xu
hướng tăng trở lại trong năm 2010. Dù sự biến động của mỗi ngành có sự
khác biệt nhưng vẫn có điểm chung đó là tỷ lệ lợi nhuận để lại tái đầu tư
không cao đều ở mức dưới 20%. Lợi nhuận sau thuế của các DNNVV llìấp, tỷ
lệ lợi nhuận để lại để tái đầu tư không cao nên lượng vốn huy động từ nguồn
vốn bên trong thấp ảnh hưởng đến tăng trưởng của doanh nghiệp đặc biệt là
tăng trưởng nội sinh.
Hình 2.11: Tỷ lệ lợi nhuận để lại để tái đầu tư trong DNNVV
Việt nam
Nguồn [54]
* Huy động vốn từ quỹ đầu tư mạo hiểm:
Hiện nhiều Quỹ đầu tư coi thị trường vốn nước ta là thị trường ưu tiên số
1 để đầu tư trong thời gian tới. Đã có tới 8 quỹ đầu tư mạo hiểm tại Việt Nam.
Các Quỹ đầu tư sẽ dành một phần đáng kể cho khu vực DNVVN. Trong số
này nổi lên 2 Quỹ chuyên đầu tư vào Việt Nam đó là: Quỹ (VEIL) và Quỹ
doanh nghiệp Mekong (MEF). Hiện hai Quỹ này có tồng vốn đầu tư là 71,5
triệu USD. Trong đó VEIL chuyên đầu tư cổ phần vào công tv cổ phần và cả
công ty tư nhân thuần túy còn MEF đặc biệt chuyên đầu tư cổ phần vào công
ty tư nhân. Quỹ Mekong Capital quản lý với vốn đầu tư 18,5 triệu đô la Mỹ,
quỹ này đầu tư vào các công ty tư nhân nhằm mục tiêu đạt được tỷ lệ lợi
nhuận từ đầu tư cao nhất có thể. Tốc độ tăng trưởng bình quân của các công
ty trong khoảng thời gian quỹ đầu tư đến giữa năm 2005 lả 32,5%. Bởi vì
DNNVV Việt Nam phần lớn là có quy mô tài chính bé nên không đủ khả
nằng tiếp nhận hiệu quả vốn đầu tư của các quỹ này. Hơn nữa, các nhà đầu tư
nước ngoài chỉ có thể mua tối đa 30% cổ phiếu phát hành của một công ty
không niêm yếu cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Nên sự huy động vốn
của các DNNVV Việt Nam ở các quỹ này và các nhà đầu tư nước ngoài rất
kém hiệu quả. Huy động vốn từ các quỹ đầu tư mạo hiểm có ưu điểm là nhà
đầu tư không chỉ bơm vốn vào DNNVV mà còn cung cấp các trợ giúp hậu
đầu tư: chiến lược kinh doanh, nguồn nhân lực, bán hàng và tiếp thị,. ể.Đây là
một công cụ tài chính hữu ích cho các DNNVV đặc biệt là đối với các
DNNVV đang có tốc độ tăng trưởng cao.
* Huy động vốn từ phát hành cổ phiếu:
Từ năm 2005 trung tâm GDCK Hà Nội đi vào hoạt động, cổ phiếu của
các DNVVN có qui mô vốn trên 5 tỷ đồng nếu có đủ điều kiện được giao dịch
tại đây. Như vậy những DNNVV có vốn dưới mức này sẽ không thể huy động
vốn từ đây. Suốt một thời gian dài theo điều kiện của NĐ 90 (DNNVV là cơ
sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ VND hoặc số lao động trung bình hàng
năm không quá 300 người) gần như không có DNNVV nào có đủ điều kiện
để phát hành cố phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán. Chính vì vậy
những công ty cố phần có quy mô vốn nhổ này chỉ có thể phát hành chứng
khoán và giao dịch qua thị trường OTC, một thị trường thiếu sự kiểm soát của
nhà nước đầy tính may rủi và hiệu quả thu hút vốn không cao.
Theo Nghị định 56, điều kiện là DNNVV đã được mở rộng hơn so với
trước. Ví dụ như quy mô vốn từ 100 tỷ trở xuống đối với ngành nông lâm
nghiệp, thủy sản; công nghiệp và xây dựng. Riêng đối với thương mại dịch vụ
là tv 50 tỷ trở xuống. Đồng thời thị trường UPCOM - sàn giao dịch cổ phiếu
của các công ty đại chúng chưa niêm yết chính thức đi vào hoạt động từ ngày
24/6/2009. Tại UPCOM, công ty chứng khoán trở thành một thành phần
không thể thiếu khi đóng vai trò là tổ chức cam kết hỗ trợ, đơn vị trung gian
kết nối giữa nhà đầu tư, công ty với Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội.
Thông qua UPCOM, nhà đầu tư sẽ giảm thiểu thời gian tìm kiếm đối tác,
giảm thiểu các rủi ro, tiết kiệm chi phí giao dịch, đảm bảo công khai giá và
khối lượng giao dịch. Quy trình quản lý rủi ro của “sàn” này có độ an toàn,
theo đó người mua cổ phiếu phải đảm bảo có tiền, người bán cổ phiếu phải
đảm bảo có cổ phiếu. Khi giao dịch mua bán thành công, số dư chứng khoán
sẽ được chuyển ngay vào tài khoản của người mua. Tiền cũng được chuyên
ngay vào tài khoản của người bán. Còn các công ty có cơ hội quảng bá rộng
rãi về mặt thương hiệu, tăng thị phần, tạo thuận lợi trong việc huy động vốn
khi công ty có nhu cầu. Như vậy tại UPCOM sẽ an toàn hơn khi công ty phát
hành cổ phiếu qua thị trường OTC.
