Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng mất răng hàm sữa sớm và một số ảnh hưởng đến cung răng va...

Tài liệu Thực trạng mất răng hàm sữa sớm và một số ảnh hưởng đến cung răng và khớp cắn ở học sinh lứa tuổi 6 10 tại trường tiểu học manachit và sokpaluong viêng chăn lào

.PDF
92
106
77

Mô tả:

1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI SENGDALA LYVONGSA THùC TR¹NG MÊT R¡NG HµM S÷A SíM Vµ MéT Sè ¶NH H¦ëNG §ÕN CUNG R¡NG Vµ KHíP C¾N ë HäC SINH LøA TUæI 6-10 T¹I TR¦êNG TIÓU HäC MANACHIT Vµ SOKPALUONG - VI£NG CH¡N -LµO Chuyên ngành : Răng Hàm Mặt Mã sô : 60720601 LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Phương 2 HÀ NỘI–2015 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong những năm qua, ngành răng hàm mặt đã có nhiều tiến bộ vượt bậc và theo đó nhu cầu về công tác chăm sóc sức khỏe được chú trọng nhiều hơn, không chỉ đôi với người lớn mà còn chú trọng đến đôi tượng trẻ em, bởi “trẻ em hôm nay” là “thế giới của ngày mai”. Ở Việt Nam, tỷ lệ sâu răng ở trẻ em còn rất cao và việc điều trị cho trẻ em còn rất kém. Theo điều tra điều tra sức khỏe răng miệng toàn quôc (2002) của Trần Văn Trường và cộng sự thì tỷ lệ sâu răng sữa là 84,9%, trong đó 94% trường hợp là không được điều trị , và hậu quả tiếp theo là viêm tủy, viêm quanh cuông, răng vỡ dần và phải nhổ răng sữa sớm. Cuôi cùng ảnh hưởng đến sự sắp sếp bình thường của bộ răng vĩnh viễn và đòi hỏi phải có một quá trình điều trị chỉnh nha toàn diện về sau. Theo nghiên cứu của Đào Thị Hằng Nga, thì tỷ lệ mất răng sữa sớm trên nhóm đôi tượng mà tác giả nghiên cứu là 29,5% . Từ những năm đầu thế kỷ XX. Những ảnh hưởng do mất răng (MR) sữa sớm đã được chú ý đến. Rất nhiều nghiên cứu đã được tiến hành cho thấy MR sữa sớm nói chung và mất răng hàm sữa sớm (MRHSS) nói riêng gây nên những lệch lạc cho bộ răng vĩnh viễn. Cho đến những năm 1984, William NW với một nghiên cứu dọc đã chính thức đưa ra đầy đủ những hậu quả do MRHSS lên bộ răng vĩnh viễn. Từ đó đến nay, cũng có nhiều tác giả cho dù thực hiện bằng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, nhưng cũng đều đưa ra kết quả gần tương tự nhau.Theo đó hầu hết các tác giả đều đưa ra 3 khuyến cáo nên sử dụng bộ giữ khoảng để điều trị dự phòng cho những lệch lạc này . Ở Lào, do mức sông và nhu cầu về chăm sóc răng miệng, đặc biệt về mặt thẩm mỹ còn thấp hơn so với trên thế giới. Bên cạnh đó trình độ hiểu biết và mức độ quan tâm đến hậu quả lệch lạc do MRHSS còn hạn chế nên chưa có nhiều nghiên cứu về vấn đề này. Xuất phát từ mong muôn góp phần hiểu biết về thực trạng MRHSS tại Lào và nhận thức một cách đầy đủ hơn về hậu quả của MRHSS, chúng tôi thực hiê n ê đề tài “Thực trạng mất răng hàm sữa sớm và mô t số ảnh hưởng đến cung ô răng và khớp cắn ở học sinh lứa tuổi 6-10 tại Trường tiểu học Manachit và Sokpaluong - Viêng Chăn - Lào” với hai mục tiêu như sau: 1. Mô tả thực trạng mất răng hàm sữa sớm ở học sinh lứa tuổi 6-10 tại Trường tiểu học Manachit và Sokpaluong - Viêng Chăn - Lào năm 2015. 