LUẬN VĂN:
Thực trạng lập và thực hiện kế hoạch trong
các doanh nghiệp nhà nước. Các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác lập và thực
hiện kế hoạch trong doanh nghiệp
Lời nói đầu.
Kể từ khi nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang nền kinh tế thị trường thì tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp có nhiều thay đổi. Trong thời gian đầu các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh
tế nói chung đã loại bỏ hoàn toàn công tác kế hoạch hóa ra ngoài, phủ nhận hoàn toàn vai
trò của kế hoạch hóa trong nền kinh tế và trong từng doanh nghiệp. Họ coi kế hoạch hóa
là sản phẩm của cơ chế cũ và nó không còn phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường, họ coi
thị trường là yếu tố quyết định còn kế hoạch thì không có vai trò gì cả.
Nhưng trong thực tế của những năm qua và kinh nghiệm của các doanh nghiệp lớn trên
thế giới đã cho thấy rằng dù ở trong nền kinh tế thị trường phát triển thì các doanh
nghiệp vẫn phải có chiến lược và kế hoạch kinh doanh. Doanh nghiệp nào có chiến lược
và kế hoạch hợp lý thì doanh nghiệp đó hoạt động càng hiệu quả và ngày càng phát triển.
Kế hoạch chiến lược đóng vai trò như một kim chỉ nam hướng doanh nghiệp tới các mục
tiêu nhiệm vụ cần đạt được trong tương lai. Do vậy trong nền kinh tế thì trường thì kế
hoạch hóa trong doanh nghiệp vẫn có những vai trò rất quan trọng. Thấy được điều đó và
thực trạng của công tác lập và thực hiện kế hoạch ở các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
mà tôi đi vào tìm hiểu vấn đề này để mong làm rõ vai trò của kế hoạch hóa trong doanh
nghiệp từ đó mà sẽ giúp ích cho công việc của mình sau này.
Bài viết của tôi được chia thành ba chương chính là:
Chương 1: Cơ sở lý luận về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường.
Chương 2: Quy trình và các bước lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
Chương 3: Thực trạng lập và thực hiện kế hoạch trong các doanh nghiệp nhà nước. Các
giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lập và thực hiện kế hoạch trong doanh nghiệp.
CHƯƠNG I
Cơ sở lý luận về kế hoạch hóa trong doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
1.Khái quát chung về kế hoạch trong doanh nghiệp.
1.1.Khái niệm kế hoạch trong doanh nghiệp.
Từ lâu trong các doanh nghiệp các nhà quản lý doanh nghiệp luôn đặt ra cho doanh
nghiệp mình những mục tiêu, những hướng đi mà doanh nghiệp sẽ đi trong tương lai.
Những mục tiêu, cái đích đó được cụ thể hóa trong chiến lược phát triển của doanh
nghiệp. Nhưng chiến lược là một tầm nhìn xa trong tương lai, nó nói lên viễn cảnh mà
doanh nghiệp muốn có được vì vậy để cụ thể hóa chiến lược phát triển của doanh nghiệp
thì cần có các kế hoạch cụ thể trong ngắn hạn và trung hạn để thực hiện các quyết định
trong chiến lược. Tuy nhiên do kế hoạch hóa trong doanh nghiệp là một công cụ quản lý
trong doanh nghiệp nên nó có vai trò tịch cực và tiêu cức nhất định nếu không được sử
dụng một cách linh hoạt. Nó đóng vai trò tích cực khi giúp cho các hoạt động của doanh
nghiệp được vận hành trơn tru, tránh được những sai lầm nhưng đôi khi nếu quá cứng
nhắc theo kế hoạch thì nó sẽ kìm hãm sự sáng tạo, linh hoạt trong hoạt động để đối phó
với những biến đổi ngoài kế hoạch.
Vậy hiểu theo cách chung nhất thì kế hoạch hóa là một phưong thức quản lý theo mục
tiêu, nó là hoạt động của con người trên cở sở nhận thức và vận dụng các quy luật xã hội
và tự nhiên đặc biệt là các quy luật kinh tế để tổ chức quản lý các đơn vị kinh tế kĩ thuật,
các ngành, các lĩnh vực hoặc toàn bộ nền sản xuất xã hội theo những mục tiêu thống nhất.
Vì vậy kế hoạch ở đây có thể bao trùm ở những quy mô và phạm vi khác nhau. Nó có thể
là kế hoạch hóa nền kinh tế nói chung trên phạm vi cả nước, bao trùm lên tất cả các
ngành kinh tế. Hoặc nó cũng có thể là kế hoạch hóa cho từng ngành kinh tế riêng lẻ, hay
có thể là kế hoạch hóa vùng, địa phương trên phạm vi một vùng lãnh thổ nhất định, và ở
cấp độ nhỏ nhất nó là kế hoạch hóa trong doanh nghiệp. Vậy kế hoạch hóa trong doanh
nghiệp hay là kế hoạch hóa hoạt động sản xuất doanh nghiệp là phương thức quản lý của
doanh nghiệp theo mục tiêu, nó bao gồm các hành vi can thiệp của chủ thể doanh nghiệp
tới các hoạt động của doanh nghiệp nhằm mục đích đạt được mục tiêu đề ra cho doanh
nghiệp.
Như vậy kế hoạch hóa trong doanh nghiệp thể hiện được kĩ năng dự báo các xu hướng
phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được, tổ
chức triển khai các hành động để đạt được mục tiêu đề ra, nó bao gồm các bước là:
Soạn lập kế hoạch, đây là bước đầu tiên và cũng là bước quan trọng nhất vì chỉ có nhờ
lập kế hoạch chính xác dựa trên các thông tin đầy đủ về thực trạng của doanh nghiệp,
trình độ chuyên môn của đội ngũ lao động mà doanh nghiệp đang nắm giữ, tiềm lực về
vốn của doanh nghiệp… để từ đó có thể tìm ra điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp từ
đó mà có thể phát huy được hết các tiềm năng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó cũng cần
dựa trên các phân tích về điều kiện môi trường bên ngoài của doanh nghiệp như xu
hướng biến động của nhu cầu thị trưòng, tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước,
tình hình chính trị xã hội trong nước… từ đó tìm ra những cơ hội, thách thức mà thị
trường đem lại. Để từ đó có những phương án tận dụng tốt nhất những cơ hội mà thị
trường đem lại hay là có các phương án để đối phó với những thách thức từ thị trường để
giúp cho doanh nghiệp vượt qua những thách thức đó với mục đích cuối cùng là đạt được
mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Để những mục tiêu đề ra không mang tính chủ quan mà
phải có căn cứ dựa trên các nguồn lực bên trong doanh nghiệp và điều kiện bên ngoài
doanh nghiệp. Vì vậy bản kế hoạch của doanh nghiệp được hình thành thông qua việc trả
lời các câu hỏi là doanh nghiệp đang đứng ở đâu? Doanh nghiệp muốn đi đến đâu? Và
làm thế nào để đi đến đó?