Tính tới thời điểm 10/12/ 2011 có 136 công ty tham gia vào thị trường
UPCOM . Nhưng số này là quá nhỏ so với tổng số DNNVV nói chung,
DNNVV là công ty cổ phần nói riêng (Tổng số công ty cổ phần là-DNNVV
tính tại thời điểm 01/01/ 2010 vào khoảng 40.000). Những DNNVV đáp ứng
được điều kiện để huy động vốn từ thị trường chứng khoán là chưa nhiều, số
vốn thu hút được từ việc huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu trên hai
sở GDCK Hà Nội và TP HCM trong những năm 2006, 2007 là ấn tượng
(7.896 tỷ đồng và 33.295 tỷ đồng) nhưng do khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh
hưởng đến kinh tế Việt Nam, con số này bắt đầu giảm mạnh từ năm 2008 và
đến 2011 thì chỉ còn hơn 2.610 tỷ đồng (xem bảng số liệu dưới). Trong khi
đó, những doanh nghiệp niêm yết trên 2 sàn giao dịch chứng khoán cơ bản là
những doanh nghiệp lớn, có tồng vốn trên 100 tỷ đồng. Như vậy, phần lớn các
công ty cổ phần của DNNVV tham gia trên thị trường OTC. Từ năm 2008
đến nay thị trường chứng khoán chính thức không ngừng giảm điểm, giao
dịch ảm đạm. Giao dịch trên thị trường OTC càng khó khăn hơn. Như vậy,
việc huy động vốn của các DNNVV trên thị trường chứng khoán Việt Nam
hiện nay là rất nhỏ và gặp nhiều khó khăn.
Bảng 2.7: Giá trị cố phiếu phát hành ra công chúng tại hai sở giao dịch
chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
SGD HN
TT
Năm
1'
28
2
2006
5.515.90
40
5
2007
4
Sô đợt Giá trị thành công (đ)
2.039.21
SGD HCM
Sô đọt
Giá trị thành công
7.746.140.938.760
8
150.062.870.000
53
14.847.720.279.200
74
18.448.999.944.900
2008
31
1.032.324.947.340
28
7.247.032.143.000
5
2009
19
1.546.855.795.520
18
535.028.100.000
6
2010
30
1.021.435.748.600
32
1.737.925.202.600
7
2011
10
1.939.869.985.100
11
671.928.012.600
Nguồn: Tác giả tự tổng hợp từ số liệu giao dịch trên sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
Khả năng tự tài trợ của các DNNVV Việt nam có xu hướng tăng nhẹ và
đạt mức trung bình yếu. Trong từng ngành khả năng tự tài trợ có sự biến
động khác nhau, ngành có tỷ lệ tự tài trợ rất cao và đạt mức tốt là ngành
NNtLN và TS trên 60% vốn đầu tư vào tài sản, công nghiệp đang có xu hướng
giảm khả năng tự tài trợ và chỉ ở mức yếu, kém. Ngành TMDV và ngành XD
đang gia tăng khả năng tự tài trợ trở lại tuy nhiên đang ở mức yếu và trung
bình khá. Bên cạnh đó, nguồn vốn chủ sở hữu các DNNVV huy động được
còn rất nhỏ, tỷ lệ lợi nhuận để lại để tái đần tư thấp. Điều này làm cho năng
lực tài chính chủ sở hữu của các DNNVV không cao và ảnh hưởng đến khả
năng huy động vốn nợ của DNNVV.
2.2.2.2. Khả năng huy động vốn nợ:
Khả năng huy động vốn nợ là khả năng doanh nghiệp có thể sử dụng các
nguồn vốn nợ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là tiêu chí
đánh giá năng lực tài chính từ vốn nợ của DNNVV.
Khả năng huy động vốn nợ của các DNNVV Việt Nam có xu hướng
thay đổi không đáng kể (xem hình 2.11). Trong 100 đồng đầu tư vào tài sản
của doanh nghiệp có 55,38 đồng lấy từ nguồn vốn chủ sở hữu (năm 2007),
năm 2008 giảm nhẹ xuống còn 56,23 đồng, năm 2009 tăng lên mức 56,17
đồng và tiếp tục giảm trong 2 năm 2010 và 2011 chỉ còn 55,45 đồng và 54,94
đồng. Xét riêng trong từng ngành, các ngành đều có xu hướng giảm khả năng
huy động vốn nợ trừ ngành CN. Ngành CN không ngừng gia tăng khả năng
huy động vốn nợ qua các năm từ mức 51,18% năm 2007 đã tăng 17% đạt
mức 59,89% năm 2011. Ngành NL,NN &TS có khả năng huy động vốn nợ
thấp nhất trong các ngành, tuy có sự biến động không lớn về mức độ huy
động vốn nợ nhưng lúc nào khả năng này của ngành cũng dưới 40% (năm
- Xem thêm -