2. Bước đầu đánh giá mô ôt số ảnh hưởng đến cung răng và khớp cắn ở nhóm học sinh nói trên. 4 Chương 1 TỔNG QUAN 1.1. Sự hình thành và phát triển của răng và cung hàm 1.1.1. Các giai đoạn phát triển của răng Giai đoạn từ khi sinh đến 2,5 tuổi Cách cho bú là quan trọng, hoạt động cho bú cần thiết cho xương hàm dưới phát triển bình thường và ngăn ngừa vẩu hàm trên. Sự mọc răng cửa sữa và môi quan hệ bình thường của nhóm răng hai hàm tạo nên quan hệ gần xa của 2 hàm của khớp cắn. Nếu răng cửa sữa dưới mọc trước răng cửa trên quá dài dễ tạo khớp cắn ngược vùng cửa do lưỡi đẩy hoặc xương hàm dưới kém phát triển khi răng mọc không gặp nhau dễ tạo khớp cắn sâu. Tuy nhiên khớp cắn này chỉ là tạm thời nó có thể được sửa chữa khi các răng vĩnh viễn thay thế.  Giai đoạn từ 2,5 đến 6 tuổi Là giai đoạn ổn định của bộ răng sữa và đây cũng là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng đôi với sự mọc và phát triển của các răng vĩnh viễn thay thế . Lúc 3 tuổi, tất cả các răng sữa đã được hoàn tất (kín cuông), thân RHL thứ nhất đã phát triển đầy đủ và chân răng đang được thành lập. Giữa 3- 6 tuổi các răng vĩnh viễn tiếp tục phát triển nhất là các răng cửa, từ 5-6 tuổi, ngay trước khi các răng sữa bắt đầu rụng đi là giai đoạn có nhiều răng trên cung hàm nhất. Các răng vĩnh viễn đang phát triển sẽ dịch chuyển gần hơn về phía bờ trên xương ổ răng, cuông các chân răng sữa bắt đầu tiêu, răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất bắt đầu chuẩn bị mọc. Sự tác động lẫn nhau của phức hợp nhiều lực lên cung hàm có tác dụng duy trì sự ổn định của cung hàm. Giảm chiều dài cung răng do sâu, do mất sớm răng sữa có thể gây ra sai khớp cắn do các răng thiếu chỗ mọc . 5 Giai đoạn 6-10 tuổi Giữa 6-7 tuổi, răng hàm lớn thứ nhất mọc lên, đây là răng vĩnh viễn đầu tiên mọc qua lợi và khoang miệng. Các răng cửa giữa sữa rụng đi và răng vĩnh viễn thay thế chúng bắt đầu mọc lên và trạm khớp với răng cửa đôi diện, thường là răng cửa giữa hàm dưới mọc trước, sau đó mới đến răng cửa giữa hàm trên. Khoảng thời gian 7-8 tuổi là rất quan trọng đôi với sự phát triển của hàm răng. Liệu có đủ chỗ cho các răng hay không? Do đó việc khám định kỳ là rất quan trọng. Từ 7-8 tuổi các răng cửa bên HD mọc. Răng cửa bên HT mọc sau đó 1 năm. Nếu không có đủ chỗ cho răng này, thời gian mọc sẽ bị chậm lại, răng sẽ bị mọc lệch vào trong hoặc xoay. Nếu chậm trễ răng cửa bên sẽ mọcvề phía hàm ếch và gây nên khớp cắn ngược với răng cửa dưới. Khoảng 9-10 tuổi, tất cả các răng vĩnh viễn trừ RHL thứ ba đã được hình thành xong phần thân răng và lắng đọng canxi. Trong thời gian này, cuông răng nanh sữa răng hàm sữa bắt đầu tiêu, tổng kích thước theo chiều gần xa của răng nanh sữa, RHS thứ nhất, thứ hai lớn hơn tổng kích thước gần xa của răng nanh vĩnh viễn, RHL thứ nhất, thứ hai khoáng 1,7mm ở HD, 0,9mm ởhàm trên mỗi bên. Khoảng sẵn có không phải là yếu tô duy nhất ảnh hưởng đến quá trình mọc của các răng vĩnh viễn và sự tiêu của các răng nanh sữa. Bệnh thiểu năng tuyến giáp cũng làm các chân răng sữa tiêu bất thường, chậm mọc răng, răng sữa tồn tại lâu trên cung hàm, hình dạng răng bất thường, các rôi loạn ở lợi. Bất thường áp lực cơ, do yếu tô di truyền, do thói quen mút môi, mút ngón tay, đẩy lưỡi cũng làm ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ răng. 6  Giai đoạn 10-12 tuổi Đây là giai đoạn răng hỗn hợp muộn và là giai đoạn hàm răng hỗn hợp chuyển sang răng vĩnh viễn. Răng nanh sữa và răng hàm sữa thứ nhất hàm dưới thường rụng cùng lúc, ngay sau đó là RHS thứ nhất hàm trên. Thông thường ở hàm dưới, răng nanh vĩnh viễn mọc trước RHN thứ nhất và