z
LUẬN VĂN:
Thực trạng môi trường và các biện
pháp giảm thiểu ô nhiễm ở công ty xi
măng Bút Sơn
Đặt vấn đề
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, vấn đề xây dựng hạ tầng cơ sở là trọng tâm.
Nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển công
nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu. Xi măng là một trong những nguyên liệu cơ bản để xây
dựng các công trình công nghiệp và dân dụng của nhà nước, nhân dân. Đến năm
2000 nhà nước ta đã có 60 công ty xi măng và đã sản xuất một lượng xi măng khá
lớn ( trên 11 triệu tấn một năm ) và theo dự tính nhu cầu xi măng sẽ tăng 4-5 lần mới
đáp ứng được yêu cầu xây dựng cơ bản trong cả nước. Các công trình công
nghiệp,đường sá,cầu cống,các công trình văn hóa,thể thao kể cả nhu cầu xây dựng
của nhân dân vì vậy trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20 nhiều nhà máy xi măng
được xây dựng với công nghệ hiện đại sản xuất bằng lò quay thay thế dần công nghệ
lò đứng đã lạc hậu. Tuy nhiên không thể thay thế trong một thời gian ngắn vì vậy
việc sản xuất xi măng bằng lò đứng vẫn tiếp tục hoạt động trong điều kiện hiện
nay.Vấn đề sản xuất xi măng trong những năm qua đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản
về xây dựng trong thời kỳ hiện nay nhưng bên cạnh kết quả đạt được vấn đề ô nhiễm
môi trường cũng đáng lo ngại . Không những công nhân trực tiếp sản xuất chịu ảnh
hưởng của tác động môi trường do nhiệt, tiếng ồn, bụi,hơi khí độc và mùi hôi thối
của nước thải mà còn ảnh hưởng đến nhân dân vùng lân cận.
Để tìm hiểu thêm ảnh hưởng của môi trường lao động đến công nhân sản xuất
xi măng ở công ty xi măng Bút Sơn chúng em thực hiện đề tài:
“ Thực trạng môi trường và các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm ở công ty xi
măng Bút Sơn” nhằm mục đích:
1. Đánh giá thực trạng môi trường không khí, nước gồm các yếu tố vi khí hậu,
bụi, tiếng ồn, các khí độc hại và nước sinh hoạt, nước thải của công ty.
2. Tìm hiểu một số biện pháp của công ty nhằm hạn chế tác động của môi trường
đến sức khoẻ của công nhân và nhân dân vùng lân cận
Chương i
Tổng quan tài liệu
1.1. Thực trạng ô nhiễm môi trường trong các ngành sản xuất công nghiệp ở
nước ta.
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Các ngành công nghiệp, nông
nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, trong những thập niên gần đây vấn đề ô nhiễm
môi trường càng trở nên trầm trọng và không chỉ trong phạm vi của một Quốc gia mà
vượt ra ngoài biên giới, mang tính toàn cầu. Ô nhiễm do hoạt động công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ, giao thông vận tải, do sinh hoạt của con người và cả thiên
nhiên cũng góp phần đáng kể (núi lửa, bão lụt, băng tan) trong đó các ngành hoạt
động công nghiệp gây ô nhiễm môi trường là nặng nề nhất.[1]
Môi trường lao động bao gồm toàn bộ các yếu tố có tại nơi làm việc tác động
đến việc thực hiện quá trình lao động. Đó là các yếu tố vất lý (tiếng ồn, nhiệt độ cao,
ánh sáng, độ ẩm…), hoá học, lý-hoá (bụi), sinh học…
Trong sản xuất công nghiệp con người thường xuyên phải tiếp xúc với các yếu
tố độc hại, trong khi đó khả năng thích nghi và chống đỡ của cơ thể lại có hạn, cho
nên đến một thời điểm nào đó, cơ thể sẽ giảm sút sức đề kháng, suy yếu sức khoẻ,
phát sinh các bệnh tất và giảm khả năng lao động.
Theo đánh giá của Viện y học lao động và Vệ sinh môi trường (năm 1999) thì
môi trường lao động từng lúc, từng nơi đã bị ô nhiễm nghiêm trọng, có tới 40% số
công nhân lao động trong môi trường nhiễm các yếu tố độc hại.
Nhiều nghiên cứu đã thống nhất rằng tình trạng sức khoẻ của người lao động là
thước đo tổng hợp trạng thái của môi trường. Khi các yếu tố môi trường tác dụng xấu
đối với sức khỏe và khả năng lao động của con người thì được coi là yếu tố tác hại
nghề nghiệp. Hiện nay người ta chia ra 4 loại yếu tố tác hại nghề nghiệp chủ yếu đến
người lao động đó là
- Tác hại nghề nghiệp liên quan đến vấn đề sản xuất: do công nghệ và nguyên
liệu sản xuất làm phát sinh ra các yếu tố tác hại như các yếu tố vật lý (nhiệt độ, độ
ẩm, tốc độ gió, bụi, tiếng ồn…); hoá học (hơi khí độc hại như CO, SO2, HF, CO2…)
sinh học ( nấm mốc,vi khuẩn, ký sinh trùng…) ảnh hưởng đến sức khoẻ người công
nhân.
-Tác hại nghề nghiệp có liên quan đến quá trình lao động như: thời gian làm
việc, cương độ lao động, chế độ nghỉ ngơi thiếu hợp lý…
-Tác hai nghề nghiệp liên quan đến tình trạng vệ sinh chung và tình trạng thiết
bị sản xuất: nhà xưởng, phương tiện bảo hộ lao động, vị trí làm việc chưa hợp lý…
-Tác hại nghề nghiệp liên quan đến tâm lý người lao động: căng thẳng tâm lý,
lượng thông tin và công việc quá tải…
Trong công nghiệp các yếu tố gây ô nhiễm thường gặp ở các cơ sở sản xuất là
nhiệt độ, độ ẩm cao, tiếng ồn, bụi và các hoá chất độc hại trong môi trường không
khí.[6,4-32]
1.1.1. Ô nhiễm nhiệt.