Bước tiếp theo là tổ chức triển khai thực hiện, kiểm tra đánh giá, điều chỉnh kế hoạch.
Sau khi đã soạn lập được một kế hoạch hoàn chỉnh, phù hợp với mục tiêu và khả năng
của doanh nghiệp rồi thì việc tổ chức triển khai thực hiện nó như thế nào là rất quan
trọng, nó thể hiện sự phối hợp hành động giữa các bộ phận, đơn vị chức năng trong
doanh nghiệp nhằm thực hiện một mục tiêu chung của doanh nghiệp đã được đặt ra trong
bản kế hoạch. Nó thể hiện cách thức huy động các nguồn lực trong và ngoài doanh
nghiệp như thế nào, hơn thế nữa là việc sử dụng các nguồn lực sao cho có hiệu quả nhất.
Việc tổ chức thực hiện không đơn thuần chỉ là việc triển khai các hoạt động cần thiết mà
nó còn là quá trình dự báo những thay đổi của thị trưòng hay những phát sinh bất ngờ
trong quá trình thực hiện và khả năng ứng phó với những thay đổi, phát sinh đó của
doanh nghiệp. Còn quá trình kiểm tra đánh giá giúp cho doanh nghiệp thúc đẩy quá trình
thực hiện, phát hiện ra những biến đổi bất ngờ trong quá trình thực hiện và tìm ra những
nguyên nhân gây ra những biến đổi đó để từ đó tìm cách khắc phục những phát sinh đó.
Còn công tác đánh giá sẽ giúp cho doanh nghiệp đánh giá những mặt đạt được và những
mặt hạn chế chưa đạt được để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm từ những thành
công và thất bại đó. Với những bài học kinh nghiệm đó sẽ giúp cho doanh nghiệp trong
công tác xây dựng kế hoạch sau này được tốt hơn.
1.2.Chức năng của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Kế hoạch hóa trong doanh nghiệp với tư cách là công cụ quản lý theo mục tiêu vì vậu nó
có vai trò quan trọng trong công tác quản lý vi mô trong doanh nghiệp, nó được thể hiện
qua các chức năng sau đây.
Chức năng ra quyết định. Kế hoạch hóa cho phép ta xây dựng quy trình ra quyết định và
phối hợp các quyết định. Vì trong doanh nghiệp có nhiều bộ phận, đơn vị chức năng khác
nhau và mỗi bộ phận đơn vị chức năng này có những vai trò khác nhau trong doanh
nghiệp. Nên nhiều khi các bộ phận này có thể không thống nhất với nhau trong quá trình
quyết định các hoạt động của doanh nghiệp vì vậy kế hoạch hóa sẽ giúp cho quá trình ra
quyết định của các bộ phận sẽ theo một quy trình thống nhất để tránh tình trạng xung đột
giữa các đơn vị bộ phận. Nhưng khi đã ra được quyết định rồi thì việc phối hợp các quyết
định đó lại với nhau cũng không phải đơn giản vì vẫn có sự khác biệt giữa các quyết đinh
của các bộ phận chức năng cho nên nó cần có công tác kế hoạch hóa để phối hợp các
quyết định đó sao cho các hoạt động của doanh nghiệp được vận hành suôn sẻ. Đây có
thể là một trong những điểm mạnh của hệ thống kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Chức năng giao tiếp, kế hoạch hóa trong doanh nghiệp có chức năng giao tiếp vì nó tạo
điều kiện cho các nhà lãnh đạo và quản lý của doanh nghiệp có thể giao tiếp được với
nhau, nó cho phép lãnh đạo các bộ phận có thể phối hợp trao đổi xử lý các thông tin và
những vấn đề trong doanh nghiệp. Khi có một quy trình kế hoạch thống nhất nó sẽ góp
phần cung cấp trao đổi thông tin giữa các phòng ban chức năng trong doanh nghiệp với
nhau, từ đó các lãnh đạo của các bộ phận khác nhau có thể nắm bắt được những thông tin
và các hoạt động của các bộ phận khác để từ đó mà có được những phương án hoạt động
cho bộ phận mình sao cho phù hợp với các phòng ban bộ phận khác để đảm bảo cho mục
tiêu của doanh nghiệp được thực hiện đúng theo kế hoạch đề ra.
Bản kế hoạch với tư cách là một tài liệu chứa đựng các chiến lược phát triển của doanh
nghiệp trong tương lai, trong đó còn chứa đựng các kế hoạch hành động của các bộ phận
chức năng trong doanh nghiệp như kế hoạch sản xuất và dự trữ, kế hoạch Marketing, kế
hoạch nhân sự, kế hoạch tài chính, kế hoạch nghiên cứu triển khai... Cũng như kế hoạch
tổng thể của doanh nghiệp. Vì vậy kế hoạch sẽ đóng vai trò như một kênh thông tin từ
ban lãnh đạo xuống các phòng ban chức năng cũng như tới từng nhân viên trong doanh
nghiệp để huy động nguồn lực giúp thực hiện các mục tiêu đề ra đồng thời phản hồi
những thông tin từ dưới lên tới ban lãnh đạo về quá trình thực hiện kế hoạch, từ thông tin
phản hồi đó mà ban lãnh đạo có thể kiểm tra đánh giá được công tác tổ chức thực hiện
nếu thấy những sai lệch sẽ có phương án điều chỉnh. Kế hoạch không chỉ đóng vai trò là
kênh thông tin dọc mà nó còn có chức năng là kênh thông tin ngang giữa các phòng ban
chức năng. Vì các kế hoạch chức năng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết nên việc
trao đổi thông tin với nhau giữa các phòng ban là rất quan trọng, nó sẽ giúp cho các bộ
phận nắm được tiến độ của các bộ phận khác từ đó có những điều chỉnh để kế hoạch bộ
phận cũng như kế hoạch tổng thể đi đúng tiến độ.
Chức năng quyền lực, khi một bản kế hoạch được xây dựng hoàn chỉnh phù hợp với
những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp thì bản kế hoạch đó như là một bản
tuyên bố của ban lãnh đạo doanh nghiệp tới các bộ phận và các nhân viên trong doanh
nghiệp về chiến lược phát triển của doanh nghiệp trong tương lai, trong đó sẽ ghi rõ
những mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt được trong thời gian tới. Với những mục tiêu
nhiệm vụ được đặt ra trong bản kế hoach thì ban lãnh đạo doanh nghiệp đã khẳng định
quyền lực lãnh đạo của họ trong doanh nghiệp cũng như với các nhân viên. Nhờ có kế
hoạch mà các hoạt động trong doanh nghiệp được quản lý một cách chặt chẽ, hợp lý và
từ đó sẽ giúp cho mọi người đều có thể tham gia đóng góp ý kiến vào bản kế hoạch.