thứ hai. Ở hàm trên răng hàm nhỏ thứ nhất mọc trước, sau đó đến RHN thứ hai và răng nanh. Một quy tắc quan trọng là duy trì sự thay răng tương xứng ở hai bên cung hàm. Sau khi RHS thứ hai rụng, xảy ra sự điều chỉnh khớp cắn của RHL thứ nhất. Múi ngoài gần của RHL thứ nhất hàm trên cắn khớp với rãnh giữa ngoài của răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới và khuynh hướng khớp cắn loại II ở hàm răng sữa và răng hỗn hợp sẽ không còn tồn tại nữa. Ở giai đoạn này những biện pháp chỉnh nha dự phòng rất có hiệu quả, có thể ngăn ngừa được sự lệch lạc khớp cắn sau này. Răng hàm lớn thứ hai thường mọc ngay sau răng hàm nhỏ thứ hai một thời gian ngắn. Tuy nhiên theo Hurme, có thể răng hàm lớn thứ hai mọc trước răng hàm nhỏ thứ hai trong 17% trường hợp. Khi đó, răng hàm lớn thứ nhất có thể bị nghiêng về phía gần, hiện tượng này càng trầm trọng hơn nếu ở bệnh nhân bị mất sớm RHS thứ hai. Do đó, tương quan răng hàm lớn thứ nhất càng sai lệch nhiều hơn, răng hàm nhỏ thứ hai sẽ bị mọc chậm hoặc mọc lệch về phía lưỡi, thậm chí có thể bị kẹt hoàn toàn không mọc được. Tóm tắt thời kỳ mọc và thứ tự mọc của răng vĩnh viễn: Việc thành lập bộ răng vĩnh viễn gắn liền với sự tồn tại của của bộ răng sữa trước đó, thời gian diễn ra sự rụng răng sữa và mọc răng vĩnh viễn có thể kéo dài từ 5 - 6 tuổi đến 11 - 12 tuổi. 7 Bảng 1.1: Thời kỳ mọc răng vĩnh viễn Răng sô 1 (tuổi) 4 5 6 7 8-9 11-12 10-11 11-12 6-7 12-13 6-7 (tuổi) Hàm dưới 3 7-8 Hàm trên 2 7-8 9-11 10-11 11-12 6-7 8 11-13 17-21 Nam 18-25 Nữ 17-21 Bảng 1.2: Thứ tự mọc răng vĩnh viễn Sô thứ tự 1 2 3 4 5 6 7 8 Hàm a b a 6 6 1 1 1 6 2 2 2 4 4 4 5 3 3 3 5 5 7 7 7 8 8 8 dưới b 1 6 2 3 4 5 7 8 răng mọc Hàm trên (a: Thường xảy ra; b: Đôi khi) Thời điểm mọc răng là rất thay đổi ở từng cá thể. Đa sô các răng mọc lên khi chân răng đã phát triển được ¾ mà không tùy thuộc vào tuổi của trẻ . Tuy nhiên, thời điểm mất răng sữa có thể ảnh hưởng đến sự mọc răng vĩnh viễn thay thế. RHS mất sớm trước 7 tuổi sẽ làm chậm thời gian mọc răng vĩnh viễn thay thế, trong khi mất răng sau 7 tuổi sẽ làm răng vĩnh viễn mọc sớm hơn . Mức độ ảnh hưởng sẽ giảm cùng với tuổi. Sự mọc răng vĩnh viễn sau khi mất răng sữa sớm chịu ảnh hưởng của lớp xương che phủ trên mầm răng vĩnh viễn, nếu lớp xương này bị phá hủy do hậu quả của viêm nhiễm thì răng vĩnh viễn sẽ mọc sớm, thậm chí chỉ với sự phát triển tôi thiểu của chân răng. Nếu còn lớp xương này thì răng vĩnh viễn chưa mọc được trong vòng nhiều tháng. Mầm răng vĩnh viễn cần 4-5 tháng để vượt qua 1mm bề dày lớp xương này . 8 1.1.2. Sự thay đổi cung hàm trong quá trình răng vĩnh viễn thay răng sữa 1.1.2.1. Sự thay đổi theo chiều gần xa Sự thay đổi khi răng cửa sữa thay bằng răng cửa vĩnh viễn. Do thay đổi kích thước giữa răng sữa và răng vĩnh viễn dẫn đến những thay đổi về tình trạng răng, khớp cắn nhiều nhất. Sự biến đổi chiều hướng mọc răng, sự loại bỏ khe hở giữa các răng, sự mòn răng theo thời gian và ảnh hưởng của cơ trong giai đoạn từ 6 - 12 tuổi có nhiều thay đổi nhất. Sau 12 tuổi thường rắt ít biến đổi, gần như là ổn định . Bảng 1.3: Kích thước gần xa của răng sữa và răng vĩnh viễn (Moyers - 1973) Răng sữa (mm) Răng cửa giữa Hàm Răng cửa bên Răng nanh trên Răng sô 4 Răng sô 5 Răng cửa giữa Hàm Răng cửa bên Răng nanh dưới Răng sô 4 Răng sô 5 6,4 5,3 6,8 6,7 8,8 