Nước ta thuộc nước nhiệt đới, gió mùa, nóng và ẩm (hàng năm có > 273 ngày
nắng nóng, nhiệt độ ngoài trời trong bóng dâm >200C và độ ẩm thường xuyên
khoảng 80%) Đặc biệt, về mùa hè trong những ngày nóng bức, nhiệt độ ngoài trời có
khi lên đến 380-400C, nhiệt độ của các vật bị nung nóng có thể lên tới 450C. Đây là
điều kiện thuận lợi để phát sinh ô nhiễm nhiệt tại môi trường lao động. Nhiều nghiên
cứu cho thấy nhiệt độ hầu hết ở các công trường, xí nghiệp đều vượt tiêu chuẩn cho
phép (TCCP).[2]
Tại các cơ sở sản xuất nhiệt độ ngoài trời và trong nhà có mái che có sự chênh
lệch lớn. Trong điều kiện các nhà xưởng, nơi làm việc thoáng, có cửa ra vào và cửa
sổ rộng, không khí được giao lưu thì nhiệt độ trong nhà thấp hơn ngoài trời. Nhưng
ngược lại nếu trong nhà đóng kín, có các máy móc hoạt động thì nhiệt độ trong nhà
lại cao hơn ngoài trời. Một số ngành nghề phải lao động trong môi trường có nhiệt độ
cao như sản xuất vật liệu xây dựng, gốm sứ, luyện kim, đúc khuôn… nguồn nhiệt
thường phát sinh từ các lò nung luyện,bức xạ mặt trời, bức xạ nhiệt phát ra từ các
động cơ máy móc thiết bị. ở các phân xưởng nung xi măng, về mùa hè,nhiệt độ nơi
làm việc lên tới 520C, độ ẩm 98% .ở nhà máy xi măng Bỉm Sơn, khi nhiệt độ ngoài
trời 36,90C thì trong phân xưởng nung cao hơn ngoài trời 3,340C, độ ẩm lại thập hơn
4,16%, nhiệt độ Yaglou cao hơn 3,090.[20,3-20]
Theo một số tác giả Liên Xô(cũ) lao động trong môi trường nhiệt độ cao, hiệu
quả làm việc giảm 30-44 % nhất là trong điều kiện độ ẩm cao.[4,9-16]
Bảng 1.1 . Cảm giác nhiệt và khả năng lao động theo độ ẩm và nhiệt độ.
Nhiệt độ (0C)
Độ ẩm tương đối(%)
21
26
32
Khả năng lao động
40
Dễ chịu nhất
85
Dễ chịu khi nghỉ ngơi
91
Mệt và suy nhược
20
Không có cảm giác khó chịu
65
Khó chịu
80
Cần nghỉ
100
Không lao động nặng được
25
Không có cảm giác khó chịu.
50
Không lao động nặng được.
65
Không lao động gì được.
81
Tăng nhiệt độ cơ thể.
90
Nguy hiểm cho sức khoẻ.
Ngoài ra ô nhiễm nhiệt còn hợp lực với các yếu tố khác: bụi, tiếng ồn, lao động
thể lực nặng…và làm tăng tác động bất lợi của môi trường đến sức khoẻ của người
lao động. Do đó những công nhân ở những cơ sở có ô nhiễm bụi, hơi khí độc và vi
khí hậu nóng có tỷ lệ bệnh mắt, hô hấp, mũi- họng và ngoài da thường cao hơn so với
những công nhân chỉ tiếp xúc riêng với yếu tố vi khí hậu nóng.[18]
1.1.2.Ô nhiễm tiếng ồn
Kinh tế phát triển, cơ giới hoá càng cao thì sự ô nhiễm tiếng ồn càng lớn. Tiếng
ồn là những âm thanh có cường độ và tần số khác nhau, được sắp xếp một cách
không có trật tự, gây cảm giác khó chịu cho người nghe, cản trở con người làm việc
và nghỉ ngơi. Do vậy, chống tiếng ồn là một trong vấn đề cấp bách để bảo vệ sức
khoẻ của nhân dân sống ở các đô thị, cũng như những người tiếp xúc trực tiếp với
tiếng ồn có cường độ cao.
ở các nước có nền công nghiệp phát triển có từ 1/4 1/3 số người phải lao động
trong môi trường có tiếng ồn ở mức có hại.Theo số liệu khảo sát của Viện bảo hộ lao
động ở 11 cơ sở sản xuất công nghiệp thấy có nhiều ngươì phải tiếp xúc với tiếng ồn
vượt TCCP, trong đó có tới 10,95% số công nhân bị bệnh điếc nghề nghiệp (ĐNN).
Qua điều tra trong ngành phân lân, phân đạm, và super phốt phát, sản xuất vật liệu
xây dựng…mức độ tiếng ồn chung vượt TCCP 10 25 dB. Điều tra trên 669 tài xế ở
xí nghiệp đầu máy Hà Nội đã phát hiện được 9,27% số người có biểu đồ dạng điếc
nghề nghiệp trong đó có 4,34% được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (số công nhân
có từ 20 năm tuổi nghề trở lên). Bùi Thu và cộng sự nghiên cứu tiếng ồn của một số
xe chuyên dụng thấy rằng loại máy kéo DT-75 có tiếng ồn từ 85dB đến 90dB, máy
kéo DT-54 từ 98dB đến 120dB. Các loại xe đều có tiếng ồn từ khó chịu (60dB) đến
chói tai (90dB). Các loại xe ủi, xe gạt, máy khoan (ở các công ty sản xuất vật liệu xây
dựng và sản xuất xi măng (bộ phận khai thác đá) đều có tiếng ồn từ 90 dB trở
lên.[19,3-40]
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, nếu bị tác động thường xuyên, tiếng ồn
sẽ gây rối loạn chức năng của toàn cơ thể ( thần kinh trung ương, tim mạch, và các cơ
quan chức năng khác, đặc biệt là cơ quan thính giác ).Tại các nước tư bản, số công
nhân bị rối loạn thần kinh do tiếng ồn ngày càng nhiều. ở Pháp cứ 5 người bị tâm
thần thì có 1 người bị tâm thần do tiếng ồn. Tại nơi có nhiều tiếng ồn tỉ lệ viêm dạ
dày- tá tràng khá cao và năng suất lao động giảm 60%. Tiếp xúc lâu dài với tiếng ồn
sẽ gây ra điếc nghề nghiệp.[30,127-128]
Tác động của tiếng ồn với cơ thể phụ thuộc ba yếu tố: bản chất vật lý của tiếng
ồn (tiếng ồn luôn thay đổi tần số và cường độ); tính chất công tác của người lao động
(phải tiếp xúc thường xuyên với cường độ tiếng ồn cao) và tính cảm thụ tiếng ồn của
từng người( phụ nữ, người cao tuổi, ốm mệt dễ nhạy cảm với tiếng ồn mạnh).
Cường độ tiếng ồn càng cao thì thời gian tiếp xúc với tiếng ồn càng phải giảm
bớt. Nghĩa là khi công nhân làm việc chịu tác động của tiến ồn cao, thời gian làm
việc một ca trong ngày được rút ngắn. Quy định thời gian tiếp xúc (giờ) trong ngày
của các công nhân tại các cơ sở sản xuất công nghiệp được biểu thị trong bảng 1.2
Bảng 1.2. Thời gian tiếp xúc trong ngày (giờ) ở các cường độ
tiếng ồn khác nhau (dBA)
Cường độ tiếng Thời gian tiếp xúc
Cường độ tiếng
Thời gian tiếp xúc
ồn (dBA)
trong ngày (giờ)
ồn (dBA)
trong ngày (giờ)
90
8
102
1 1/2
92
6
105
1
95
4
107
3/4
97
3
110
1/2
100
2
115*
1/4
*Trị số ngưỡng tối đa, không cho phép tiếp xúc với tiếng ồn là >115 dBA
Ngoài cường độ, mức gây hại của tiếng ồn còn phụ thuộc vào thời gian tiếp xúc
với tiếng ồn. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng minh thời gian tiếp xúc với tiếng
ồn càng lâu thì tỷ lệ suy giảm thính lực, điếc nghề nghiệp càng cao. Theo báo cáo của
Junghans tại Đại hội lần thứ 8 của hiệp hội chống ồn thế giới thì những người có thời
gian tiếp xúc với tiếng ồn > 20 năm có tỷ lệ điếc nghề nghiệp cao hơn 10 lần những
người tiếp xúc cùng loại ồn nhưng thời gian <5 năm.