1.3. Nguyên tắc kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Khi chúng ta làm một việc gì thì thông thường đều có những nguyên tắc nhất định. Vì
vậy trong công tác kế hoạch hóa cũng không thể không có những nguyên tắc trong xây
dựng kế hoạch. Nhờ có những nguyên tắc này sẽ giúp cho bản kế hoạch được xây dựng
một cách hợp lý, sát với thực tế hơn và giảm thiểu những rủi ro có thể xảy ra. Vậy kế
hoạch hóa trong doanh nghiệp được tuân theo những nguyên tắc sau đây.
Nguyên tắc thống nhất, do doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều bộ phận khác nhau,
mỗi bộ phận có hoạt động chức năng riêng lẻ khác nhau. Cho nên trong công tác quản lý
doanh nghiệp cần có sự thống nhất để đảm bảo hoạt động của doanh nghiệp được thống
nhất. Trong doanh nghiệp có các mối quan hệ dọc và mối quan hệ ngang. Mối quan hệ
dọc thể hiện quan hệ từ trên xuống giữa ban lãnh đạo doanh nghiệp và các phòng ban
chức năng cũng như các nhân viên trong doanh nghiệp và mối quan hệ này cũng thể hiện
quan hệ quyền lực lãnh đạo của người chủ doanh nghiệp với các nhân viên. Còn mối
quan hệ ngang là mối quan hệ giữa các phòng ban chức năng với nhau, nó thể hiện quan
hệ tác nghiệp trao đổi thông tin với nhau giữa các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhờ có
mối quan hệ này mà các bộ phận trong doanh nghiệp có thể nắm bắt hoạt động của nhau
từ đó có thể giúp đỡ lẫn nhau trong quá trình thực hiện.
Trong doanh nghiệp có nhiều đơn vị chức năng với các kế hoạch của riêng mình để thực
hiện chức năng của mình. Cho nên có sự phân định rất rõ ràng giữa về chức năng giữa
các bộ phận. Nhưng khi các bộ phận tiến hành xây dựng kế hoạch cho bộ phận mình đều
phải căn cứ vào chiến lược phát triển của doanh nghiệp nhằm thực hiện những mục tiêu
chung của toàn doanh nghiệp vì vậy kế hoach tổng thể của doanh nghiệp không thể chỉ là
sự lắp ghép đơn thuần của các bộ phận mà nó còn phải là một hệ thống các kế hoạch có
liên quan chặt chẽ với nhau thể hiện sự thống nhất từ trên xuống và giữa các kế hoạch bộ
phận.
Nguyên tắc tham gia, nguyên tắc này có mối quan hệ với nguyên tắc thống nhất, theo đó
thì nguyên tắc này cho phép mọi thành viên trong doanh nghiệp đều có thể tham gia đóng
góp ý kiến vào quá trình xây dựng kế hoạch. Nhờ có sự tham gia này mà bản kế hoạch sẽ
thể hiện đầy đủ ý chí của mọi thành viên trong doanh nghiệp chứ không của riêng ban
lãnh đạo. Nó thể hiện sự thống nhất giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Nếu nguyên
tắc này được thực hiện một cách đầy đủ thì nó sẽ đem lại những lợi ích sau.
Thứ nhất các thành viên trong doanh nghiệp có thể trao đổi thông tin cho nhau nhờ đó mà
họ sẽ có được những hiểu biết sâu sắc hơn về doanh nghiệp cũng như các hoạt động của
các bộ phận trong doanh nghiệp. Nhờ đó mà bản kế hoạch sẽ nhận được đầy đủ thông tin
từ mọi phía phản ánh chính xác tình hình bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Nhờ có sự tham gia của các thành viên trong doanh nghiệp mà bản kế hoạch sẽ không
còn là của riêng ban lãnh đạo doanh nghiệp nữa mà nó sẽ là sản phẩm của tất cả mọi
thành viên trong doanh nghiệp. Khi đây đã là sản phẩm của toàn thể doanh nghiệp thì các
thành viên sẽ cảm thấy mình có trách nhiệm với bản kế hoạch và cố gắng thực hiện một
cách tốt nhất bổn phận trách nhiệm của mình trong bản kế hoạch, từ đó sẽ giúp bản kế
hoạch được thực hiện có hiệu quả hơn.
Cho phép mọi người tham gia vào công tác kế hoạch hóa sẽ giúp cho mọi người phát huy
được tính chủ động sáng tạo của họ, tạo cho họ có động lực để lao động có hiệu quả hơn.
Để có thể thu hút được mọi người cùng tham gia xây dựng và thực hiện kế hoạch của
doanh nghiệp thì ban lãnh đạo của doanh nghiệp cần có những chính sách mô hình
khuyến khích mọi người tham gia, làm cho họ cảm thấy khi tham gia vào công tác kế
hoạch hóa họ có được lợi ích trong đó.
Nguyên tắc linh hoạt, do các doanh nghiệp hoạt đông trong nền kinh tế thị trường, với rất
nhiều biến động diễn ra từng ngày từng giờ. Cho nên công tác kế hoạch hóa không thể
cứng nhắc mà đòi hỏi phải luôn linh hoạt chủ động để có thể đối phó được với những
thay đổi bất ngờ của thị trường. Kế hoạch được xây dựng càng linh hoạt mềm dẻo thí sẽ
càng giảm thiểu được những rủi ro do thay đổi của thị trường gây ra. Nguyên tắc linh
hoạt được thể hiện thông qua các yếu tố sau.
Kế hoạch được xây dựng phải có nhiều phương án, mỗi phương án là một kịch bản mô
phỏng tương ứng với từng điều kiện thị trường và cách huy động nguồn lực cụ thể.
Trong xây dựng kế hoạch thì thì chúng ta không chỉ xây dựng kế hoạch chính mà còn
phải xây dựng những kế hoạch phụ, kế hoạch dự phòng và kế hoạch bổ sung, để trong
những tình huống bất khả kháng chúng ta có thể thay đổi kế hoạch hành động.
Các kế hoạch cần phải được xem xét một cách thường xuyên liên tục. Do trong các kế
hoạch đều đặt ra các mục tiêu cho tưong lai mà tương lại là một thứ xa vời khó nắm bắt
vì vây người lãnh đạo doanh nghiệp phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra để phát hiện
những thay đổi trong quá trình thực hiện, tìm ra những nguyên nhân của những phát sinh
đó để từ đó có những điều chỉnh và bước đi phù hợp để giải quyết những vấn đề phát sinh
đảm bảo cho kế hoạch đi đúng hướng. Nhờ có tính linh hoạt trong xây dựng và thực hiện
kế hoạch mà các nhà xây dựng và thực hiện kế hoạch không cảm thấy kế hoạch là sự
cứng nhắc mang tính rằng buộc và bị kế hoạch chi phối mà trái lại họ cảm thấy họ là
người chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch, họ thấy mình là
chủ thể kế hoạch chi phối kế hoạch chứ không phải bị kế hoạch chi phối.