4,1 4,6 5,8 7,8 9,9 Nam Răng vĩnh viễn (mm) 8,9 6,9 8,0 6,8 6,7 5,5 6,0 7,0 6,9 7,2 Chênh Răng lệch sữa (mm) (mm) 2,5 1,6 1,2 0,1 -2,1 1,4 1,4 1,2 -0,9 -2,7 6,5 5,3 6,6 6,6 8,7 4,1 4,7 5,8 7,7 9,7 Nữ Răng vĩnh viễn (mm) 8,7 6,8 7,5 6,6 6,5 5,5 5,9 6,6 6,8 7,1 Chênh lệch (mm) 2,2 1,5 0,9 0,0 -2,2 1,4 1,2 0,8 -0,9 -2,6 Kích thước của các răng vĩnh viễn (trừ răng hàm sữa thứ hai hàm trên và răng hàm sữa thứ nhất, thứ hai hàm dưới) ngược lại, đều lớn hơn kích thước răng sữa mà nó sẽ thay thế. Bảng 1.4: Sự khác biệt về kích thước răng sữa và răng vĩnh viễn (Moyers - 1973) 9 Răng cửa (mm) Hàm trên Hàm dưới Răng nanh/răng hàm nhỏ (mm) Răng vĩnh viễn 31,6 43,0 74,6 Răng sữa 23,4 44,6 68,0 Chênh lệch 8,2 -1,6 6,6 Răng vĩnh viễn 23,0 42,2 65,2 Răng sữa 17,4 47,0 64,4 Chênh lệch 5,6 -4,8 0,8 Tổng (mm) Qua bảng trên ta thấy rằng để chứa đủ bôn răng cửa vĩnh viễn (31,6mm) thay cho bôn răng cửa sữa (23,4) cung răng hàm trên phải dài thêm (8,2mm). Tương tự với hàm dưới cung răng phải dài thêm (5,6mm) để chứa bôn răng cửa vĩnh viễn (23,0mm) thay cho bôn răng cửa sữa (17,4mm). Để bù lại sự thiếu hụt đó có 4 hiện tượng ở cung xương hàm xảy ra. Hiện tượng 1: Có khe giữa các răng cửa. Khe thừa từ khi răng cửa sữa mọc tới thời điểm ngay trước khi răng cửa vĩnh viễn mọc thay thế tăng lên 5mm ở hàm trên và 3mm ở hàm dưới. Nếu không có khoảng giữa các răng cửa sữa thì răng cửa vĩnh viễn sẽ khấp khểnh, ngược lại nếu có các khoảng giữa các răng cửa sữa thì răng cửa vĩnh viễn sẽ không hoặc ít bị khấp khểnh. Hiện tượng 2: Sự tăng chiều rộng cung răng tại vùng răng nanh (trung bình khoảng 2mm) và trong quá trình lớn lên, răng mọc hướng lên trên và ngả ra phía ngoài. Khác biệt giữa hàm trên với hàm dưới (hàm trên tăng rộng nhiều hơn hàm dưới); giữa nam với nữ (nam tăng rộng nhiều hơn nữ). Hiện tượng 3: Sự ngả môi của răng cửa vĩnh viễn (tăng dài cung răng 1 -2 mm ở hàm trên và 1,3mm ở hàm dưới. 10 Hiện tượng 4: Khe simiens ở mỗi bên hàm, hàm trên khe trước răng nanh sữa; hàm dưới khe sau răng nanh sữa dịch chuyển nhẹ ra phía sau tại vùng simiens. Nếu có khe simiens thì tình trạng khấp khểnh răng cửa vĩnh viễn sẽ được cải thiện hơn. Nếu không có khe simiens thì tình trạng khấp khểnh răng cửa vĩnh viễn sẽ phụ thuộc vào ba hiện tượng trên . 1.1.2.2. Sự thay đổi khi thay răng nanh, răng hàm Ta đã biết khoảng “leewayspace” là khoảng chênh lệch vì kích thước gần xa của các răng hàm sữa lớn hơn so với răng hàm nhỏ vĩnh viễn, giá trị khoảng này trung bình ở hàm trên bằng 1,5mm; hàm dưới bằng 2,5mm ở mỗi bên hàm, vì thế nói chung sự thay thế diễn ra là dễ dàng. Nếu răng hàm sữa thứ hai mất sớm thì răng hàm lớn vĩnh viễn thứ nhất di về gần và khoảng “leewayspace” sẽ bị chiếm dẫn tới chiều dài và chu vi cung răng bị giảm, khi đó tình trạng khấp khểnh răng trong cung có nguy cơ tăng. Trật tự mọc răng trong giai đoạn này cũng rất quan trọng, nếu thứ tự mọc là răng hàm nhỏ thứ hai, răng hàm nhỏ thứ nhất, răng nanh thì răng nanh sẽ thiếu chỗ mọc. Nếu thứ tự mọc răng nanh, răng hàm nhỏ nhứ nhất, răng hàm nhỏ thứ hai thì răng nanh sẽ có sự lệch lạc tạm thời 0,5mm ở hàm trên và 1,1mm ở hàm dưới (vì răng nanh, răng hàm nhỏ thứ nhất vĩnh viễn có kích thước lớn hơn răng nanh, răng hàm sữa thứ nhất) . 