1.1.3.Ô nhiễm bụi
Trong các yếu tố gây ô nhiễm môi trường lao động, thì ô nhiễm bụi nổi lên
hàng đầu. Bụi là những phân tử hữu cơ cứng, nhỏ, lan toả và lơ lửng trong không khí.
Người ta chia bụi thành 2 loại tuỳ theo kích thước của nó: loại xon khí (đường kính
nhỏ hơn 0,1 micron) gồm khói và xương mù, loại xon khí huyền phù (đường kính lớn
hơn 0,1 micron) gồm xon khí huyền phù hạt toả lan thể cứng và xon khí huyền phù
hạt toả lan thể lỏng.
Bụi được hình thành theo 3 cơ chế: cơ chế thứ nhất là do sự nghiền nát cơ học
của các vật rắn, trong trường hợp này được gọi là khí dung phân toả. Cơ chế thứ 2 là
do sự ngưng tụ các hạt rắn trong không khí nghĩa là do hơi các kim loại bốc lên gặp
không khí tạo thành các oxyt kim loại rất nhỏ lơ lửng trong không khí gọi là khí dung
ngưng kết. Cơ chế thứ 3 là do đốt cháy nhiên liệu không hoàn toàn (khói, bồ hóng).
Công nhân sản xuất vật liệu xây dựng trong đó có công nhân sản xuất xi măng chủ
yếu chịu tác động của bụi thuộc loaị cơ chế thứ nhất là chủ yếu.
Theo Nguyễn Khắc Hải tình hình ô nhiễm bụi là rất phổ biến, nồng độ bụi
cao,tỷ lệ SiO2 cao (16%) là nguy cơ dễ mắc bệnh bụi phổi. Hiện nay một số biện
pháp cải thiện môi trường do ô nhiễm bụi vẫn chưa đảm bảo, hệ thống hút bụi chưa
mang lại hiệu quả, thậm chí có nơi chưa có hệ thống hút bụi.
Nhiều công trình điều tra cho thấy nồng độ bụi ở nhà máy cơ khí Cẩm Phả, nhà
máy công cụ số 1 Hà Nội, Diezen Sông Công, điện cơ Hà Nội, khu cán thép Gia
Sàng (Thái Nguyên) đều vượt TCCP từ 5 125 lần. Các công ty vật liệu xây dựng
Cầu Đuống, xi măng Bỉm Sơn, xi măng Hải Phòng, Hà Tiên nồng độ bụi vượt TCCP
từ 20 435 lần, nhà máy tuyển quặng (Quảng Ninh ) vượt từ 1701150 lần.[7,13-14]
Kết quả điều tra nồng độ bụi ở 6 cơ sở thuộc dự án “ Kế hoạch hành động quốc
gia phòng chống BBPSi” năm 2000 cho thấy tình trạng ô nhiễm bụi rất nặng nề số
mẫu bụi hô hấp không đạt tiêu chuẩn vệ sinh là 71,6%; số mẫu bụi trọng lượng không
đạt tiêu chuẩn chiếm 86,2%. Trong đó hàm lương SiO2 cao nhất là ở nhà máy thép
Tân Thuận (84,0%), ở mỏ than Hà Lầm, công ty vật tư thiết bị giao thông Khánh Hoà
hàm lượng SiO2 cũng cao (40,357,48%). Riêng hợp tác xã khảm trai Chuyên Mỹ tỷ
lệ rất thấp (0,9 1,6%)
Hàng năm có khoảng 5000 công nhân được giám định bệnh nghề nghiệp, thì
BBPSi chiếm hơn 90%. Thống kê của các tác giả trong và ngoài nước đều cho thấy
ngành công nghiệp có tỷ lệ BBPSi cao là gạch chịu lửa, đúc, cơ khí, luyện kim, khai
thác than, đá và sản xuất gốm sứ …
Sự phát sinh và phát triển BBPSi phụ thuộc nhiều yếu tố: nồng đọ bụi vượt quá
TCCP, tỷ lệ bụi hô hấp cao, hàm lượng silic tự do cao, thời gian tiếp xúc dài, lao
động thể lực cao(tần số, biên độ hô hấp cao) và yếu tố cá nhân. Do vậy, để đánh giá
được những yếu tố này, cần nắm vững kỹ thuật đánh giá ô nhiễm bụi qua nồng độ
bụi, kích thước hạt, tỷ lệ bụi hô hấp và hàm lượng silic tự do.
Thông thường, bụi phát sinh từ trong quá trình sản xuất đều có đường kính dưới
10 ́m, nhiều nhất là loại bụi dưới 5́m (bụi khí). Loại bụi nhỏ này thường tồn tại lâu
trong không khí nơi làm việc và là loại bụi chủ yếu gây tác hại đến sức khoẻ con
người nói chung và đến cơ quan hô hấp nói riêng .
Nồng độ bụi trong không khí càng cao, càng có hại. Thời gian làm việc phải tiếp xúc
với bụi lâu, cường độ lao động càng lớn, lượng không khí vào phổi càng cao bụi sẽ
vào phổi càng nhiều. Bụi sẽ trở nên nguy hiểm hơn nếu môi trường lao động có thêm
ô nhiễm nhiệt, hơi khí độc….
1.1.4.Ô nhiễm các chất khí thải.
Các loại khí thải độc hại do sản xuất công nghiệp thải vào môi trường là nguồn
gây ô nhiễm lớn và đáng lo ngại. ở Hà Nội, trong nội thành với mật độ 23.000
dân/1km2 có 300 nhà máy, 15.700 cơ sở sản xuất, hàng ngày thải không khí một
lượng khí thải độc hại cao, CO2 cao gấp 1,2 lần tiêu chuẩn cho phép .[8,25-40]
Trong các khu công nghiệp được theo dõi, có 3 khu công nghiệp nồng độ khí
SO2 vượt tiêu chuẩn cho phép là khu công nghiệp Thượng Đình, Biên Hoà và nhà
máy xi măng Hải Phòng. Nồng độ NO2 ở khu công nghiệp Biên Hoà vượt TCCP 1,8
lần ở các xí nghiệp khai thác vật liệu xây dựng (khai thác đá) thường có nồng độ CO,
NO2 trong môi trường cao. Tại các mỏ lộ thiên cách xa 50m nơi mỗi lần nổ mìn phá
đá, nồng độ CO trong không khí là 0,1%, nồng độ NO2 là 0,02% cao gấp nhiều lần
TCCP. ở các xí nghiệp khai thác than, cứ khai thác 100 tấn than thì có từ 500-700m3
khí CH4, 700-1500m3 khí CO2.