1.4.Phân loại kế hoạch trong doanh nghiệp.
Trên những góc độ khác nhau thì hệ thống kế hoạch hóa của doanh nghiệp được chia
thành những bộ phận khác nhau.
1.4.1.Theo góc độ thời gian.
Theo góc độ thời gian là sự phân đoạn kế hoạch theo thời gian. Theo đó thì có các loại kế
hoạch sau.
Kế hoạch dài hạn, nó là kế hoạch bao trùm lên một khoảng thời gian dài thường là 10
năm. Trong bản kế hoạch này thường nêu lên những mục tiêu dài hạn của doanh nghiệp,
những định hướng của doanh nghiệp trong thời gian dài..
Kế hoạch trung hạn, nó là sự cụ thể hóa của kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn thường
kéo dài khoảng từ ba đến năm năm.
Kế hoạch ngắn hạn thường là kế hoạch hàng năm và kế hoạch tiến độ. Nó thường bao
gồm các phương án sử dụng các nguồn lực một cách cụ thể để đạt được mục tiêu trong kế
hoạch dài hạn và trung hạn.
Nhưng trong điều kiện ngày nay với những biến đổi nhanh chóng của thị trường và khoa
học công nghệ thì việc phân chia kế hoach theo thời gian chỉ còn mang tính tương đối.
Khi mà khoa học công nghệ thay đổi nhanh chóng, kĩ thuật sản xuất nhanh chóng trở lên
lạc hậu, chu kì sản xuất ngày càng ngắn, thì những kế hoạch từ ba đến năm năm cũng có
thể coi là dài. Các kế hoạch dài hạn, trung hạn và ngắn hạn phải có sự liên kết chặt chẽ
với nhau, không được loại bỏ lẫn nhau. Cần coi trọng vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa
kế hoạch ngắn hạn và kế hoạch dài hạn, giữa lợi ích cục bộ trước mắt và lợi ích lâu dài vì
nhiều khi quyết định trong ngắn hạn với lợi ích cục bộ trước mắt nếu không được xem
xét tới các lợi ích lâu dài trong kế hoạch dài hạn sẽ dẫn tới làm thất bại mục tiêu lâu dài
của doanh nghiệp.
1.4.2.Theo góc độ nội dung, tính chất hay cấp độ kế hoạch.
Theo góc độ nội dung, tính chất của kế hoạch có thể chia kế hoạch trong doanh nghiệp
thành các kế hoạch sau.
Kế hoạch chiến lược, nó thường được áp dụng với những doanh nghiệp lớn với quy mô
sản xuất lớn và nhiều lao động. Quy mô doanh nghiệp càng lớn thì nó làm cho công tác
quản lý doanh nghiệp trở lên càng phức tạp và khó khăn, đồng thời do tính chất cạnh
tranh của thị trường ngày càng trở lên khốc liệt, với sự thay đổi của khoa học công nghệ
ngày càng nhanh khiến cho doanh nghiệp rất khó trong việc xác định những mục tiêu
trong tương lai.
Kế hoạch chiến lược sẽ cho phép doanh nghiệp cải thiện và củng cố vị thế cạnh tranh trên
thị trường. Trong kế hoạch chiến lược là những mục tiêu định hướng cho doanh nghiệp
và những biện pháp để thực hiện mục tiêu đề ra. Việc xây dựng kế hoạch chiến lược
thường được xuất phát từ khả năng thực tế của doanh nghiệp, biểu hiện những phương án
ứng phó với những điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Kế hoạch chiến thuật (kế hoạch tác nghiệp) nó là công cụ để chuyển các định hướng, mục
tiêu của chiến lược thành các chương trình cụ thể cho từng bộ phận trong doanh nghiệp.
Việc chia nhỏ ra thành các chương trình sẽ giúp cho mục tiêu của doanh nghiệp được
thực hiện dễ dàng hơn với sự phối hợp của các bộ phận chức năng. Kế hoạch chiến thuật
được thể hiện trong từng bộ phận của doanh nghiệp như kế hoạch Marketing, kế hoạch
sản xuất, kế hoạch tài chính… Trong khi kế hoạch chiến lược tập trung vào xác định các
mục tiêu dài hạn, những định hướng của doanh nghiệp trong tương lai thì kế hoạch tác
nghiệp lại đi vào cụ thể từng bộ phận, lĩnh vực của doanh nghiệp. Kế hoạch chiến lược là
sự tham gia chủ yếu của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp còn kế hoạch chiến thuật là sự
tham gia đầy đủ của mọi thành viên trong doanh nghiệp.
2. Vai trò của kế hoạch hóa trong doanh nghiệp.
Kế hoạch hóa trong doanh nghiệp có vai trò quan trọng giúp cho doanh nghiệp hoạt động
một cách tuần tự hợp lý và chặt chẽ. Nhưng trong những cơ chế kinh tế khác nhau thì nó
thể hiện những vai trò khác nhau.
2.1. Vai trò trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung là một nền kinh tế dựa trên cơ sở chủ yếu là chế độ
công hữu xã hội chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và sự thống trị của nhà nước chuyên chính
vô sản. Theo đó thì kế hoạch hóa là mệnh lệnh trực tiếp phát ra từ trung ương tới các
thành phần trong nền kinh tế là các doanh nghiệp nhà nước vì vậy mà không có sự khác
biệt rõ rệt giữa kế hoạch của nền kinh tế và kế hoạch doanh nghiệp. Theo đó thì hình thức
giao dịch chủ yếu là sự giao nhận từ trung ương tới các đơn vị sản xuất. Các doanh
nghiệp không được tự chủ trong việc sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho
ai mà những câu hỏi đó đều do nhà nước quyết định và giao xuống cho các doanh nghiệp
từ nguyên liệu đầu vào với số lượng bao nhiêu, sản xuất bao nhiêu và phân phối như thế
nào. Vì vậy các chỉ tiêu kế hoạch trong doanh nghiệp cũng chính là các chỉ tiêu pháp lệnh
toàn diện, các kế hoạch tiến độ, kế hoạch điều độ sản xuất đều do cơ quan trung ương
quyết định và chi phối toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp. Chính vì vậy mà vai trò lớn
nhất của kế hoạch hóa trong thời kì này là tạo ra tiết kiệm và tích lũy lớn, thực hiện các
cân đối trong nền kinh tế nhờ đó tạo ra tăng trưởng nhanh. Hướng các nguồn lực vào
những mục tiêu ưu tiên.
Nhưng bên cạnh vai trò đó thì nó có những hạn chế sau.
Hạn chế tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, không gắn trách nhiệm sản xuất với
ngườilao động vì vây mà hiệu quả sản xuất thấp.
Do kế hoạch mang tính mệnh lệnh, triệt tiêu các qui luật kinh tế và cạnh tranh trong thị
trường nên nền kinh tế không có động lực phát triển, các doanh nghiệp không có khả
năng cạnh tranh.
Do thiếu tính sáng tạo trong sản xuất nên nó hạn chế sự tiến bộ của khoa học công nghệ.
Việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất không được tiến
hành.
Cũng do không áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nên công nghệ sản xuất trở lên
lạc hậu dẫn đến năng suất thấp hiệu quả kinh tế không cao.
2.2. Vai trò trong nền kinh tế thị trường.
Nền kinh tế thị trường với những biến đổi không ngừng diễn ra một cách liên tục mạnh
mẽ, trong đó môi trường cạnh tranh rất gay gắt, với sự tiến bộ của khoa học công nghệ
làm cho công nghệ sản xuất trở lên nhanh chóng bị lạc hậu. Từ đó nó làm cho công tác
quản lý doanh nghiệp trở lên khó khăn phức tạp, các doanh nghiệp luôn phải đương đầu
với nhưng rủi ro của thị trường do vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có chiến lược và kế
hoạch để xác định những định hướng và mục tiêu cho tương lai. Do đó trong doanh
nghiệp không thể thiếu được công tác kế hoạch hóa, nó có những vai trò sau.
Hướng sự chú ý của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu, tổ chức triển
khai các hoạt động để thực hiện các mục tiêu mà doanh nghiệp đề ra. Do doanh nghiệp
hoạt động trong một thị trường rất linh hoạt, luôn biến đổi vì vậy mà doanh nghiệp cần có
kế hoạch để có thể dự báo được những cơ hội hay thách thức mà thị trường đem lại để từ
đó xác định xem doanh nghiệp nên sản xuất cái gì, sản xuất bao nhiêu, sản xuất như thế
nào, sản xuất cho ai và khi nào thì sản xuất. Mặc dù thị trường luôn biến đổi khó nắm bắt
và dự báo. Những thay đổi bất ngờ của thị trường có thể làm phá sản những kế hoạch
được chuẩn bị công phu chu đáo nhưng điều đó không có nghĩa là doanh nghiệp không
xây dựng kế hoạch mà trái lại doanh nghiệp luôn phải xây dựng kế hoạch cho mình vì
nếu không xây dựng kế hoạch thì có nghĩa là doanh nghiệp đang để cho mình bị thả nổi
và bị thị trường chi phối điều đó sẽ làm cho doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro không tự chủ
được trong các hoạt động mà luôn phải bị động với những biến đổi của thị trường.
Công tác kế hoạch hóa là việc ứng phó với những thay đổi của thị trường. Vì lập kế
hoạch chính là công việc dự báo thị trường trong tương lai mà thị trường trong tương lai
thường không chắc chắn, khó nắm bắt, tương lai càng xa thì kết quả dự đoán càng kém
tin cậy. Cho dù ta có thể nắm bắt được tương lai với sự tin cậy cao thì ta vẫn không thể
thiếu được công tác kế hoạch để tìm ra những cách tốt nhất để đạt được mục tiêu, tiến
hành phân công bố trí phối hợp giữa các bộ phận để cùng ứng phó với những thách thức
từ phía thị trường. Do thị trường luôn biến đổi cho nên trong quá trình thực hiện kế hoạch
không thể thiếu được khâu kiểm tra giám sát đánh giá để phát hiện ra những phát sinh bất
ngờ tìm ra nguyên nhân của những phát sinh đó và có những phương án ứng phó.
Kế hoạch hóa với khả năng tác nghiệp trong doanh nghiệp. Kế hoạch doanh nghiệp đặt ra
mục tiêu tối thiểu hóa chi phí và hoạt động có hiệu quả và phù hợp nhất. Kế hoạch hóa sẽ
giúp cho doanh nghiệp tránh được những hoạt động nhỏ lẻ manh mún, các bộ phận trong
doanh nghiệp ngoài việc thực hiện chức năng của mình ra còn phải quan tâm đến mục
tiêu chung của doanh nghiệp đảm bảo mục tiêu chung được thực hiện theo đúng kế
hoạch. Muốn vậy thì giữa các kế hoạch bộ phận phải có sự tương tác với nhau, hỗ trợ cho
nhau cùng thực hiện để từ đó đảm bảo cho hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện
suôn sẻ. Với sự phân công lao động trong sản xuất ngày càng trở lên chi tiết thì nếu
không có một cơ chế phối hợp giữa các bộ phận sẽ dẫn đến tình trạng không thống nhất
trong sản xuất, làm chậm tiến độ sản xuất gây lãng phí nguồn lực trong sản xuất.
CHƯƠNG II
Quy trình và các bước lập kế hoạch trong doanh nghiệp
1.Quy trình lập kế hoạch trong doanh nghiệp.
Quy trình lập kế hoạch trong doanh nghiệp bao gồm các bước tuần tự, nối tiếp nhau để
xác định các mục tiêu trong tương lai, dự kiến các nguồn lực, phương tiện cần thiết và
cách thức triển khai các hoạt động để đạt được mục tiêu. Một trong những quy trình được
áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp tại những nước có nền kinh tế thị trường phát
triển là quy trình có tên là PDCA, theo đó thì quy trình soạn lập kế hoạch được chia thành
bốn bước.
Bước một là soạn lập kế hoạch đây là bước đầu tiên và cũng là bước rất quan trọng.
Trong bước này chúng ta phải tiến hành nghiên cứu điều tra thị trường, đánh giá nhu cầu
thị trường trong tương lai, phân tích điều kiện bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để
xác định những điểm mạnh, điểm yếu cơ hội và thách thức để từ đó xác định các mục tiêu
chiến lược phù hợp cho doanh nghiệp, xác định các nhiệm vụcần đạt được và cũng từ đó
xác định ngân sách cùng với những giải pháp, phương tiện cụ thể để thực hiện các mục
tiêu đề ra. Trong điều kiện thị trường hiện nay với nhiều biến động phức tạp, diễn ra
nhanh chóng chính vì vậy mà việc dự báo nhu cầu của thị trường trở lên rất khó khăn nó
làm cho các mục tiêu đặt ra trở lên gặp nhiều rủi ro và bất chắc hơn chính vì vậy mà
trong công tác soạnlập kế hoạch thì chúng ta không thể chỉ có đặt ra một phương án hành
đọng mà trái lại phải có nhiều phương án được đưa ra, mỗi phương án sẽ tương ứng với
từng điều kiện thị trường nhất định và các thức huy động nguồn lực, tổ chức triển khai
phù hợp sao cho đạt được mục tiêu cuối cùng.
Bước hai tổ chức thực hiện kế hoạch. Đây là một bước rất quan trọng trong quy trình kế
hoạch hóa của doanh nghiệp, nó là sự cụ thể hóa các mục tiêu từ ý tưởng, lý thuyết trên
giấy tờ thành những hành động cụ thể của doanh nghiệp và những kết quả đạt được trong
thực tế. Trong bước này doanh nghiệp phải xác định cho mình cách thức huy động các
nguồn lực như thế nào, sử dụng các nguồn lực đó sao cho có thiệu quả cao nhất. Nó cũng
là sự triển khai các biện pháp, phương tiện và các chính sách hợp lý để thực hiện các
mục tiêu đề ra. Trong khâu này còn thể hiện sự phối hợp hành động giữa các bộ phận
khác nhau trong doanh nghiệp, do mỗi bộ phận trong doanh nghiệp đều có kế hoạch cho
riên mình vì vậy nếu không được tổ chức, triển khai hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng các kế
hoạch của các bộ phận sẽ triệt tiêu, kìm hãm lẫn nhau khiến cho kế hoạch tổng thể của
doanh nghiệp bị ảnh hưởng do đó cần phải tổ chức thực hiện hợp lý, có sự liên lạc giữa
các bộ phận trong doanh nghiệp để cứ khi nào có sự thay đổi kế hoạch của bộ phận nào
sẽ được thông báo tới các bộ phận khác để đảm bảo không cản trở kế hoạch của bộ phận
khác. Để từ đó thực hiện tốt kế hoạch chung của doanh nghiệp nhằm đạt được mục tiêu
đề ra.
Bước ba tổ chức công tác kiểm tra, theo dõi và giám sát. Trong bước này ta tiến hành
nhiệm vụ kiểm tra, theo dõi quá trình triển khai tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm phát
hiện ra những thay đổi bất ngờ đến từ thị trường hay bên trong doanh nghiệp, tìm ra
nguyên nhân của những phát sinh đó, xem nguyên nhân này đến từ đâu, đến từ phía các
nhà lãnh đạo, quản lý hay là những phát sinh đột xuất trong quá trình triển khai kế hoạch.
Bước này phải được tiến hành thường xuyên liên tục để đảm bảo các mục tiêu đề ra được
thực hiện, các hoạt động được đi theo đúng hướng vì trong nền kinh tế thị trường hiện
nay điều kiện thị trường luôn biến đổi từ đó nó làm cho các mục tiêu đề ra lúc trước thì
có thể phù hợp nhưng sau này nó có thể sẽ khong còn phù hợp nữa. Trong bước này còn
phát hiện ra những trục trặc trong khâu tổ chức phối hợp thực hiện giữa các bộ phận.
Bước bốn điều chỉnh thực hiện kế hoạch. Từ những phân tích của bước ba về các hiện
tượng phát sinh không phù hợp với những mục tiêu của doanh nghiệp trong quá trình
thực hiện kế hoạch để từ đó có các quyết định bước đi phù hợp để điều chỉnh kế hoạch.
Các điều chỉnh này có thể là.
Thay đổi nội dung hình thức tổ chức, theo đó thì những mục tiêu đặt ra không bị thay đổi
mà chỉ thay đổi các khâu trong quá trình quản lý từ những phân tích về sự phối hợp giữa
các bộ phận trong quá trình thực hiện kế hoạch, thấy có những điều không hợp lý để từ
đó thay đổi cách thức quản lý, thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Thay đổi một số mục tiêu bộ phận trong hệ thống mục tiêu ban đầu. Nó chỉ áp dụng khi
không thể thay đổi tổ chức quản lý hay chi phí để thay đổi quản lý quá lớn không bảo
đảm hiệu quả kinh tế.
Quyết định chuyển hướng sản xuất kinh doanh trong những điều kiện bất khả kháng,
những hướng chuyển đổi này thường được nằm trong những phương án mà doanh nghiệp
đã xác định trong khâu soạn lập kế hoạch.
Qui trình kế hoạch là một quá trình yêu cầu có sự linh hoạt mềm dẻo cao, nó không thể là
sự tuần tự từng bước mà phải là sự đan xen, hỗ trợ lẫn nhau giữa các bước.
2.Các bước soạn lập kế hoạch.
Soạn lập kế hoạch là bước đầu tiên trong quy trình kế hoạch hóa, và cũng là bước quan
trọng nhất. Soạn lập kế hoạch yêu cầu phải có những hiểu biết sâu rộng về thị trường
cũng như tình hình của doanh nghiệp. Những mục tiêu được đặt ra trong bản kế hoạch
phải được dựa trên những căn cứ thực tế xác đáng, những đánh giá và phân tích sâu sắc.
Vì vậy việc soạn lập kế hoạch phải dược tuân theo các bước cụ thể sau đây.
Bước một phân tích môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để từ đó xác định
những cơ hội và thách thức. Việc phân tích môi trường này là rất quan trọng vì việc phân
tích môi trường bên trong doanh nghiệp sẽ cho chúng ta cái nhìn rõ hơn về khả năng của
doanh nghiệp( chúng ta đang đứng ở đâu) và khi đã hiểu rõ được thực lực của doanh
nghiệp rồi thì từ đó có cơ sở xác định cho mình những mục tiêu mà doanh nghiệp cần đạt
tới trong tương lai (chúng ta muốn đi đến đâu). Bên cạnh đó phân tích môi trường bên
ngoài doanh nghiệp sẽ cho ta thấy được những cơ hội, thách thức mà doanh nghiệp sẽ có
hay phải đương đầu trong tương lai để từ đó có những điều chỉnh mục tiêu cho phù hợp
tránh được những rủi ro không đáng có.
Bước hai thiết lập nhiệm vụ, mục tiêu cho toàn doanh nghiệp và cho các đơn vị cấp dưới.
Sau khi đã có những phân tích sâu sắc, toàn diện về những điểm mạnh, điểm yếu của
doanh nghiệp và những cơ hội thách thức mà thị trường đem lại thì chúng ta sẽ xây dựng
được cho mình những nhiệm vụ, mục tiêu chung cho toàn doanh nghiệp, từ đó phân cấp
các nhiệm vụ, mục tiêu xuống các đơn vị cấp dưới. Các mục tiêu này sẽ xác định kết quả
cần đạt được và những việc cần phải làm, những việc cần ưu tiên, nó được thể hiện bằng
một hệ thống các chiến lược, các chính sách, các thủ tục các quỹ và các chương trình.
Bước ba lập kế hoạch chiến lược. Sau khi đã có được các mục tiêu và phân tích môi
trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp để từ đó doanh nghiệp sẽ điều chỉnh các
nhiệm vụ, mục tiêu để từ đó bằng những phương pháp phân tích chiến lược và đưa ra các
phương án kế hoạch. Lập kế hoạch chiến lược ở đây chính là việc vẽ ra một hình ảnh của
doanh nghiệp trong tương lai mà doanh nghiệp mong muốn có được và những khả năng
khai thác nguồn lực để đạt được mục tiêu để ra. Kế hoạch chiến lược chính là việc xác
định những mục tiêu dài hạn cho doanh nghiệp, nó tuân theo các bước sau đây.
Xác định các phương án kế hoạch chiến lược, từ việc phân tích đưa ra các phương án kế
hoạch khác nhau để có thể đánh giá và lựa chọn những phương án nào là hợp lý nhất, khả
thi nhất sau đó tìm ra phương án triển vọng nhất là phương án khả chính.
Đánh giá các phương án lựa chọn. Sau khi đã tìm được những phương án khả thi nhất thì
cẩn phải tiến hành đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu của từng phương án trên cơ sở
định lượng các mục tiêu đề ra như lợi nhuận thu được, số vốn bỏ ra hay thời gian thu hồi
vốn…
Lựa chọn phương án cho kế hoạch chiến lược. Đây là khâu quyết định cho việc ra đời
bản kế hoạch chiến lược. Việc lựa chọn phương án nào làm phương án cho bản kế hoạch
chiến lược phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là yếu tố ưu tiên của
doanh nghiệp trong giai đoạn tới là gì. Việc lựa chọn phương án cho kế hoạch chiến lược
cũng cần phải có những phương án khác dự phòng cho phương án chính nhằm tránh
những rỉu ro bất ngờ trong quá trình thực hiện kế hoạch.
Bước bốn xác định các chương trình dự án. Các chương trình dự án chính là các phân hệ
của kế hoạch chiến lược. Các chương trình thường là các khâu, các mặt quan trọng trong
doanh nghiệp như chương trình hoàn thiện công nghệ… Còn các dự án lại quan tâm đến
một mặt hoạt động cụ thể như dựa án điều tra thăm dò thị trường… Các chương trình
thương có mối quan hệ với nhau, các chương trình phụ thuộc lẫn nhau trong quá trình
thực hiện. Dù là chương trình ở cấp độ lớn hay nhỏ thì nó thường bao gồm các nội dung
sau: Xác định các mục tiêu, nhiệm vụ các bước tiến hành các nguồn lực cần sử dụng và
cac yếu tố cần thiết để tiến hành chương trình. Còn các dự án thì được xác định chi tiết
hơn nó bao gồm cr các thông số về kỹ thuật, về tài chính tiến độ thực hiện, tổ chức huy
động và sử dụng nguồn lực.
Bước năm soạn lập hệ thống các kế hoạch chức năng (kế hoạch tác nghiệp) và ngân sách.
Sau khi ta đã có được kế hoạch chung cho toàn bộ doanh nghiệp với những mục tiêu và
nhiệm vụ cụ thể cho toàn doanh nghiệp rồi thì để có thể thực hiện kế hoạch chung đó
chúng ta cần phải xây dựng một hệ thống các kế hoạch chức năng cho từng bộ phận. Do
trong doanh nghiệp có nhiều bộ phận chức năng khác nhau vi vây ta phải xây dựng kế
hoạch cho từng bộ phận, cụ thể hóa kế hoạch chiến lược thành các kế hoạch bộ phận sẽ
giúp cho chúng ta dễ dàng điều hành thực hiện kế hoạch chiến lược. Hệ thống các kế
hoạch tác nghiệp bao gồm: Kế hoạch sản xuất và dự trữ, kế hoạch nhân sự, kế hoạch tài
chính, kế hoạch nghiên cứu và triển khai, kế hoạch Marketing…
Sau khi đã có được các kế hoạch tác nghiệp rồi thì phải lượng hóa chúng thành tiền tệ
như các sự toán về mua sắm các yếu tố sản xuất, phục vụ bán hàng, nhu cầu vốn… đó
được gọi là soạn lập ngân sách. Đây là một khâu rất quan trọng vì chỉ có lập được ngân
sách hợp lý và chính xác thì chúng ta mới có thể huy động nguồn lực hiệu quả tránh lãng
phí. Ngân sách chung của doanh nghiệp thể hiện toàn bộ doanh thu chi phí, lợi nhuận.
Bên cạnh việc lập ngân sách chung cho toàn doanh nghiệp thì các bộ phận chức năng
cũng cần phải lập ngân sách cho riêng bộ phận mình để đảm bảo tính chủ động cho từng
bộ phận trong việc huy động nguồn lực.
Việc lập ngân sách và các kế hoạch chức năng có mối quan hệ với nhau rất mật thiết, và
cần có sự thống nhất trong quá trình xây dựng nhằm đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả
giữa các chức năng trong doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì việc nắm bắt được nhu cầu của thị trường sẽ là
yếu tố quyết định đến việc thành lập kế hoacnh chiến lược cho doanh nghiệp cũng như
các kế hoạch chức năng khác. Do vậy kế hoạch Marketing có một vại trò hết sức quan
trọng, nó đứng ở vị trí trung tâm trong các kế hoạch chức năng, nó chi phối các kế hoạch
chức năng khác. Còn ngân sách sẽ là cầu nối kết hợp các kế hoạch chức năng với nhau.
Bước sáu đánh giá hiệu chỉnh các pha của kế hoạch. Đây có thể coi là khâu thẩm định
cuối cùng trước khi cho ra một bản kế hoạch hoàn chỉnh. Theo đó các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp cùng các chuyên gia tư vấn kiểm tra lại các nhiệm vụ, mục tiêu, các kế hoạch
chức năng, ngân sách và các chính sách giải pháp… việc chia kế hoạch thành các pha
theo tổ chức thực hiện sẽ giúp cho việc phê duyệt kế hoạch được hiệu quả hơn và giao tới
các bộ phận thực hiện.
3.So sánh kế hoạch hóa trong nền kinh tế thị trường và nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung.
3.1. Giống nhau.
Kế hoạch hóa dù trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay trong nền kinh tế thị
trường thì kế hoạch trong doanh nghiệp cũng có những điểm giống nhau.
Về chức năng, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay nền kinh tế thị trường thì kế
hoạch hóa trong doanh nghiệp cũng vẫn có chức năng ra quyết định. Vì bản thân bản kế
hoạch là một quyết định sản xuất kinh doanh nhất định mà ban lãnh đạo doanh nghiệp đặt
ra cho toàn doanh nghiệp, có là thứ mà ít khi thay đổi.