1.1.2.3. Sự thay đổi cung hàm theo chiều ngang Từ lúc sinh tới lúc 2 tuổi khoảng cách giữa hai răng cửa tăng 5mm ở hàm trên và 3 mm ở hàm dưới. Lúc 12 tuổi khoảng cách tăng thêm 5mm và không thay đổi từ đó. Vùng răng hàm lúc mọc răng sữa đến lúc 12 tuổi tăng 0,5mm hàm trên và 2mm hàm dưới. 11 1.1.2.4. Sự thay đổi cung hàm theo chiều đứng Từ răng sữa đến răng vĩnh viễn được thực hiện bởi xương ổ răng và sự mọc răng. 1.1.3. Sự thay đổi của khớp cắn Mặt phẳng tận cùng giữa hai răng hàm sữa thứ hai hàm trên và hàm sữa thứ hai hàm dưới và ảnh hưởng của nó đến vị trí và loại khớp cắn khi mọc răng hàm lớn thứ nhất vĩnh viễn (răng 6). Nếu mặt phẳng tận cùng hình bậc thang thì quan hệ răng HL vĩnh viễn thứ nhất sẽ là quan hệ khớp cắn sai loại II hoặc đầu chạm đầu. Nếu mặt phẳng tận cùng là một đường thẳng thì quan hệ răng HL vĩnh viễn thứ nhất sẽ là quan hệ đầu chạm đầu hoặc quan hệ khớp cắn sai loại I. Nếu mặt phẳng tận cùng là hình bậc thang ngược thì quan hệ răng HL viễn viễn thứ nhất sẽ là khớp cắn sai loại III. Khi răng dịch chuyển trước và sau trong quá trình nhai có thể gây nên mòn mặt tiếp xúc và mòn khớp cắn dẫn đến làm giảm độ rộng của tăng chiều trước sau kết quả làm giảm chu vi cung hàm 5-10mm hoặc hơn sau khi hoàn chỉnh mọc răng vĩnh viễn ở tuổi thiếu niên . Khấp khểnh nhẹ của răng cửa dưới có hướng tăng, nếu giai đoạn đầu răng sắp xếp tôt hoặc khấp khểnh nhẹ ban đầu sẽ trở lên xấu hơn. Sự thay đổi này xuất hiện sớm từ 17-18 hoặc muộn hơn đến năm 20 tuổi. Ở trẻ em khi hai hàm cắn lại thì tất cả các răng hàm trên trừ răng hàm sữa thứ hai đều cắn khớp với hai răng đôi diện ở răng hàm dưới cũng vậy trừ răng cửa dưới. Khi phân tích sô đo chu vi cung răng người ta thấy có sự giảm, thực tế khi trẻ có bộ răng hỗn hợp. Do chu vi từ mặt gần răng côi vĩnh viễn thứ nhất giảm đi khoảng 4mm so với chu vi đo từ mặt xa răng côi sữa thứ hai, ở thời điểm này sự phát triển khác nhau của xương hàm dưới so với xương hàm trên đóng vai trò quan trọng đôi với sự dịch chuyển khớp cắn, xương hàm dưới 12 phát triển nhiều về phía sau hơn xương hàm trên và khớp cắn biến động nhiều nhất vào thời kỳ cuôi của bộ răng hỗn hợp . Răng HL viễn viễn thứ nhất mọc dựa theo chân xa của răng hàm sữa thứ hai. Tùy vào bình diện tiếp xúc của răng hàm sữa thứ hai hàm trên và hàm dưới mà nó sẽ có tương quan răng HL viễn viễn thứ nhất khác nhau. Khớp cắn răng sữa tương đương khớp cắn loại I gọi là bước gần, tức là mặt phẳng phía xa của răng HL viễn viễn thứ nhất HD ở về phía gần so với răng HL viễn viễn thứ nhất HT. Khớp cắn răng sữa tương đương khớp cắn loại II được gọi là bước xa tức là mặt phẳng phía xa của răng HL viễn viễn HD ở về phía xa của răng HL viễn viễn HT. Khớp cắn loại III hiếm khi nhìn thấy ở hàm răng sữa vì hướng phát triển sọ mặt thông thường ở giai đoạn này thì xương hàm dưới luôn ở phía sau xương hàm trên. Khi răng hàm sữa thứ hai mất thì răng HL viễn viễn thứ nhất có xu hướng di chuyển về phía gần vào khoảng Leeway nhưng răng HL viễn viễn thứ nhất HD di chuyển vào khoảng Leeway nhiều hơn răng HL viễn viễn thứ nhất HT. Chính sự di chuyển này tạo nên tương quan khớp cắn loại I ở răng vĩnh viễn. Người ta ước tính sự dịch chuyển này khoảng 3,5mm tương đương với nửa núm. Trong đó một nửa là sự dịch chuyển răng trên sông hàm, một nửa là do xương hàm dưới phát triển bù trừ trong giai đoạn răng hỗn hợp để theo kịp sự phát triển của