Khảo sát 275 nhà máy sản xuất công nghiệp trong nghành hoá chất, phân bón,
cơ khí luyện kim, vật liệu xây dựng từ 1991-1995 thấy có23,27% các phân xưởng sản
xuất bị ô nhiễm hơi khí độc hại (SO2, CO, CO2…) với nồng độ đo vượt TCCP từ 1,550 lần.
Như vậy, môi trường lao động của nghành công nghiệp nước ta bị ô nhiễm nặng
nề bởi các yếu tố vi khí hậu nóng, ồn, bụi và các khí thải độc hại. Những yếu tố này
tác động “hợp lực” đến sức khoẻ của người lao động, là nguyên nhân làm phát sinh,
phát triển các loại bệnh tật và làm thay đổi cơ cấu bệnh tuỳ theo mức độ tác động của
môi trường.
1.1.5.Ô nhiễm môi trường nước và tác hại của nó
Nước là nhu cầu thiết yếu trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, từ hoạt động nông
nghiệp,dịch vụ và sinh hoạt của nhân dân, trong đó các ngành sản xuất công nghiệp
cần rất nhiều nước. Trên thế giới nguồn nước sử dụng trong cuộc sống, trong lao
động sản xuất chỉ khoảng 1% tổng lượng nước trên Trái Đất. Theo thống kê ở Mỹ
nước sử dụng cho các ngành công nghiệp chiếm tỷ lệ 50% trong đó nông nghiệp
chiếm 40% còn 10% cho các mục đích khác.
Trong công nghiệp mỗi ngành, mỗi khu chế xuất có các công nghệ khác nhau
cho nên yêu cầu số lượng và chất lượng nước khác nhau. Người ta ước tính để sản
xuất 1 tấn giấy cần 250 tấn nước (250m3), sản xuất 1 tấn đạm cần 600 tấn nước,1 tấn
chất bột cần 1000 tấn nước. Muốn khai thác 1 lít dầu cần 10 lít nước, 1kg len cần 600
lít nước, 1tấn xi măng cần 45 tấn nước, 1 tấn thép cần 200 tấn nước. Công nghệ chế
biến lương thực, thực phẩm, công nghệ thuộc da, chế biến rượu, sản xuất bia đều cần
rất nhiều nước. Ngành dệt may trong quá trình sản xuất chỉ tính trong 1 tháng đã sử
dụng 104.100m3 nước…
Con người ngày càng khai thác và sử dụng tài nguyên nước. Lượng nước ngầm
khai thác năm 1990 gấp 30 lần lượng nước khai thác năm 1960, dẫn đến nguy cơ gây
suy giảm trữ lượng nước sạch và sẽ gây nên các thay đổi lớn về cân bằng nước. Cho
nên vấn đề bảo vệ nguồn nước sạch cho các vùng dân cư trên thế giới đang là nhiệm
vụ hàng đầu của các tổ chức môi trường thế giới. Trong 10 năm từ 1980-1990, thế
giới đã chi 300 tỷ USD cho chương trình nước đảm bảo cung cấp cho khoảng 79%
dân cư đô thị và 41% dân số nông thôn.
Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung chất lượng nước. Các tác nhân gây ô
nhiễm môi trường nước có thể chia làm 2 loại ô nhiễm nước có nguồn gốc tự nhiên
và ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo. Trong ô nhiễm nước có nguồn gốc nhân tạo
thì ô nhiễm do sản xuất công nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt và càng ngày càng
có nguy cơ gây ô nhiễm lớn hơn.[21,17-30]
Nước thải công nghiệp ở nước ta hiện nay so với thế giới và so với nước thải
sinh hoạt không lớn, nhưng trong nước thải công nghiệp có nhiều hoá chất độc hại
như kim loại nặng, các chất hữu cơ, vô cơ có nồng độ cao. Nồng độ BOD5 , COD cao
làm giảm trữ lượng ôxy có trong nước làm ảnh hưởng đến sinh vật và hệ sinh thái.
Các chất hữu cơ, các chất tẩy rửa sản phẩm, lưu hoá cao su, glycerin là những chất
bền vững thậm chí có thể tiêu diệt vi sinh vật, ảnh hưởng đến sự làm sạch của
nước.[9]
Vùng kinh tế phía nam là vùng kinh tế trọng điểm số 1 về số lượng khu công
nghiệp và dự án. Theo tính toán, các khu công nghiệp thải vào sông gồm: sông Đồng
Nai khoảng 130.000 m3 nước thải trong đó có khoảng 23,2 tấn cặn lơ lửng, 19,4 tấn
BOD; 41,3 tấn COD; 7,5 tấn Nitơ; 1 tấn photpho và nhiều kim loại nặng, cùng với
các hoá chất độc hại khác. Theo qui hoạch phát triển dự báo năm 2010 có khoảng
278 tấn cặn lơ lửng, 231 tấn BOD, 493 tấn COD, 89 tấn Nitơ,12 tấn photpho và nhiều
kim loại nặng được thải vào nước. Ngành dệt may thải vào môi trường từ 24-30 triệu
m3 nước, trong đó có khoảng 90% lượng nước chưa được xử lý, thải trực tiếp vào
môi trường. Quá trình sản xuất ngành dệt may sử dụng hàng vạn tấn hoá chất độc hại.
Chỉ tính năm 1996 ngành dệt may đã sử dụng 6520 tấn xút (NaOH) nồng độ 80%,
129 tấn axit sunphuric (H2SO4),220 tấn axit acetic (CH3COOH), 3200 tấn cacbonat
natri (Na2CO3). Hiệu suất sử dụng các hoá chất này chỉ có khoảng 70%-80%, còn lại
20%-30% thải theo nước thải vào môi trường nước. Nước bị ô nhiễm ảnh hưởng rất
lớn đến sức khoẻ của công nhân. Nước không thể thiếu trong cuộc sống nhưng nếu
nước bị ô nhiễm sẽ đem đến bệnh tật cho con người hàng ngày dùng nó. Phụ thuộc
vào nồng độ các chất gây ô nhiễm trong nước và thời gian tiếp xúc mà mức độ độc
hại cuả nó đối với người, động thực vật có khác nhau. [16,30-40]
Theo thông báo của Tổ chức y tế thế giới có 80% bệnh tật của con người có liên
quan đến nước. Nước là môi trường trung gian lây truyền bệnh cho người trực tiếp và
gián tiếp bởi các vi sinh vật và côn trùng truyền bệnh dịch, bệnh thường theo đường
nước lan tràn trong điều kiện thiếu nước sạch và thiếu phương tiện bảo vệ, nhất là các
bệnh về đường tiêu hoá và sau nữa là qua da, niêm mạc, mắt.Theo Tổ chức y tế thế
giới, hàng năm tại các nước đang phát triển có khoảng 14 triệu trẻ em đang bị bệnh
nặng là hậu quả của việc dùng nước bẩn và có khoảng 340 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
sống ở các nước đang phát triển kể cả Trung Quốc có số lượt tiêu chảy là 1 tỷ/ năm
trung bình 3 lượt trẻ em năm.Theo WHO/COD chương trình khống chế bệnh tiêu
chảy, điều tra trên 7350 trẻ em ở 70 nước cho thấy tỷ lệ là 3,4 lượt/ trẻ em/ năm và
ước tính hàng năm có khoảng 4 triệu người bị nhiễm ký sinh trùng đường ruột.[28]
Ngoài ra các chất độc hại có trong nước do các hoạt động công nghiệp như chất
phóng xạ, DDT… tồn lưu trong nước là nguyên nhân phát sinh bệnh ung thư, quái
thai, dị dạng.[10,10-20]
Năm 1955 ở Nhật Bản xuất hiện 1 loại bệnh kỳ lạ. Lúc đầu bị cảm sau đó là đau
toàn thân tiếp đó là gãy xương và tử vong, chỉ trong 5 năm có 207 người chết về bệnh
này. Nguyên nhân gây ra bệnh này là do nước thải có chứa Cadimi, 1kim loại độc.
Nước thải có chứa Cadimi trực tiếp vào lúa và lúa cho sản lượng cao, Cadimi tồn tại
trong gạo và người ăn vào gây xốp xương, dòn và dễ gãy cuối cùng gây tử vong.
Năm 1999 tàu chở dầu của vùng ExongVadenxo đâm vào đá ngầm trong vịnh Prince
William Sound làm 11 triệu galon dầu đổ ra biển, hậu quả là làm ô nhiễm 1 vùng
biển rộng lớn. Alanxaca con tàu chở dầu Nephon của Singapo cũng năm 1999 chở
22000 tấn dầu lúc cập cảng nhà máy lọc dầu Cát Lái (thuộc Sài Gòn Petro) đã đâm
vào cầu cảng làm sập hoàn toàn cầu cảng B, các ống dẫn dầu của cảng bị vỡ, đứt gãy.
Dầu từ tàu Neptune và từ ống dẫn dầu bị vỡ đổ thẳng vào sông, váng dầu dày hàng
chục mm phủ kín bề mặt của một khúc sông gây ô nhiễm nước và làm chết nhiều loại
động vật, thuỷ sinh.
Nước bị ô nhiễm không những ảnh hưởng đến sức khoẻ con người mà còn gây
tác hại đến môi trường toàn cầu, gây hạn hán, lũ lụt làm thiệt hại nhiều người và của.
Theo dự đoán của viện canh nông thế giới đến năm 2020 có khoảng 40% nhân
loại sẽ sống ở vùng thiêú nước. Ô nhiễm nước gây thiếu nước sạch sẽ là hiểm hoạ
của nhân loại trong thế kỷ 21, cũng là nguyên nhân gây sa mạc hoá, đồng thời gây
đói khổ cho hàng tỷ người. Theo Liên hợp quốc mỗi năm có khoảng 5,3 triệu người
chết và 3,35 tỷ người mắc bệnh có liên quan tới nước và con số này còn tăng lên nưã.
Các quốc gia đang phát triển thường mắc các bệnh “lan truyền theo nước”. Bệnh lan
truyền theo nước là những bệnh mà tác nhân lây truyền theo nguồn nước như các
bệnh tiêu chảy, thương hàn, ghẻ, bệnh sán lá mang (qua ốc sống trong nước).[12,123124]
Bảo vệ môi trường nước là nhiêm vụ hàng đầu đòi hỏi sự tham gia của các quốc
gia cộng đồng và đòi hỏi nhiều biện pháp khoa học và giải pháp công nghệ, tổ chức
quản lý, kinh tế và văn hoá xã hội…
Hiện nay ở 1 số nhà máy,các khu công nghiệp, khu chế xuất đã đầu tư xây dựng
các hệ thống xử lý nước thải trước khi đổ vào môi trường. Tuy nhiên còn nhiều
nguyên nhân như kinh phí có hạn, công nghệ xử lý nước chưa đồng bộ, lạc hậu nên
phần lớn nước chưa được xử lý trước khi đổ vào môi trường. Đối với các khu công
nghiệp, khu chế xuất, nhà máy chuẩn bị xây dựng ngoài dự án xây dựng còn có dự án
tác động môi trường, khi các khu này đi vào hoạt động để đảm bảo không khí và
nước không bị ô nhiễm.
1.2. Các yếu tố môi trường không khí ảnh hưởng đến sức khoẻ công nhân sản
xuất xi măng.
1.2.1 ảnh hưởng của bụi
Như ta đã biết. Bụi là những hạt rắn có kích thước rất nhỏ, lơ lửng trong không
khí dài hay ngắn, phụ thuộc vào kích thước, hình thái và tỷ trọng hạt bụi, mức độ
chuyển động của không khí.
Bụi ở nhà máy xi măng thường là do sự nghiền nát cơ học của vật rắn (đá, thạch
cao, đất sét, clinke ). Như vậy bụi tác động lên công nhân sản xuất xi măng thuộc loại
bụi khí dung phân toả, bên cạnh đó bụi ở các phân xưởng sản xuất xi măng còn được
tạo thành do sự đốt cháy nguyên liệu không hoàn toàn (khói, hồ hóng). ảnh hưởng
nhiều nhất đối với công nhân sản xuất xi măng là bụi đá. Trong thành phần của bụi
đá có tỷ lệ silic với hình thể không đều, không nhẵn, sắc cạnh và rắn.[13,21-22]
Tác hại của bụi đối với cơ thể phụ thuộc vào kích thước, tính khuếch tán, tỷ
trọng, diện tích hình thể, độ rắn và tính thầm, trong đó tính hoà tan tức là khả năng
của nó lơ lửng trong không khí nhanh hay lâu có ảnh hưởng lớn nhất.
Theo Latavet A.A bụi đá thạch anh hình cầu kích thước 10 micron trong 3,3 giây có
thể rơi được một quãng đường dài 10 cm, hạt bụi có đường kính từ 10-100 micron
chỉ chiếm tỷ lệ 4,7%. Các hạt bụi có đường kính nhỏ hơn 0,1 micron (khói ở các lò
nung) trong 5,4 phút chỉ rơi được 10 cm, thường chúng lơ lửng trong không khí rất
lâu, do chuyển động Brown.
Thời gian rơi nhanh hay chậm của bụi trong không khí không chỉ phụ thuộc vào
kích thước hạt bụi mà còn phụ thuộc vào gió. Gió làm hạt bụi không đứng yên. Trong
các phân xưởng, tuy gió tự nhiên bị hạn chế, song có trang bị quạt nên các hạt bụi
nhỏ khó rơi xuống đất, chúng lơ lửng trong không khí rất lâu ngay trong tầm thở của
công nhân.
Chúng ta biết rằng không phải tất cả các hạt bụi đều đến được phế nang và ảnh
hưởng trực tiếp đến các phế nang. Những hạt bụi to thường được giữ lại ở đường hô
hấp trên bởi lông mũi và chất nhầy. Theo nhiều tác giả, nếu thở bằng mũi số hạt bụi
giữ lại ở mũi 45-50% số còn lại đi vào phế quản và thực bào hoặc phản xạ ho, tống ra
ngoài. Những hạt bụi có đường kính nhỏ vào tận phế nang.
Độ bền vững của hạt bụi và khả năng xâm nhập của nó vào cơ thể còn phụ
thuộc điện tích của hạt bụi. Bụi đá, bồ hóng , khói thường mang điện tích dương cùng
dấu. Theo Panxakhovic I.M và Gordanskaia E.N, tốc độ thực bào đối với bụi phụ
thuộc vào điện tích của hạt bụi. Do bụi đá, khói có điện tích dương cùng dấu nên khó
kết hợp với nhau tạo thành những hạt bụi to hơn để lắng xuống và vì vậy thời gian
lắng xuống châm hơn, khả năng toả lan cao hơn, lơ lửng trong không khí lâu, nên dễ
xâm nhập vào đường hô hấp.
Tác hại của bụi đối với con người và động vật phụ thuộc vào tính chất của
chúng, có loại bụi mang theo bản chất độc hại về hoá học và lý học, có loại chỉ gây
trở gại về mặt cơ học do đặc tính bám hút của nó cũng có loại mang theo cả vi khuẩn,
ký sinh trùng, vi rút sẽ gây hại nhiều hơn.
Rất nhiều phần tử nhỏ bé(bụi) trong môi trường không khí có tính độc hại như
bụi kim loại, bụi đá và hyđrocacbon thơm. Hợp chất hydrocacbon thơm là những hợp
chất đa vòng, thường xuất hiện trong không khí vùng đô thị, nó là tác nhân gây bệnh
ung thư đối với người và động vật.
Bụi clinke trong sản xuất xi măng không những gây ảnh hưởng xấu đến người,
động vật mà còn có tác động xấu đến thực vật. Đối với thực vật, nó làm rụng lá
nhanh, cây chóng già, hình thành các khí hổng trong quả, giảm trọng lượng quả và
hạt, nói chung bụi trong sản xuất xi măng làm cho thực vật bị cằn cỗi. Tuy vậy, trừ
bụi clinke, bụi đất đá từ các máy nghiền nguyên liệu làm xi măng thì không nguy
hiểm lắm.
Tác hại của bụi lên cơ thể trên nhiều phương diện, trước hết chúng xâm nhập
vào đường hô hấp trên và nếu tiếp xúc lâu dài dễ bị bệnh bụi phổi nghề nghiệp. Bụi
silic ngoài gây bệnh bụi phổi còn gây rối loạn nghiêm trọng các cơ quan như xơ gan,
rối loạn chức phận dạ dày(co bóp yếu, tiết dịch vị kém) nên khó tiêu, viêm loét dạ
dày, rối loạn thần kinh chức năng, đau đầu, mệt mỏi, khả năng lao động giảm.
Bụi vào mắt gây viêm giác mạc, kết mạc. Bụi sắc cạnh có thể gây loét giác mạc
vì chúng gây những vết xước ở giác mạc làm giảm thị lực.
Bụi rơi và phủ lên da làm khô da, da thoát mồ hôi kém, ảnh hưởng đến sự thải
nhiệt của cơ thể vốn đã nóng do nhiệt độ nơi làm việc của công nhân cao.
Bụi có thể gây dị ứng toàn thân nhất là khi độ ẩm không khí cao. Bụi bị nhiễm
khuẩn hoặc các chất phóng xạ làm cho da dễ bị viêm, trạng thái bệnh lý ở da ngày
càng nặng thêm.Như vậy bụi silic có tác hại đến toàn thân và khu trú chủ yếu ở phổi.
Theo Trần Ngọc Liễn khám sức khoẻ cho 232 công nhân tiếp xúc với bụi Amiăng
trên 10 năm thấy tỷ lệ công nhân bị viêm mũi họng là 55,8%,ho,khó thở 31,6%, viêm
phế quản mạn 9,03%.[11,56-58]
Theo thống kê của ban Y tế Bộ Xây dựng, trong số 7197 cán bộ, công nhân xi
măng thấy rằng công nhân sản xuất xi măng ở công ty xi măng Bỉm Sơn bệnh viêm
mũi họng, phế quản là 61%, công ty xi măng Hà Tiên 23,6%. Tác hại lâu dài và nguy
hiểm nhất của bụi là gây bệnh bụi phổi, nhất là bụi chứa hàm lượng silic cao. Trong
25 công nhân xây dựng đường hầm ( khoan đá) tiếp xúc với bụi được khám thì có 10
người bị bệnh bụi phổi, chiếm tỷ lệ 40%. ở nhà máy cơ khí Nghệ An trong 82 công
nhân được khám, có 11 công nhân bị bệnh bụi phổi chiếm 13,41%.[17][23,47-49]
Theo Doãn Ngọc Hải, số công nhân bị bệnh bụi phổi silic ở một số nhà máy xí
nghiệp được thống kê như sau: các xí nghiệp vật liệu xây dựng8,4%, mỏ đá Hoà
An(Biên Hoà) 16,06%, mỏ đá Phủ Lý 6,46%, xi măng Hải Phòng 1,06%, công ty xi
măng Hà Tiên 2,8%, nhà máy gạch chịu lửa Đồng Nai 19,09%, nhà máy gạch chịu
lửa Thái Nguyên 9,77%.[24,10-14]
Theo Nguyễn Văn Hoài các công nhân trong nhà máy cơ khí cả nước, mắc bệnh
bụi phổi 25,4%. Tính đến năm 2.000 cả nước ta có hơn 10.000 trường hợp mắc bệnh
bụi phổi silic chiếm 89% các loại bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm.
Trong thực tế các yếu tố môi trường không tác động riêng rẽ mà tác động phối
hợp.ở các phân xưởng sản xuất xi măng cũng vậy, các yếu tố nóng, độ ẩm cao, bụi,
tiếng ồn và các khí độc cùng phối hợp tác động đến sức khoẻ của công nhân.[14,7275]
Theo Babkin V.O.,Peter B.A.(1988) khi nhiệt độ không khí từ 26,4oC đến
34,4oC ; nồng độ bụi từ 2,6 đến 7,5 mg/m3 và nồng độ chì trong không khí từ 0,0040,02 mg/m3 cùng với gánh nặng thể lực, tỷ lệ bệnh tật cao hơn hẳn nhóm chứng là
12% trong đó chủ yếu là các bệnh hô hấp, tiêu hoá, tim mạch, thần kinh và cơ xương
khớp.
Như vậy tác động phối hợp các yếu tố bất lợi của môi trường ảnh hưởng đến
khả năng lao động, sức khoẻ giảm,tỷ lệ bệnh tật tăng lên.
1.2.2 ảnh hưởng của nóng ẩm
Theo quy ước quốc tế vùng nóng ẩm là vùng trong năm có trên 6 tháng nóng
ẩm, trong ngày nóng ẩm có trên 12 giờ nhiệt độ ngoài trời trong bóng dâm là 20oC,
độ ẩm trên 80%. Nước ta vào mùa hè, trong những ngày nóng bức nhiệt độ không khí
lên tới 38oC-40 oC, nhiệt độ mặt đường đất đá bị hun nóng có khi tới 45 oC, thuộc vào
vùng nóng ẩm.
Công nhân lái xe xúc,ô tô tải của phân xưởng mỏ, ảnh hưởng của nhiệt độ đối
với cơ thể khá lớn. Họ không những chịu ảnh hưởng của bức xạ mặt trời mà còn chịu
ảnh hưởng của bức xạ nhiệt do động cơ hoạt động của các xe. Vì vậy nhiệt độ trong
xe thường cao hơn ngoài trời.
Do ảnh hưởng của nhiệt độ cao và độ ẩm lớn nên việc thải nhiệt bị hạn chế, hơn
thế nữa còn bị hấp thụ nhiệt (nhiệt do bức xạ, dẫn truyền, đối lưu) nhiệt độ cơ thể
tăng lên sau ca lao động so với trước ca lao động.
Bức xạ nhiệt làm tăng nhanh các chỉ tiêu sinh lý, nhiệt độ da tăng nhanh trong
10 phút đầu, nhiệt độ da ngực từ 37oC lên 38 oC, ở trán tăng từ 36,4 oC lên 37,9 oC.
Mạch tăng nhanh trong 6 phút đầu từ 80 nhịp / phút lên đến 130 nhịp /phút. Nhiệt độ
dưới lưỡi tăng nhanh trong 15 phút đầu từ 36 oC lên 38 oC. Bên cạnh ánh sáng nhìn
thấy công nhân còn chịu ảnh hưởng của tia hồng ngoại. Tia hồng ngoại chiếm một
khoảng khá lớn trong quang phổ. Ngoài bức xạ hồng ngoại và ánh sáng nhìn thấy,
công nhân các phân xưởng sản xuất xi măng còn chịu tác động của bức xạ kích thích
đó là tia tử ngoại, tia tử ngoại có tác dụng diệt khuẩn, làm xạm da và có thể gây bỏng
độ I khi chiếu trực tiếp vào da.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy khi lao động trong các phân xưởng sản
xuất xi măng, công nhân phải chịu tác động của nhiệt độ không khí cao và độ ẩm lớn,
cường độ bức xạ mạnh ở nơi làm việc. Mặt khác, lao động nặng cơ thể sản nhiệt tăng
nên nhận thêm nhiệt của bức xạ, nhiệt dẫn truyền và đối lưu, thải nhiệt hạn chế kể cả
thải nhiệt bằng con đường mồ hôi, nên nhiệt độ cơ thể tăng, rất dễ say nóng.[22]
Nhiệt độ và độ ẩm cao là yếu tố kích thích hết sức quan trọng gây ảnh hưởng
đến tất cả quá trình sống xảy ra trong cơ thể. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao ( stress
nhiệt ) hàng loạt quá trình sinh lý, sinh hoá diễn ra trong cơ thể bị rối loạn. Rối loạn
điều tiết thần kinh, rối loạn điều tiết tim mạch, hô hấp, rối loạn quá trình chuyển hoá
nước-điện giải. Các rối loạn kể trên là hậu quả của một quá trình tích nhiệt của cơ
thể.[29]
Nhiệt độ cơ thể tăng, cơ thể phản ứng bằng cách tăng thải nhiệt qua đường hô
hấp. Trong môi trường nhiệt độ cao, pH máu nghiêng về phía axit, nồng độ CO2
trong máu tăng là nguyên nhân chủ yếu kích thích trung khu hô hấp làm tăng tần số
hô hấp. Song song với tăng tần số hô hấp còn có các phản ứng khác như tăng thải
nhiệt ở da, tăng tần số tim, tăng lưu lượng máu lưu thông, trương lực mạch máu
giảm, huyết áp hạ, giãn mạch ngoại vi, máu bị cô ( do tiết nhiều mồ hôi ) mất điện
giải, nếu lao động kéo dài thì có thể dẫn đến thiếu máu não.Vì khi nhiệt độ môi
trường nơi làm việc cao, các con đường thải nhiệt bằng bức xạ, dẫn truyền,đối lưu
hầu như mất hoàn toàn và ngược lại cơ thể nhận thêm nhiệt của môi trường bằng các
con đường này, khi đó con đường thải nhiệt duy nhất của cơ thể là bay hơi nước từ bề
mặt da (mồ hôi). Một gam mồ hôi bay hơi có thể thải được 0,580 kcal .Tuy nhiên sự
bốc hơi mồ hôi trong điều kiện nóng cũng gặp nhiều khó khăn. Hiệu suất bay hơi mồ
hôi phụ thuộc rất nhiều vào độ ẩm không khí, mồ hôi ra khỏi cơ thể ở dạng lỏng cũng
không có tác dụng thải nhiệt.[25]
1.2.3 ảnh hưởng của tiếng ồn và rung xóc.
Tiếng ồn là âm thanh không có giá trị, không phù hợp với mong muốn của
người nghe. Đó là âm thanh gây cảm giác khó chịu, ảnh hưởng xấu đến cơ quan thính
giác cũng như toàn trạng sức khoẻ, làm giảm khả năng lao động. Tiếng ồn là tổng
hợp của nhiều thành phần khác nhau, được hỗn hợp trong sự cân bằng biến động.
Mỗi thành phần có vai trò riêng trong sự gây ồn, nó rất khác nhau đối với người này,
người khác, từ chỗ này đến chỗ khác và từ lúc này đến lúc khác. Mức độ không
muốn nghe là thước đo tính chất tác hại của tiếng ồn. Tiếng ồn là dạng ô nhiễm phổ
biến ở công ty.[15,203-210]
Nguồn ồn được tạo ra ở các cơ sở sản xuất xi măng thường là do các nguyên
nhân khác nhau : bắn mìn, phá đá, khoan đá, máy nén khí,động cơ ô tô, máy xúc,
máy nổ, khu vực nghiền nguyên liệu. Vì vậy tiếng ồn ở các khu vực sản xuất khác
nhau không đồng nhất vừa là loại tiếng ồn ổn định ( động cơ của các máy nghiền
nguyên liệu, nghiền clinke, ô tô đang chạy trên đường ) vừa là tiếng ồn không ổn
định. Tiếng ồn không ổn định có 2 loại: tiếng ồn dao động (nhiều loại xe ô tô, nhiều
máy nghiền cùng đồng thời hoạt động, ô tô tăng giảm ga…); tiếng ồn ngắt quãng ( nổ
mìn, phá đá, khoan đá…) ngoài ra còn có tiếng ồn xung ( cộng hưởng các tiếng ồn ).
Các loại xe vận chuyển đá có trọng tải lớn, có tiếng ồn từ 80-98 dB những loại
cũ tiếng ồn đến 114 dB… Tác động của tiếng ồn đối với cơ thể không những phụ
thuộc vào cường độ, tần số mà còn phụ thuộc vào thời gian tác động, tính phản ứng
của cơ thể. Nhìn chung, bất cứ tiếng ồn nào có trong môi trường đều là loại ô nhiễm
vì nó hạ thấp chất lượng cuộc sống, tiếng ồn tác động xấu đến con người trên nhiều
phương diện.
Ogawa H. nghiên cứu ảnh hưởng của tiếng ồn đến cơ thể cho thấy tiếng ồn có
cường độ 35dB gây rối loạn giấc ngủ, từ 45-60 dB cản trở giao tiếp và gây cho con
người khó chịu.Tiếng ồn từ 80-90dB gây giảm hoặc mất thính lực và tiếng ồn từ 130140dB gây chói tai, đau tai. Thực tế, tiếng ồn từ 100dB trở lên trong khoảng thời gian
ngắn đã gây ảnh hưởng xấu đối với thính lực. Khi con người làm việc ở môi trường
ồn, sau vài giờ nghỉ phải mất một thời gian nhất định, thính giác mới trở lại bình
thường. Nếu con người chịu tác động của tiếng ồn lớn, kéo dài có thể gây bệnh điếc
nghề nghiệp.Điều tra ở nơi làm việc của một số nhà máy, xí nghiệp có tiếng ồn 85dB
thấy tỉ lệ công nhân bị điếc nghề nghiệp là 21,5%, ở công nhân có tuổi nghề từ 20
năm trở lên là 34,34%. Tiếng ồn ở nơi làm việc của công nhân công ty xi măng Bỉm
Sơn vượt quá giới hạn cho phép đặc biệt ở tần số2000-4000 Hz. Trong số 1139 công
nhân ở các nhà máy xi măng trên được kiểm tra sức khoẻ (khám tai, mũi, họng, tim
mạch) cho thấy tỷ lệ giảm sức nghe là 35,55 1,42%, điếc nghề nghiệp là 11,59
0,94%, bệnh tim mạch là 7,98%.[27,146-148]
ở những công nhân sử dụng máy khoan, máy ép hơi khi khoan đá lấy nguyên
liệu sản xuất xi măng sau một ngày làm việc đều có cảm giác đau đầu dai dẳng, trong
tai như có tiếng ve hay có tiếng muỗi kêu, thường bị chóng mặt, vã mồ hôi, mệt mỏi,
dễ cáu kỉnh, trí nhớ giảm, giấc ngủ không bình thường, ban ngày thèm ngủ, ngủ gà,
ban đêm khó ngủ, giấc ngủ không sâu, hậu quả cuối cùng là giảm sút sức khoẻ, giảm
khả năng lao động, năng suất lao động giảm từ 20-40%, tai nạn lao động dễ phát
sinh.
Như vậy, rõ ràng tiếng ồn có tác dụng tổng hợp đối với cuộc sống con người ở
3 mức : quấy rầy về mặt cơ học ( che lấp âm thanh cần nghe ); quấy rầy về mặt sinh
học của cơ thể chủ yếu là bộ phận thính giác và hệ thống thần kinh; quấy rầy về mặt
hoạt động của con người. Tất cả các quấy rầy trên, dẫn đến biểu hiện xấu về mặt tâm
lý, sinh lý, bệnh lý, giảm hiệu quả lao động và ảnh hưởng xấu đến công nhân.
Nguồn tiếng ồn rung xóc cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công nhân sản xuất xi
măng nhưng đối với công nhân sản xuất xi măng thì tác động của rung là chủ yếu.
Rung là một trong những dao động điều hoà, căn cứ vào tiếp xúc người ta chia rung
làm 2 loại : rung toàn thân và rung cục bộ. Công nhân lái ô tô, lái máy xúc, máy ủi,
công nhân đứng máy nghiền, chịu tác động của rung toàn thân còn công nhân sử
dụng máy khoan, máy ép hơi…chịu tác động của rung cục bộ, chủ yếu là các cơ ở
tay, vai.
Cơ thể phản ứng với rung gồm 3 loại : loại kích thích thần kinh tiền đình, loại
phản ứng của tổ chức, loại làm cho các tạng di động. Rung xóc kéo dài gây nên sự
mệt mỏi, động tác điều khiển thiếu chính xác, hiệu xuất lao động không cao, tai nạn
dễ xảy ra. Rung xóc còn làm rối loạn mối liên hệ giữa các hệ thống lưới gây stress
trường diễn và tác động lên hệ dưới đồi-tuyến yên-vỏ thượng thận gây tăng tiết
corticoid, adrenalin, làm tăng nhịp tim, tăng huyết áp và nếu kích thích liên tục sẽ
gây rối loạn.
Chương ii
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu.
2.1 Đối tượng nghiên cứu: Đề tài được tiến hành ở công ty xi măng Bút Sơn gồm
các xưởng sau đây:
Xưởng lò
Xưởng mỏ
Xưởng nghiền đóng bao
Xưởng điện
Xưởng xe máy
Xưởng cơ khí
Xưởng nguyên liệu
Xưởng nước
Phòng điều khiển trung tâm.
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Các chỉ tiêu theo dõi
*Các chỉ tiêu về vi khí hậu : gồm nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ gió
+Nhiệt độ và độ ẩm không khí:nhiệt độ và độ ẩm không khí được đo bằng ẩm
kế Assmann.
ẩm kế Assmann gồm có 2 nhiệt kế : nhiệt kế khô và nhiệt kế ướt. Bầu của nhiệt
kế ướt được bọc một lớp vải để giữ nước. Khi đo, dùng một cái bơm
(có sẵn trong hộp ẩm kế) bơm nước cho ướt lớp vải của ẩm kế ướt. Trong ẩm kế có
một quạt gió, nhờ hệ thống giây cót tạo ra một tốc độ gió để làm thay đổi bầu thuỷ
ngân của hai nhiệt kế.Thứ tự thao tác như sau:
-Bơm nước vào bầu nhiệt kế ướt.
-Lên dây cót cánh quạt để quạt sẵn sàng hoạt động.
-Treo ẩm kế vào nơi nghiên cứu. Mở chốt cho cánh quạt quay. Sau 5-10 phút
khi nhiệt độ ở hai bên nhiệt đã ổn định thì đọc trị số ở hai nhiệt kế. Tính kết quả dựa
vào hiệu nhiệt độ của nhiệt kế khô và ướt(t) tra bảng tính sẵn ta có độ ẩm tương đối.
Khi đo không đặt nhiệt kế gần nguồn nhiệt và ẩm. Khi có gió mạnh ( gió của
thiên nhiên) trên 3 m/s thì lắp thêm một bộ phận chắn gió chỗ cánh quạt.
+Đo tốc độ gió
Tốc độ gió tính bằng mét/ giây hoặc bằng km/ giờ. Tốc độ gió thường thay đổi
nên mỗi nhóm đo thường kéo dài 100 giây rồi tính tốc độ trung bình cho khoảng thời
gian đó. Để đo tốc độ gió người ta thường dùng máy đo cánh quạt hay cánh gáo.Đo
bằng máy đo gió cánh quạt
-Cấu tạo : Máy gồm bộ phận cảm ứng dạng chong chóng cánh quạt. Trục của
chong chóng nối với một hệ thống bánh xe để truyền chuyển động đến 3 kim đồng hồ
: hàng đơn vị, hàng trăm và hàng nghìn. Phía bên có một chốt để mở hoặc hãm kim
của máy.
-Cách sử dụng :
. Trước khi đo ghi số chỉ của tất cả các kim (A)
- Xem thêm -