Thứ hai là chức năng quyền lực. Bản kế hoạch với những mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
được đặt ra dù nó được xây dựng trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hay nền kinh
tế thị trường thì nó vẫn thể hiện ý chí nguyện vọng của người chủ doanh nghiệp, nó thể
hiện quyền lực thống trị của người chủ doanh nghiệp tới các thành viên trong doanh
nghiệp, buộc các thành viên đó phải tuân theo sự chỉ đạo của người chủ doanh nghiệp. Ở
đây kế hoạch chính là quyết định của người chủ doanh nghiệp.
Về nguyên tắc xây dựng kế hoạch. Thì trong cả hai cơ chế kinh tế đều có chung nguyên
tắc thống nhất. Vì doanh nghiệp là một thực thể bao gồm nhiều bộ phận chức năng khác
nhau do đó nó cần phải có sự thống nhất từ trên xuống và sự thống nhất giữa các bộ phận
chức năng để đảm bảo cho doanh nghiệp không phải là một nhóm ô hợp. Sự thống nhất
sẽ giúp cho doanh nghiệp hoạt động được trơn tru hiệu quả.
Về vai trò, vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp quan trọng nhất là việc huy động và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Cho nên dù là trong nền kinh tế thị trường hay nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì mục tiêu sử dụng hiệu quả nhất mọi nguồn lực luôn là
một tiêu chí hàng đầu. Và chính nhờ có kế hoạch hợp lý mà sẽ giúp cho doanh nghiệp tận
dụng tối đa các nguồn lực.
3.2. Khác nhau.
Dù cho có những điểm giống nhau cơ bản nhưng kế hoạch hóa trong doanh nghiệp vẫn
có sự khác nhau giữa hai cơ chế kinh tế, điều đó có thể là do tính chất của hai nền kinh tế
khác nhau mà tạo ra sự khác biệt.
Về chức năng, thì trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì kế hoạch hóa trong doanh
nghiệp không có chức năng giao tiếp điều này là do các kế hoạch của doanh nghiệp đều
được tao ra bởi những người lãnh đạo doanh nghiệp, những mục tiêu nhiệm vụ trong bản
kế hoạch đều thể hiện ý chí chủ quan của người lãnh đạo doanh nghiệp mà không có sự
trao đổi, góp ý của những nhân viên bộ phận trong doanh nghiệp. Còn trong nền kinh tế
thị trường thì khác bản kế hoạch là sản phẩm chung của toàn doanh nghiệp, nó là sự đóng
góp ý kiến của các thành viên trong doanh nghiệp, nó thể hiện sự giao tiếp xuôi chiều từ
dưới lên và từ trên xuống đồng thời nó còn là sự trao đổi thông tin giữa các phòng ban
chức năng với nhau nhờ đó mà bản kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường mang tính khách quan và hợp lý hơn.
Về nguyên tắc xây dựng, thì trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nguyên tắc tham
gia không được coi trọng, trong nội dung bản kế hoạch gần như loại bỏ mọi sự tham gia
đóng góp ý kiến của các thành viên doanh nghiệp, bản kế hoạch chỉ đơn thuần là ý chí
chủ quan của người lãnh đạo do đó nó không tạo ra động lực sản xuất cho người lao
động trong doanh nghiệp, làm cho bản kế hoạch thiếu tính sáng tạo và khách quan.
Nhưng trong nền kinh tế thị trường thì khi lập kế hoạch các nhà quản lý doanh nghiệp rất
chú trọng sự tham gia vì nó vừa làm giàu thêm thông tin cho việc xây dựng kế hoạch, nó
tạo ra tâm lý hăng say cho người lao động vì khi được đóng góp ý kiến vào việc xây dựng
kế hoạch nó sẽlàm cho người lao động cảm thấy mình có ích, có trách nhiệm với bản kế
hoạch, từ đó tạo động lực cho họ trong sản xuất, và nhờ có sự tham gia mà làm cho bản
kế hoach thêm tính sáng tạo.
Tiếp theo là nguyên tắc linh hoạt, do trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì yếu tố
thị trường bị triệt tiêu hoàn toàn cho nên môi trường sản xuất trở lên “ổn định” một cách
giả tạo nó làm cho các bản kế hoạch được tạo ra mà không gặp phải bất cứ rủi ro nào từ
thị trường đem lại do vây mà những kế hoach trong thời kỳ này thường cứng nhắc mà ít
linh hoạt. Trái lại trong nền kinh tế thị trường với những biến đổi không ngừng, những
rủi ro luôn thường trực bên ngoài thị trường, lúc nào cũng có thể ập tới doanh nghiệp vì
vậy mà những kế hoạch của doanh nghiệp yêu cầu phải có tính mềm dẻo linh hoạt để có
thể ứng phó được với những biến đổi của thị trường. Tính linh hoạt ở đây được thể hiện ở
việc doanh nghiệp xây dựng nhiều phương án kế hoạch khác nhau.
Về vai trò, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì ngoài vai trò tạo ra tiết kiệm, tích
lũy lớn và sử dụng có hiệu quả nguồn lực ra thì hầu như không có vai trò tích cực nào
khác. Nhưng trong nền kinh tế thị trường thì kế hoạch trong doanh nghiệp ngoài vai trò
tạo ra hiệu quả trong sử dụng nguồn lực còn có các vai trò khác như tập trung sự chú ý
của các hoạt động trong doanh nghiệp vào các mục tiêu. Nó được thể hiện ở việc trong
xây dựng kế hoạch chiến lược thì doanh nghiệp luôn xác định cho mình những mục tiêu,
nhiệm vụ cần đạt tới trong tương lai và hướng các hoạt động của mình vào việc thực hiện
mục tiêu đó. Thứ hai là nó có vai trò ứng phó với những bất ổn của thị trường. Do thị
trường không ổn định và luôn biến đổi nên chúng ta luôn phải có những phương án đề
phòng ứng phó với những biến đổi đó. Xuất phát từ nguyên tắc linh hoạt mà trong quá
trình soạn lập kế hoạch doanh nghiệp luôn xây dựng cho mình nhiều phương án khác
nhau mô phỏng theo những điều kiện thị trường khác nhau để từ đó có thể chủ động ứng
phó với những điều kiện thị trường bất lợi. Ngoài ra nó còn là những thay đổi trong công
tác quản lý, triển khai thực hiện để có thể ứng phó với những thay đổi của thị trường. Đó
là trong nền kinh tế thị trường còn trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung do yếu tố thị
trường không có nên những biến đổi thị trường là không có do đó mà vai trò này là không
có tác dụng.
Thứ ba là vai trò tạo ra khả năng tác nghiệp trong doanh nghiệp. Trong nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung thì các phòng ban chức năng hầu như chỉ biết thực hiện chức năng
của mình mà không có sự tác nghiệp qua lại lẫn nhau. Còn trong nền kinh tế thị trường
- Xem thêm -