xương hàm trên . Quan hệ xa răng hàm sữa  quan hệ xa răng hàm vĩnh viễn. Quan hệ đầu chạm đầu răng hàm sữa  quan hệ đầu chạm đầu răng hàm vĩnh viễn. Quan hệ gần răng hàm sữa: - Quan hệ trung tính răng hàm vĩnh viễn 13 - Quan hệ gần răng hàm vĩnh viễn. Khi răng hàm lớn thứ hai vĩnh viễn đã mọc hoàn chỉnh thì khớp cắn tương đôi ổn định, ít biến đổi. Hình 1.1: Sự thay đổi của khớp cắn 1.2. Khái niệm về khớp cắn 1.2.1. Định nghĩa Khớp cắn là để chỉ đồng thời động tác khép hàm và trạng thái khi hai hàm khép lại . 14 - Động tác khép hai hàm là nói đến giai đoạn cuôi của chuyển động nâng hàm dưới lên để dẫn đến sự tiếp xúc mật thiết giữa hai hàm đôi diện. - Trạng thái khi hai hàm khép lại là nói đến liên quan của các mặt nhai các răng đôi diện khi cắn khít nhau. Như vậy, khớp cắn có nghĩa là những quan hệ chức năng và rôi loạn chức năng giữa hệ thông răng, cấu trúc giữ răng, khớp thái dương hàm và yếu tô thần kinh cơ. 1.2.2. Khớp cắn trung tâm Ở khớp cắn trung tâm thì hàm trên và hàm dưới ở vị trí chạm núm tôi đa, lồi cầu ở vị trí cao nhất và giữa nhất. Khi hai cung răng ở vị trí khớp cắn trung tâm, có quan hệ các răng theo ba hướng:  Trước – sau (gần-xa) - Núm ngoài gần của răng hàm lớn thứ nhất hàm trên ở giữa hai núm ngoài gần và giữa của răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới. - Đỉnh răng nanh hàm trên nằm ở đường giữa răng nanh và răng hàm nhỏ thứ nhất hàm dưới (sườn gần răng nanh trên tiếp xúc với sườn xa răng nanh dưới). - Rìa cắn răng cửa trên tiếp xúc với rìa cắn răng cửa dưới hoặc ở phía trước 1-2 mm.  Ngang - Cung răng trên chùm ngoài cung răng dưới, sao cho núm ngoài răng trên trùm ra núm ngoài răng dưới. - Đỉnh núm ngoài răng dưới tiếp xúc với rãnh giữa hai núm của răng hàm nhỏ và răng hàm lớn trên. - Hai phanh môi trên và dưới tạo nên một đường thẳng và ở giữa mặt trước của khớp cắn. 15  Đứng - Răng trên tiếp xúc với răng dưới vừa khít ở vùng răng hàm nhỏ và lớn. - Rìa cắn răng cửa hàm trên vừa chạm rìa cắn răng cửa hàm dưới, chùm sâu 1-2 mm. Trong những điều kiện này, mỗi răng của một cung răng sẽ tiếp xúc với mặt nhai của hai răng đôi diện trừ răng cửa giữa hàm dưới và răng sô 8 hàm trên. Đó là yếu tô cho sự ổn định các răng của hai hàm. 1.2.3. Tương quan các răng giữa hàm trên và hàm dưới  Độ cắn chìa Là khoảng cách giữa bờ cắn răng của hàm trên và hàm dưới theo chiều trước sau. Trung bình ở người Việt Nam là 2,79 ± 1,29 mm.  Độ cắn phủ Là khoảng cách giữa bờ cắn răng cửa hàm trên và hàm dưới theo chiều đứng khi hai hàm cắn khớp. Trung bình ở người Việt Nam là 2,89 ± 1,45 mm (Trung bình độ cắn phủ bằng 1/3 chiều cao than răng dưới).  Đường cắn khớp Là đường nôi múi ngoài của các răng sau và bờ cắn của các răng trước hàm dưới hoặc là đường nôi trũng giữa các răng sau và cingulum các răng trước hàm trên. Đường cắn khớp là một đường cong đôi xứng, liên tục và đều đặn. Khi hai hàm cắn khớp với nhau đường cắn khớp của hàm trên và của hàm dưới chồng khít lênnhau . 16 Hình 1.2: Đường cắn khớp của cung răng trên và cung răng dưới . Mục đích của điều trị chỉnh hình răng mặt là tạo ra một khớp cắn tôi ưu có thể đạt được ở mỗi bệnh nhân và tiêu chuẩn khớp cắn thực sự cho mỗi bệnh nhân chỉ có thể xác định sau khi quá trình điều trị và duy trì đã được hoàn tất . 1.3. Phân loại khớp cắn theo Angle Phân loại khớp cắn theo Angle được công bô vào thập niên 1890, là một môc quan trọng trong sự phát triển của chỉnh hình răng mặt, nó không chỉ phân loại các hạng sai khớp cắn mà còn định nghĩa đơn giản, rõ ràng về khớp cắn bình thường của hàm răng thật, Ông lấy răng hàm lớn sô một hàm trên làm chìa khóa khớp cắn và tương quan khớp cắn hai hàm bình thường sẽ là: Đỉnh núm gần ngoài răng hàm lớn thứ nhất hàm trên khớp với rãnh giữa ngoài răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới và cácrăng còn lại sắp xếp đều trên một đường cắn khớp đều đặn và liên tục . Dựa vào tương quan răng hàm lớn thứ nhất hàm trên và hàm dưới khi hai hàm ở tư thế cắn trung tâm, Angle phân ra 3 loại sai khớp cắn sau: 17 1.3.1. Sai khớp cắn loại I Quan hệ trước - sau của răng hàm lớn thứ nhất trung tính. Núm gần ngoài răng hàm lớn thứ nhất trên tương ứng rãnh giữa ngoài răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới, lệch lạc xảy ra ở phía trước những răng này: Răng mọc không đúng vị trí, xoay trục khớp cắn ngược vùng răng cửa… 1.3.2. Sai khớp cắn loại II Quan hệ trước - sau của những răng hàm lớn thứ nhất vĩnh viễn lệch xa. Răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới ở lùi phía sau hoặc răng hàm lớn trên ở lệch về phía trước. Loại II gồm 2 tiểu loại: Tiểu loại 1: Cung hàm trên hẹp, hình chữ V, nhô ra trước, răng cửa trên ngả ra trước, môi đóng không kín, môi dưới thường chạm mặt trong các răng cửa trên. Tiểu loại 2: Các răng cửa giữa hàm trên ngả ra sau còn các răng cửa bên nghiêng ngoài 1.3.3. Sai khớp cắn loại III Quan hệ trước – sau của những răng hàm lớn thứ nhất vĩnh viễn lệch gần. Nghĩa là răng hàm lớn thứ nhất hàm dưới lệch về phía trước. Có thể lệch gần một bên hoặc cả hai bên vùng răng hàm. Hình 1.3: Khớp cắn bình thường và các loại sai khớp cắn theo Angle 18 1.4. Chức năng của hê ô răng sữa. Răng sữa có các chức năng quan trọng như sau : - Tiêu hóa: hệ răng sữa giữ một chức năng quan trọng việc tiêu hóa thức ăn cho trẻ bằng cơ chế cắt, xé, nhai, nghiền nát. - Giữ chỗ: Răng sữa có chức năng giữ chỗ trên cung hàm cho răng vĩnh viễn sau này mọc lên. - Kích thích sự phát triển của cung hàm: Răng sữa kích thích sự phát triển của cung hàm nhờ vào cử động nhai, nhất là trong sự phát triển chiều cao cung răng. - Phát âm; Sự mất sớm các răng sữa phía trước có thể gây khó khăn cho việc phát một sô âm như: ‘ph’, ‘v’, ‘s’, ‘f’, ‘z’, và ‘th’. - Thẩm mỹ: Ngoài ra hệ răng sữa còn giữ chức năng thẩm mỹ cho khuôn mặt của trẻ. Sự phát âm của trẻ còn bị ảnh hưởng một cách gián tiếp, vì khi nhận ra bộ răng xấu xí của mình, trẻ sẽ không mở miệng đủ to khi nói chuyện. 1.5. Mất răng sữa sớm 1.5.1. Khái niệm mất răng sữa sớm Nếu răng sữa mất trước khi răng vĩnh viễn bắt đầu mọc (hình thành thân răng đã hoàn tất, hình thành chân răng đã bắt đầu) thì xương ổ răng sữa mới nhổ sẽ được tái tạo lại, ngăn cản răng vĩnh viễn mọc, làm chậm quá trình mọc răng. Nhiều tác giả đưa ra khái niệm về mất răng sữa sớm: - Theo Miller (1965), thời gian trung bình từ khi răng sữa rụng đến khi răng vĩnh viễn thay thế mọc là 3 tháng. Nên nếu như thời gian này kéo dài hơn thì có thể coi là mất răng sữa sớm. - Theo Ronnerman A (1977), ông sử dụng khái niệm mất răng hàm sữa sớm như sau : + Mất răng hàm sữa thứ nhất trong khoảng 7½ - 9½ tuổi và / hoặc mất răng hàm sữa thứ hai trong khoảng 7½ - 10½ tuổi. + Mất răng hàm sữa thứ nhất và /hoặc thứ hai trước 7½ tuổi. 19 - Kerr WJ (1980), trong nghiên cứu của mình ông sử dụng khái niệm: Răng sữa được coi là mất sớm khi mất răng mà sau 6 tháng không thấy răng vĩnh viễn mọc 1.5.2. Nguyên nhân gây mất răng sữa sớm  Do hậu quả của sâu răng: Đây là nguyên nhân chủ yếu gây nên việc mất răng hàm sữa sớm: . - Do đặc điểm giải phẫu học hô rãnh, thời kỳ trước tuổi đến trường mặt nhai dễ bị sâu răng nhất. Khi răng vĩnh viễn đầu tiên mọc, những khoảng trông bình thường bắt đầu được đóng lại, hình thành các mặt tiếp xúc, tỷ lệ sâu răng mặt bên tăng lên đáng kể. - Do đặc điểm giải phẫu men, ngà, tủy răng, sâu răng ở răng sữa thường phát triển nhanh rất dễ bị lộ tủy . Nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời sẽ nhanh chóng dẫn đến viêm quanh cuông… - Do bề mặt RHS thứ hai phức tạp hơn RHS thứ nhất, nhiều múi, gờ, chỗ lõm hơn nên RHS thứ hai có tỷ lệ sâu cao hơn RHS thứ nhất. RHS hàm dưới dễ sâu hơn RHS hàm trên do ở HD dễ lắng đọng thức ăn hơn ở HT. Điều này cũng giải thích lý do tỷ lệ mất RHS thứ hai cao hơn RHS thứ nhất, tỷ lệ mất RHS HD cao hơn ở HT.  Do sún răng: - Thường xảy ra ở trẻ nhỏ từ 1-3 tuổi, hay gặp ở vùng răng cửa HT, ít gặp ở răng cửa hàm dưới. - Tổn thương thường bắt đầu là một chấm đen ở phần giữa mặt ngoài của hai răng cửa giữa hàm trên, sau đó chấm đen lan rộng theo một đương ngang, men bị vụn, ngà thành màu nâu đen, tổn thương tiếp tục lan sang mặt bên làm gẫy thân răng, tổn thương từ răng cửa giữa lan sang răng cửa bên và răng nanh. Trong quá trình phát triển sún răng có thể kèm theo sâu răng. Sún răng 20 nhanh chóng gây biến chứng ở tủy răng và vùng quanh cuông, gây nên nhổ răng sớm .  Do chỉ định sai của bác sĩ răng hàm mặt: Thường xảy ra đôi với việc nhổ sớm các răng nanh. - Khi răng cửa giữa và răng cửa bên vĩnh viễn mọc lên nếu có thiếu chiều dài cung răng hoặc có bất tương xứng kích thước răng hàm, thường xảy ra hiện tượng chen chúc ở vùng răng cửa ở múc độ từ nhẹ đến nặng. - Từ đó có nhiều nha sỹ, do chưa hiểu biết đầy đủ về chỉnh hình răng mặt, không đo đạc và phân tích khoảng cần có và khoảng sẵn có kỹ lưỡng mà đưa ra chỉ định nhổ sớm răng nanh sữa sớm để giải quyết chen chúc răng cửa. Sau đó không có kế hoạch theo dõi đầy đủ và các biện pháp dự phòng tiếp theo dẫn đến hậu quả là nhóm răng cửa bị xô lệch, lệch đường giữa… - Việc nhổ răng có hướng dẫn được thực hiện tôt nhất khi có sự bất tương xứng về khoảng là trên 10mm/hàm/ bệnh nhân có tương quan khớp cắn và xương loại I . Tuy nhiên, việc nhổ răng có hướng dẫn trước kia được dùng để điều trị những chen chúc trầm trọng, nhưng hiện nay, người ta xem nó như là bước đầu tiên của việc điều trị bằng khí cụ cô định.  Do chấn thương -Là nguyên nhân hay gặp gây mất sớm răng cửa sữa. -Mất răng hàm sữa và răng nanh sữa do sang chấn ít gặp. Nếu có thì thường gặp trên bệnh nhân gẫy xương hàm. 1.5.3. Những hậu quả của việc mất răng sữa sớm Để hiểu được những hậu quả của mất răng sữa sớm trước hết hãy tìm hiểu về các lực giữ thăng bằng cho răng. 1.5.3.1. Lý thuyết về sự cân bằng lực. - Một răng được duy trì ổn định ở vị trí tương quan thích hợp trên cung răng là nhờ sự tác dụng cân bằng của một tổ hợp các lực,các lực này xuất hiện
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan