Thực trạng lao động phi chính thức ở tphcm
PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài:
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay,xu hướng phát triển. xã hội và toàn cầu hoá
xã hội thì nhu cầu kinh doanh, nhu cầu của con người ngày càng tăng, kéo theo đó là nhu
cầu việc làm cũng tăng nhanh, các đối tượng đang lao động thì nhiều, đa số đã và đang
làm những công việc ổn định như kinh doanh,dịch vụ,….tuy nhiên theo đó 1 số vấn đề
phát sinh về thời gian làm việc,nhu cầu việc làm,áp lực công việc….khiến cho 1 số lao
động phải làm những công việc phi chính thức.
Vì vậy,xu hướng làm việc phi chính thức bắt đầu phát triển và đánh vào đối tượng sinh
viên khá mạnh và phù hợp với thời gian của họ.thực tế, việc làm phi chính thức có 1 vai
trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam và đóng góp 20% GDP cho thu nhập quốc
dân, các công việc chủ yếu là kinh doanh nghiệp vụ chiếm khoảng 20%,sản xuất kinh
doanh phục vụ tết có thể ổn định và không ổn định, giải quyết việc làm cho người lao
động là giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề an sinh xã hội cho thành phố.
Đối với những người nghèo, bằng cấp hoặc không có bằng cấp, trình độ nghề nghiệp thấp
thì những công việc phi chính thức là một sự bắt đầu phù hợp, là cơ hội thiết thực để
nâng cao tay nghề, tạo thêm thu nhập….
Những công việc phi chính thức rât cần thiết vì nếu không có lực lượng lao động này thì
hoạt động kinh tế chắc chắn sẽ kém phát triển,xã hội luôn phát triển thì số người lao động
thất nghiệp cũng tăng cao sau những lần suy thoái kinh tế,công việc phi chính thức giúp
cho những người thất nghiệp có việc làm, tự sinh sống trong 1 khoảng thời gian trước khi
tìm 1 công việc mới.do đó lao động phi chính thức đã góp phần giải quyết số lao động
thừa trong nền kinh tế,tốc độ tăng trưởng kinh tế càng nhanh thì nhu cầu về lao động phi
chính thức là nhu cầu tất yếu và vô cùng cần thiết cho đất nước đang phát triển như nước
ta,tuy nhiên người lao động làm việc phi chính thức lại không được sự bảo vệ của xã
hội,pháp luật,luật lao động, không ký hợp đồng lao động…
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI:
Do xu hướng phát triển mạnh của các công ty, doanh nghiệp tư nhân nên những công việc
phi chính thức cũng phát triển mạnh mẽ, trong đó những công việc phi chính thức này
cũng có những thuận lợi và khó khăn cho nền kinh tế và cho đối tượng thực hiện những
công việc này.
Công việc phi chính thức là những công việc đòi hỏi không cần kinh nghiệm,không bằng
cấp, thời gian ngắn, người lao động có thể lựa chọn thời gian phù hợp( từ 2-4h/ngày,1
tuần hoặc 2 tuần hoặc vài ngày) những công việc này không bảo đảm về hợp đồng lao
động,lương và quyền đuổi hoặc nhận người lao động đều do chủ công việc quyết định,
lương theo ngày hoặc khi kết thúc công việc.
Những công việc này giúp cho sinh viên và đối tượng lao động trong lĩnh vực này có
thêm thu nhập và không bỏ phí thời gian rảnh, thế nhưng điều quan trọng là những công
việc này sẽ làm rối loạn thị trường lao động của xã hội…
Vì vậy việc tìm hiểu về thị trường lao động phi chính thức để phân tích những điểm có
lợi và có hại đến xã hội, thị trường lao động của TPHCM nói riêng và của Việt Nam nói
chung để tìm hướng giải quyết và đề ra những quy định nhằm ổn định xã hội và đem lại
những quyền lợi cần thiết cho những đối tượng lao động trong lĩnh vực này, có như vậy
thì thị trường mới ổn định và sẽ không làm ảnh hưởng đến lực lương lao động sau này.
3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu: Những lao động làm việc trong các DN phi chính
thức trong các DN chính thức nhưng công việc không được sự bảo vệ của xã
hội, luật lao động; người làm việc trong hộ gia đình (giúp việc nhà) và LĐ ăn
lương trong nhiều khu vực, kể cả khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn
định. Dễ nhận ra nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác, dịch
vụ đơn giản) hay tự nguyện làm công cho người khác mà không hề được ký hợp
đồng lao động.
Phạm vi nghiên cứu:khu vực Thành Phố Hồ Chí Minh
4.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:Phương pháp thống kê phân tích.
5.NGUỒN SỐ LIỆU:Dựa trên kết quả khảo sát của các chuyên gia phân tích và thống
kê thị trường lao động TP.HCM.
6.KẾT CẤU:
Chương I:Lý luận về thị trường lao động phi chính thức tại TP.Hồ Chí Minh
Chương II:Thực trạng về thị trường lao động phi chính thức tại TP. Hồ Chí Minh.
Chương III:Giải pháp cho thị trường lao động TP.Hồ Chí Minh.
PHẦN NỘI DUNG
1.1.Một số khái niệm:
Các loại hình việc làm phi chính thức thực tế đã tồn tại từ ngay lúc đô thị
được hình thành. Việc hình thành các đô thị thời cận đại, bắt đầu vào cuối thế kỷ
XIX ở Sài Gòn - Bến Nghé, đã đồng thời làm hình thành và tách biệt hai khu vực
kinh tế chính thức và phi chính thức. Sự thành lập những nhà máy, công sở, cơ
sở dịch vụ công như bệnh viện, trường học... ở Sài Gòn thời Pháp thuộc tuy số
lượng không nhiều nhưng cũng đủ để hình thành một tầng lớp xã hội “làm công
ăn lương” theo những quy định “hành chính” về giờ giấc và nhiều yếu tố khác.
Có thể coi đây là tầng lớp “thị dân” - cư dân sống ở đô thị và làm những nghề
nghiệp của đô thị, và do đó, có lối sống đô thị, có phần khác với những loại hình
lao động khác ở thành phố. Khu vực “kinh tế chính thức” này tập trung ở khu
trung tâm - Q.1, Q.3 hiện nay. Còn lại các khu vực khác của Sài Gòn, khu vực
Chợ Lớn là khu buôn bán dịch vụ, xóm lao động, vùng Gia Định chủ yếu là vùng
nông nghiệp, là khu vực kinh tế “phi chính thức”. Đặc điểm này xuyên suốt sự
phát triển của đô thị Sài Gòn.
1.1.1.Lao đông:
Họ gồm những lao động làm việc trong các doanh nghiệp phi chính thức
(quy mô sản xuất nhỏ hoặc không phù hợp với quy định pháp luật); trong các
doanh nghiệp chính thức nhưng công việc không được sự bảo vệ của xã hội,
luật lao động; người làm việc trong hộ gia đình và lao động ăn lương trong nhiều
khu vực, kể cả khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn định. Dễ nhận ra
nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác, dịch vụ đơn giản) hay
tự nguyện làm công cho người khác mà không được ký hợp đồng lao động. Tình
trạng này là một đặc trưng của đời sống đô thị.
1.1.2.Nguồn lao động:
Sài Gòn còn trải qua một thời gian dài thời kỳ chiến tranh. Khác với Hà
Nội (trong chiến tranh những người làm trong thành phần kinh tế chính thức làm nhà nước - đều tản cư, sơ tán về nông thôn, hòa bình mới trở về thành phố,
trong khi đó người làm kinh tế phi chính thức hầu như không bị bắt buộc đi khỏi
thành phố), Sài Gòn lại là nơi người dân nhiều vùng nông thôn từ miền Trung
đến Nam bộ đổ về. Hầu như không có nghề nghiệp, không có hoặc ít vốn, họ
làm những công việc như buôn bán nhỏ, hàng rong, dịch vụ, lao động thủ công,
chuyên chở bằng xe thô sơ... Địa bàn làm việc của họ là “ngoài trời” gồm lòng lề
đường, các công trường, chợ búa... Sau giải phóng một bộ phận người dân trở
về quê quán, một bộ phận khác đi vùng kinh tế mới, khu vực việc làm phi chính
thức thu hẹp. Cấu trúc kinh tế của thành phố chỉ còn “một thành phần” nên nhiều
thành phần kinh tế, nhiều loại hình việc làm “ngoài quốc doanh” trở thành “phi
chính thức”. Khi kinh tế lâm vào thời kỳ khó khăn “trước đổi mới” thì thành phố
lại như một “chỗ trũng” có thể dung nạp những dòng người “chảy” về đây kiếm
sống. Khu vực kinh tế phi chính thức lại mở rộng thêm.
.
TP.HCM đã thu hút hàng triệu người từ các tỉnh thành khác đến lập
nghiệp và mưu sinh, đáng chú ý nhất là hình thức “kinh tế vỉa hè” và lao động
trong các KCN, KCX. Tỷ lệ đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc gia cho thấy
nền kinh tế này đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra việc làm và tăng
phúc lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dung.
1.1.3.Hoạt động của người lao động phi chính thức:
. TP.HCM đã thu hút hàng triệu người từ các tỉnh thành khác đến lập
nghiệp và mưu sinh, đáng chú ý nhất là hình thức “kinh tế vỉa hè” và lao động
trong các KCN, KCX. Tỷ lệ đóng góp đáng kể vào thu nhập quốc gia cho thấy
nền kinh tế này đã thực hiện được chức năng thiết yếu là tạo ra việc làm và tăng
phúc lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dung
“Văn hóa mặt tiền” đã trở thành “đặc trưng” mới của đô thị Việt Nam, từ thành
phố lớn đến thị trấn hẻo lánh. Có lẽ không có nước nào mà dân cư lại có thói
quen, nhu cầu và “đua nhau” ra sống cạnh mặt đường lớn, nhỏ như ở nước ta!
Trong khi đó ở các nước thì mặt tiền vỉa hè là không gian công cộng, cần tuân
thủ những quy định chung của thành phố, không được tùy tiện sử dụng theo ý
muốn cá nhân. Thói quen này dẫn đến nhiều hệ lụy: Thứ nhất, quy hoạch kiến
trúc mặt tiền các con đường trở nên khó khăn, thậm chí kiến trúc xấu, không
đồng bộ dù tốn kém rất nhiều kinh phí để xây dựng hay cải tạo đường xá; Thứ
hai, trên những đường cao tốc lại không thể có tốc độ cao vì rất nguy hiểm khi
dân cư trú ngay hai bên đường, làm giảm hiệu quả xây dựng; Thứ ba, buôn bán
vỉa hè, lòng đường, mặt tiền đường phố người sử dụng phương tiện giao thông
cá nhân có mối quan hệ mật thiết của “cung và cầu”, xe cá nhân phát triển thì
còn nhu cầu mua bán vỉa hè lòng đường. Tình trạng tắc đường kẹt xe lại có
thêm một nguyên nhân
. Trong khi chờ đợi có được những yếu tố giao thông mang tính chất “giao thông
đô thị”, bằng cách nào hạn chế mặt tiêu cực của “kinh tế vỉa hè” đến nếp sống
văn minh đô thị? Nên chăng cần tổ chức những con đường, khu vực theo ô phố
- đặc thù quy hoạch đô thị, để duy trì và phát triển kinh tế vỉa hè, vừa giải quyết
nhu cầu sinh sống của người bán, người mua, vừa đảm bảo mỹ quan và trật tự
đô thị, vừa bảo tồn được nét độc đáo, cần thiết giữ gìn và có thể khai thác nó
như một di sản văn hóa phi vật thể. “Văn minh đô thị” sẽ có bộ mặt mới. Trong
một chừng mực nào đó, việc hạn chế và loại bỏ các phương tiện mưu sinh thô
sơ của hàng ngàn hộ gia đình, cũng cần có tính toán thấu đáo để không đẩy
người dân vào chỗ khó khăn.
Một khu vực việc làm phi chính thức nữa ở TP.HCM có đông người lao
động là tại các khu CN, KCX. Tại đây người lao động hầu hết là thanh niên từ
các vùng nông thôn, trình độ học vấn không cao nên tham gia làm việc với tính
chất lao động giản đơn. Do đó thu nhập thấp, bấp bênh, dễ mất việc, cũng dễ
thay đổi công việc, cuộc sống không ổn định... Nếu các KCN, KCX không tổ
chức đào tạo nghề cho công nhân thì tình trạng này sẽ diễn ra lâu dài, khu vực
“việc làm không chính thức” này sẽ không thu hẹp mà có nguy cơ ngày càng
phát triển.
1.1.4.Thị trường lao động lệch pha,vì sao?:
Cơn sốt khan hiếm lao động, thiếu hụt nguồn tuyển, nhất là lao động phổ
thông đang lan tỏa ở khắp các địa phương. Trong khi đó nghịch lý đang tồn tại là
tỷ lệ lao động thất nghiệp từ thành thị đến nông thôn vẫn còn cao và người cần
việc còn rất lớn. Đâu là nguyên nhân khiến cho thị trường lao động nước ta lệch
pha,diễn biến phức tạp.
Để có nguồn lao động, nhiều nhà tuyển dụng, các trung tâm dịch vụ giới
thiệu việc làm phải đích thân đến tận các địa phương, vùng sâu, vùng xa để
chiêu mộ lao động. Thế nhưng, dù mời chào và chiêu dụ lao động với mức
lương tạm gọi là cao (trên 2 triệu đồng/tháng, kể cả bao ăn ở…), người lao động
vẫn làm ngơ.
Giải thích điều này, bà Ngọc Liên, Phó Giám đốc Trung tâm Giới thiệu việc làm
HEPZA TPHCM cho biết: “Lý do khiến lao động thất nghiệp ở các tỉnh ĐBSCL từ
chối cơ hội việc làm ở TP là do ở nơi họ cư trú, nhiều nhà máy, khu KCN mới đã
mở ra đang cần tuyển người với mức lương cũng tương đương ở TPHCM”.
Bà Nguyễn Thị Hải Vân, Giám đốc Trung tâm Dự báo quốc gia và thông tin thị
trường lao động nhận định rằng dòng chảy lao động nhập cư đang đổi chiều và
lực hút - đẩy lao động đang có xu hướng xích lại gần nhau. Trước đây do thiếu
việc làm, thu nhập ở các đô thị cao hơn nên dòng chảy lao động nhập cư chỉ có
một hướng duy nhất đổ dồn về các TP lớn. Còn bây giờ ở phía Bắc, miền Trung,
người lao động có thể tìm được việc làm tại chỗ hoặc các khu vực lân cận mà
không cần xa nhà do nhiều KCN mới mọc ra, nhiều nhà máy, xí nghiệp đã khởi
động đi vào hoạt động.
Mặt khác, nhiều chuyên gia về lao động còn lý giải rằng giá nhân lực - mặt bằng
thu nhập bình quân trên thị trường lao động ngày càng sát với giá trị lao động
nên lao động trẻ không còn mặn mà làm công nhân ở nhà máy. Họ quay về với
các ngành nghề truyền thống, làm dịch vụ hoặc tham gia khu vực kinh tế phi
chính thức như buôn bán nhỏ, giúp việc nhà, làm hàng gia công…với thu nhập
khoảng 80.000 - 120.000 đồng/ngày và không bị ràng buộc bởi các yêu cầu về
trình độ, kỷ luật, tác phong công nghiệp, thời gian tăng ca.
Đó là chưa kể lực hút và cơ hội việc làm đang mở rộng từ các khu vực dịch vụ,
thương mại đa dạng, trong đó DN nhà nước cũng là kênh thu hút lao động do
thu nhập đã được cải thiện - cao hơn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Rõ ràng khi lực hút và lực đẩy của thị trường lao động đã tương tác theo hướng
sát với thực tế thì cơ hội việc làm sẽ nhiều hơn và người tìm việc cũng dễ từ bỏ
chỗ làm việc cũ không hấp dẫn để tìm đến nơi có điều kiện, thu nhập tốt hơn. Đó
chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến biến động thiếu hụt lao động phổ thông
đang diễn ra ở TPHCM nói riêng và các vùng kinh tế trọng điểm khác.
Mặt khác, khảo sát nhiều lao động đã từng làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp
và KCX-KCN ở TPHCM, nay chuyển nghề hoặc hồi hương về quê ở các tỉnh
miền Trung, phía Bắc, chúng tôi nhận được câu trả lời khá giống nhau: Vật giá
leo thang liên tục, nếu trụ lại với cuộc sống ở các TP lớn thì không nổi. Với mức
lương bình quân, dao động khoảng 2 - 2,5 triệu đồng/người/tháng, phần lớn
công nhân lao động nhập cư không thể trang trải nổi tiền thuê nhà, điện nước
lẫn các khoản chi phí sinh hoạt, tiêu dùng hàng ngày.
Nhiều người làm bài toán so sánh: 5 năm về trước, nhận mức lương khoảng 1,5
- 2 triệu đồng/tháng, công nhân có thể sống đủ hoặc có chút tích lũy. Còn bây
giờ, giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng, nhất là thực phẩm tăng gấp 2 - 3 lần nên
dù thu nhập có tăng hơn những năm trước khoảng 1 triệu đồng/tháng cũng
không thể trụ lại ở TP. Do phải đối mặt với áp lực giá cả tăng nhanh, trong khi
tiền lương, thu nhập tăng chậm, cộng thêm áp lực tăng ca - sức khỏe suy giảm,
nhiều lao động nữ đã chọn đường quay về quê. Tuy nhiên, khi dòng lao động
nhập cư có xu hướng quay ngược về nông thôn thì áp lực giải quyết vấn đề việc
làm ở các địa phương nghèo cũng nặng thêm.
1.1.5.Vấn đề sử dụng lao động:
Phải thừa nhận chính yếu tố Việt Nam (VN) có nguồn vốn nhân lực trẻ dồi
dào, giá rẻ đã hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều năm qua, VN là một trong
những quốc gia ở khu vực thu hút nguồn vốn FDI cao nhất. Thế nhưng, đằng
sau những con số tăng trưởng nhanh và thu hút dự án FDI này, chúng ta chưa
có đợt khảo sát, đánh giá khoa học về bức tranh đời sống, việc làm của hàng
trăm ngàn lao động ở các KCX-KCN trong cả nước. Sau những năm tháng làm
việc trong môi trường công nghiệp - cường độ làm việc cao, tăng ca liên tục,
người lao động được cái gì và mất cái gì? Vì sao ở các KCX-KCN số lao động
không nghề chiếm phần lớn?
Nhìn vào thực tế TPHCM - nơi thu hút vốn FDI cao nhất, hiệu quả nhất, chúng ta
rút ra điều gì? Mổ xẻ những vấn đề liên quan đến lao động giá rẻ - lợi thế thu hút
dòng vốn FDI vào VN, nhiều chuyên gia lao động cảnh báo rằng: Cái giá mà
chúng ta phải trả cho việc sử dụng lao động rẻ rất đáng báo động. Vì chạy theo
lợi nhuận, tận dụng lao động giá rẻ ở VN nên nhiều chủ sử dụng lao động trong
nước và ở khu vực FDI chỉ biết vắt kiệt sức nhân công mà thiếu chăm lo, giữ
chân họ lâu dài bằng chế độ đãi ngộ hợp lý. Không chỉ có lỗi của nhà đầu tư.
Xung quanh chuyện thu hút đầu tư bằng mọi giá, TPHCM cũng như các địa
phương lân cận chỉ chú trọng đến khâu duyệt dự án, ưu ái với những dự án có
số vốn đầu tư lớn mà xem nhẹ việc chuẩn bị nguồn nhân lực, quỹ đất xây nhà ở,
nhà lưu trú cho công nhân…
Lật lại vấn đề - cách đây khoảng 6 năm, khi dòng vốn FDI chảy vào chưa cao và
để thu hút các dự án với số vốn lớn, lãnh đạo một số địa phương đã hứa quan
tâm giải quyết các vấn đề bức xúc của nhà đầu tư như thiếu nhân công lao
động, tạo quỹ đất để xây nhà lưu trú, nhà trẻ…Thế nhưng, đến nay, sau thâm
niên 5 - 10 năm lao động cật lực, bán rẻ sức lao động ở các KCX-KCN, đội ngũ
công nhân lao động được gì? Thực tế nhức nhối là chỗ ăn, chỗ ở nhếch nhác và
hành trang tích lũy về tay nghề cũng chẳng có gì đáng giá! Do các nhà đầu tư
chỉ cần lao động phổ thông - không cần nghề để làm việc trên dây chuyền sản
xuất đòi hỏi thao tác đơn giản nên hầu hết người lao động ở các KCX-KCN
không có điều kiện nâng cao tay nghề.
Vì thế, sau khi rời khỏi dây chuyền sản xuất, người lao động vẫn hoàn không
nghề, tay trắng. Kết quả khảo sát của Ban quản lý các KCX-KCN TPHCM –
HEPZA về thực trạng công nghệ của hơn 400 DN đang hoạt động trên địa bàn
TP cho thấy chỉ có 1% DN đạt yêu cầu công nghệ tiên tiến; 51% lạc hậu, số còn
lại đạt trung bình khá. Nhìn vào thực trạng này, chúng ta có thể thấy mục tiêu
chuyển hóa lao động từ không nghề ở các KCX-KCN thành lực lượng có nghề,
kỹ năng, đáp ứng mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa xem ra khó hiện thực .
CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG LAO ĐỘNG PHI CHÍNH THỨC TẠI TP.
HCM
XU HƯỚNG VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT QUẢN LÝ
2.1.Thống kê tổng quát về các khu vực và Việt Nam nói chung:
Khu vực phi chính thức, hay còn gọi là “khu vực phi tập trung”, “khu
vực phi
hình thức”… có một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam,
đóng góp 20% cho GDP của Việt Nam (số liệu thống kê năm 2004).
Tại thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM),
khu vực này chiếm một tỷ lệ việc làm là 41%, nơi mà tưởng chừng như
khó có thể cạnh tranh được với các hoạt động kinh tế chính thức của
Nhà nước và hoạt động kinh tế hợp tác với nước ngoài). Lực lượng lao
động phi chính thức ở TP.HCM chiếm 32,9%, đây là tỷ lệ cao so với các
nơi khác (ví dụ như: ở Hà Nội, lao động phi chính thức chiếm 29,9%),
1/3 số hộ gia đình TP.HCM có thu nhập từ khu vực phi chính thức. Quy
mô sản xuất của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phi chính
thức ở TP.HCM rất nhỏ, chủ yếu là kinh doanh - dịch vụ, chiếm khoảng
20%. Theo Cục thống kê TP.HCM, mỗi năm do nhu cầu tăng cường sản
xuất kinh doanh phục vụ Tết, TP.HCM có trên 40% số chỗ việc làm mới
mang tính chất không ổn định, nơi đây có thể giải quyết việc làm cho
lao động khu vực phi chính thức. Thành phố cũng có khoảng 1.150 trẻ
đường phố, trẻ lao động kiếm sống1…. Như vậy, khu vực phi chính thức
có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động và là giải pháp quan trọng
giúp giảm bớt gánh nặng an sinh - xã hội cho thành phố khi số lao
động bị buộc phải thôi việc tăng lên do tác động của khủng hoảng kinh
tế trong thời gian vừa qua.
Khái niệm khu vực phi chính thức (informal sector) đã được thế giới đề
cập nhiều
đến từ những năm 90 của thế kỷ XX. Khu vực phi chính thức là “một
đơn vị bao gồm các đơn vị sản xuất không có tư cách pháp nhân,
không chịu điều chỉnh của Luật doanh nghiệp và không có giấy phép
kinh doanh”2, như hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa
không đăng ký, các cá nhân buôn bán nhỏ lẻ.... Khu vực phi chính
thức bao gồm: các dịch vụ, sản xuất không có tư cách pháp nhân
(không có đăng ký, hoặc quy mô hoạt động không đủ đáp ứng với một
mức độ nhất định). Người lao động trong khu vực phi chính thức không
được đăng ký, không có hợp đồng, không được bảo hiểm xã hội….
2.2. Vai trò của khu vực kinh tế phi chính thức
Đóng góp cho thu nhập quốc gia, tạo ra việc làm và tăng phúc lợi cho
xã hội
Theo các chuyên gia xã hội học, tại các nước châu Á, trong đó có Việt
Nam, thu
nhập từ khu vực việc làm phi chính thức chiếm 30 - 60% 3 tổng thu
nhập quốc gia chứng tỏ khu vực kinh tế này đã thực hiện được chức
năng thiết yếu là tạo ra việc làm và tăng phúc lợi cho nhà sản xuất và
người tiêu dùng. Khu vực phi chính thức sử dụng nguồn lực vốn cố
định một cách hiệu quả thông qua việc kết hợp nguồn vốn thấp với số
lượng người lao động khá đông. Đồng thời, kinh tế phi chính thức tiết
kiệm nhu cầu vốn lưu động bằng cách chia khâu sản xuất và tiêu thụ
hàng hóa thành những quy mô nhỏ, dễ quản lý. Mặt khác, đối với
những người nghèo, dân nhập cư, không bằng cấp, không hộ khẩu,
trình độ nghề nghiệp thấp… thì việc được chấp nhận vào làm trong các
doanh nghiệp phi chính thức là sự bắt đầu phù hợp, là cơ hội thiết thực
để người lao động có thể
tạo thu nhập, học tập, nâng cao tay nghề.
Khu vực phi chính thức góp phần giải quyết việc làm cho số lao động bị
mất việc
do tác động của khủng hoảng kinh tế, giúp ổn định an sinh - xã hội.
Điều này có ý nghĩa rất lớn cho người lao động, là giải pháp quan trọng
giúp giảm bớt gánh nặng cho xã hội khi số lao động buộc phải thôi việc
tăng lên. Ở thành thị, những người lao động bị mất việc, bị dạt ra từ
khu vực kinh tế chính thức, kể cả khu vực có vốn đầu tư nước ngoài,
sẽ được giải quyết công ăn việc làm tạm thời ở khu vực phi chính thức.
Trong 5 tháng đầu năm 2009, trên địa bàn TP.HCM có tổng số lao
động mất việc làm là 21.844 người và 16.929 lao động thiếu việc làm.
Bảng 1. Tổng số lao động bị mất việc làm, thiếu việc làm ở TP.HCM (5 tháng
đầu năm 2009)
Tổng số lao động mất việc làm Thiếu việc làm
Trong KCX - KCN
6.705 11.341
Ngoài KCX - KCN
15.139 5.588
Tổng cộng
21.844 16.929
- Mạng lưới phân phối luân chuyển hàng hóa nhanh chóng, linh hoạt,
hiệu quả
Nguồn cung ứng rau quả, thực phẩm, hàng hóa nhanh - rẻ - tiện lợi từ
các gánh
hàng rong, trong các chợ cóc và trên các vỉa hè luôn thu hút những
người nội trợ gia đình,
phụ nữ và trẻ em. Trong lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, phân phối hàng
hóa, khu vực kinh tế
“phi chính thức” rất quan trọng và cần thiết vì nếu không có lực lượng
lao động này, hoạt
động kinh tế chắc chắn sẽ bị tê liệt.
Ở Việt Nam hệ thống giao thông công cộng chưa thật sự phát triển,
nhiều người
dân, đặc biệt là những người nội trợ, sẽ gặp nhiều khó khăn nếu hằng
ngày cần phải đến
các trung tâm mua sắm. Đối với người mua, hàng rong là nguồn hàng
hoá, thực phẩm giá
rẻ. Nguồn hàng hoá, thực phẩm này có chất lượng tuy kém hơn các
nguồn ở các cửa hàng
và siêu thị nhưng lại phù hợp với túi tiền của những người nghèo.
Thiếu hàng rong, ngân
quỹ của nhiều gia đình nghèo sẽ bị thiếu hụt nghiêm trọng, ảnh hưởng
tới cuộc sống.
Điều này cho thấy chợ cóc, hàng rong, buôn bán vỉa hè sẽ vẫn còn tồn
tại, vì hầu hết các
hộ gia đình ở thành phố, người nội trợ, số đông phụ nữ vẫn có nhu cầu
mua bán tại đây.
- Chuyển đổi việc làm từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp
Khu vực phi chính thức có vai trò to lớn không chỉ ở thành thị, mà cả
vùng nông
thôn Việt Nam. Sự hình thành khu vực kinh tế phi chính thức gắn liền
với quá trình đô thị
hóa nhanh chóng ở các thành phố lớn của Việt Nam. Hiện tượng này
cùng với sự phát
triển ồ ạt thiếu quy hoạch các khu công nghiệp, nhà máy, khu đô thị
và sân golf tại nhiều
địa phương đã lấy đi một diện tích khá lớn đất đai nông nghiệp, cộng
hưởng với chính
sách chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn chưa tốt, đã và đang trực
tiếp tác động đến
cuộc sống hàng chục triệu nông dân khắp cả nước. Khu vực phi chính
thức đóng vai trò
quan trọng để chuyển đổi việc làm từ khu vực nông nghiệp sang công
nghiệp và góp phần
giải quyết số lao động dư thừa trong kinh tế nông thôn khi tốc độ công
nghiệp hóa diễn ra
nhanh và lan rộng tới các vùng quê. Nó tạo ra rất nhiều công ăn việc
làm (hơn một nửa số
công ăn việc làm phi nông nghiệp, gần một phần ba của tổng số công
ăn việc làm trong
cả nước). Kết quả của cuộc điều tra cho thấy, những địa phương có
nền kinh tế kém thì
khu vực phi chính thức cũng kém phát triển.
Với những đóng góp của lực lượng lao động phi chính thức đối với xã
hội và nền
kinh tế hiện nay, việc thừa nhận vị trí, vai trò xã hội và tạo điều kiện
cho họ thụ hưởng
các dịch vụ công ích là điều không thể phủ nhận
Thực trạng lao động phi chính thức tại TP.HCM
Lực lượng lao động TP.HCM tham gia vào nền kinh tế phi chính thức
chiếm một
số lượng khá đông. Thực tế thị trường lao động TP.HCM cho thấy phần
lớn những việc làm mới được tạo ra từ khu vực kinh tế phi chính thức
(ví dụ như: loại dịch vụ đóng vai cô dâu chú rể, họ hàng nhà trai, nhà
gái...). Họ gồm những lao động làm việc trong các doanh nghiệp phi
chính thức (quy mô sản xuất nhỏ hoặc không phù hợp với quy định
pháp luật); trong các doanh nghiệp chính thức nhưng công việc không
được sự bảo vệ của xã hội, luật lao động; người làm việc trong hộ gia
đình (giúp việc nhà) và lao động ăn lương trong nhiều khu vực, kể cả
khu vực Nhà nước, nhưng công việc không ổn định.
Dễ nhận ra nhất là những người làm việc tự do (buôn bán, khuân vác,
dịch vụ đơn giản) hay tự nguyện làm công cho người khác mà không
hề được ký hợp đồng lao động.
Những nơi có nền kinh tế phát triển càng cao, thì hoạt động của các
doanh nghiệp cũng như lao động phi chính thức càng đông. Ở TP.HCM,
lao động phi chính thức chiếm 32,9%, đây là tỷ lệ cao so với các nơi
khác (ví dụ như: ở Hà Nội, lao động phi chính thức chiếm 29,9%) và
1/3 số hộ gia đình có thu nhập từ khu vực phi chính thức. Quy mô sản
xuất của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phi chính thức
thường rất nhỏ, chủ yếu là kinh doanh, dịch vụ (chiếm 20%).
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu về lao động nhập cư TP.HCM,
lao động ở khu vực phi chính thức có cuộc sống khá bấp bênh do
không có hợp đồng (chủ yếu là hợp đồng bằng miệng), điều kiện lao
động không đảm bảo, lương thấp, trình độ văn hóa thấp…. Đây là khu
vực gồm những cá nhân, các hộ gia đình có hoạt động kinh doanh
nhưng chưa hoặc không đăng ký kinh doanh với chính quyền. Họ gồm
những người hành nghề tự do, các hộ kinh doanh - sản xuất - dịch vụ
cá thể, những người làm phụ hồ, khuân vác, hoặc có thể là trẻ đánh
giày, người bán báo, người bán hàng rong, lái xe ôm, người môi giới,
lao động phổ thông nước ngoài vào Việt Nam..... Phần lớn người lao
động phi chính thức tự kinh doanh, một số có thuê người làm.
Lao động khu vực phi chính thức TP.HCM chủ yếu là người nhập cư,
phần lớn
trong số họ đến từ các tỉnh miền Trung, kiếm tiền gửi về quê phụ giúp
gia đình. Đối với những người đã có gia đình, mục đích của họ là tích
lũy tiền để đầu tư cho con cái học hành, chấp nhận cuộc sống cơ cực
tại TP.HCM để đổi đời cho con cái. Họ tận dụng mọi thời gian để kiếm
sống, làm bất cứ công việc gì miễn là không vi phạm pháp luật để có
thêm thu nhập. Để tiết kiệm chi phí điều kiện sống của họ là những
căn nhà trọ chật hẹp, thiếu tiện nghi....
Số lượng người lao động TP.HCM tham gia khu vực phi chính thức tăng
lên khá
nhanh từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009. Các cuộc phỏng vấn
nhóm trong một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển về lao
động phi chính thức, số lượng người tham gia hành nghề xe ôm và bán
hàng rong TP.HCM đã tăng lên do một số người bị mất việc tại các
công ty và không kiếm được việc làm nên chọn nghề chạy xe ôm hoặc
bán hàng rong để kiếm sống. Mặt khác, vốn đầu tư cho nghề xe ôm
hoặc bán hàng rong khá thấp nên người lao động có thể dễ dàng hành
nghề. Ví dụ: nghề xe ôm đầu tư khoảng 3 – 4 triệu đồng; hàng rong
đầu tư khoảng 300.000 – 800.000 đồng. Mặt khác, điều kiện tham gia
các nghề này cũng khá thoáng, bất kỳ ai cũng có thể đặt một gánh
hàng rong cạnh cổng trường, trước công ty hoặc chỗ trống nào đó trên
vỉa hè; đối với nghề xe ôm, chỉ cần kiếm một nơi đỗ xe là có thể hành
nghề được.
Do lượng lao động phi chính thức tăng lên nhưng nhu cầu về những
dịch vụ này lại không tăng, nên lao động phi chính thức cũng gặp phải
sự cạnh tranh gay gắt, việc kiếm sống khó khăn hơn. Thu nhập của lao
động phi chính thức bị sụt giảm vì tình hình
kinh tế khó khăn. Mặt khác, do thu nhập của người tiêu dùng giảm nên
họ tiết kiệm, ít sử dụng dịch vụ xe ôm hoặc ăn uống hàng rong hơn.
Bảng 2. Thu nhập bình quân của lao động phi chính thức một số nghề
Loại việc
Thu nhập bình quân
Năm 2008-2009
Năm 2006-2008
Xe ôm
50.000 đồng/ngày
80.000 đồng/ngày
Thợ xây dựng
3.000.000 – 4.000.000
đ/tháng
70.000 đồng/ngày
5.000.000 –
6.000.000 đ/tháng
90.000 đồng/ngày
Bán hàng
rong
Do thu nhập giảm, người lao động phải tiết kiệm và dành tiền gửi về
cho gia đình.
Theo thông tin của những nhóm lao động phi chính thức cung cấp, một
phòng trọ ở quận 3 trước năm 2008 có giá là 800.000 đồng/1 phòng/3
người, nhưng hiện nay là 1.500.000 đồng/1 phòng/3 người; chi phí ăn
uống cũng tăng, trước đây 1 phần ăn chỉ có 5.000 đồng nhưng hiện
nay là 7.000 đồng; chi phí điện nước cũng tăng, hiện nay họ phải trả
tiền điện 3.000 đồng/Kwh.
Nguyên nhân chính buộc người lao động phải tham gia khu vực kinh tế
“phi chính thức” là những hạn chế về năng lực, kiến thức và vật chất
của người lao động. Nông dân bị mất đất canh tác phải ra thành phố
kiếm sống. Do nghèo đói, thất học, con người đành phải gia nhập vào
thị trường lao động bị cho là hiếm có cơ hội học hỏi, hòa nhập với sự
phát triển xã hội. Ở trong khu vực kinh tế này, mức thu nhập của
người lao động rất thấp, rủi ro tai nạn lao động và sẽ không được đền
bù nếu bị thiệt hại…. Vì nghèo nên nhiều người phải tham gia khu vực
kinh tế phi chính thức và sau một thời gian làm việc ở khu vực này,
kiếp nghèo vẫn đeo đẳng họ.
Khu vực kinh tế phi chính thức ở Việt Nam, tuy chưa được thừa nhận
nhưng đã
tạo ra 56% số công việc làm ăn (phi nông nghiệp) cho nền kinh tế.
Tuy nhiên người lao động khu vực này vẫn chưa nhận được các chính
sách hỗ trợ thỏa đáng của Nhà nước.
Đối với các doanh nghiệp phi chính thức, việc kinh doanh thiếu tính ổn
định và bền vững do sự cạnh tranh lẫn nhau trong cùng khu vực. Hàng
hóa sản xuất ra tại khu vực này cũng được tiêu thụ chủ yếu tại đây.
Phần lớn lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức đều phải chấp
nhận điều
kiện làm việc kém, thu nhập thấp, không được hưởng quyền, nghĩa vụ
lao động, quỹ phúc lợi xã hội, dịch vụ công ích, không có cơ hội để
thăng tiến, tiếp cận với các nguồn lực tín dụng, khoa học kỹ thuật.
Nghiêm trọng hơn là tình trạng bóc lột, lạm dụng tình dục, sức lao
động đối với phụ nữ, trẻ em. Lao động khu vực phi chính thức ít được
sự bảo vệ của công đoàn, pháp luật, nhất là phụ nữ và trẻ em. Các
hoạt động tương trợ về xã hội, pháp lý cũng chưa đến được với những
đối tượng này. Họ hoạt động gần như đơn độc, mối lien kết gần nhất,
bền chặt nhất chính là giữa những người đồng cảnh ngộ "phi chính
thức" với nhau. Hiện nay các doanh nghiệp khu vực phi chính thức rất
khó tiếp cận tín dụng, đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Mối liên kết của
khu vực phi chính thức (với tư cách nhà cung cấp, khách hàng, người
gia công) với khu vực chính thức rất yếu. Trong vòng hang chục những
năm qua chưa có các chính sách công thoả đáng đối với khu vực phi
chính thức.
Về mặt bản chất, các hoạt động kinh tế gọi là “phi chính thức” chỉ vì
không đăng
ký công khai, chứ không hàm ý “phi pháp” (trừ hoạt động buôn lậu
hay buôn ma túy).
Điều cản trở các doanh nghiệp “phi chính thức” đăng ký kinh doanh là
thủ tục hành chính còn nhiều phiền hà và nạn tham nhũng trong khu
vực chính thức. Những doanh nghiệp trong khu vực phi chính thức
cũng mong muốn đăng ký kinh doanh hợp pháp để chuyển sang khu
vực chính thức và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, vì nếu bị gán
mác “phi chính thức”, thì cơ hội tiếp cận vốn ngân hàng và các định
chế tài chính vi mô là rất khó khăn, chỉ có 4% doanh nghiệp khu vực
phi chính thức ở thành phố Hồ Chí Minh được vay vốn. Doanh nghiệp
phi chính thức thông thường không có đất để sản xuất kinh doanh đô
thị lớn rất khốc liệt.Những đóng góp của người lao động "phi chính
thức" cho xã hội là điều không
thể phủ nhận nhưng trong sự đánh giá của nhiều "người thành phố"
đối với "dân nhập cư, dân hàng rong, trẻ đường phố" vẫn tỏ thái độ
xem thường, thương hại. Lao động khu vực phi chính thức thành phố
Hồ Chí Minh vẫn chưa được xã hội công nhận vai trò và vị trí đúng mức
về mặt pháp lý, cũng như về mặt tâm lý. Vẫn chưa có tổ chức công
đoàn nào được thành lập cho những người bán hàng rong, trẻ bán vé
số, trẻ đánh giày....
Kinh tế phi chính thức là một phần không thể thiếu được của nền kinh
tế Việt
Nam từ hàng trăm năm nay và đã có những đóng '67óp đáng ghi nhận
trong đời sống xã hội. Tuy nhiên khu vực kinh tế này vẫn bị nhìn nhận
là “phi chính thức” và nằm ngoài lề nền kinh tế thời hội nhập. Các
chính sách khuyến khích, thúc đẩy và hỗ trợ phát triển vẫn không được
dành cho khu vực kinh tế này. Về phương diện quản lý Nhà nước với
thị trường lao động còn lỏng lẻo, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương
binh – Xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân thừa nhận, hiện nay Nhà nước mới
chỉ quản lý được phần lao động chính thức, chiếm khoảng 30% thị
trường lao động. Còn 70% lao động không chính thức thì rất "khó
quản". Theo ý kiến của các nhà nghiên cứu, trong thời gian hiện tại,
Nhà nước không nhất thiết phải buộc tất cả lao động phi chính thức
phải đăng ký kinh doanh. Chính sách nóng vội muốn chính thức hoá
toàn bộ hay phần lớn khu vực này là việc làm thiếu thực tế. Điều này
cần được chuẩn bị kỹ lưỡng những điều kiện cần và đủ trong một thời
gian dài thì mới khả thi.
2.3.Xu hướng việc làm phi chính thức:
Việc làm phi chính thức sẽ tăng lên theo làn sóng nhập cư vào các đô
thị lớn của
Việt Nam và nhập cư từ những nước nghèo vào Việt Nam
Đô thị hóa và người dân nông thôn nhập cư vào thành thị là một xu
hướng không gì cưỡng nổi. Ở nước ta cũng vậy, khu vực phi chính thức
là một khu vực hấp thụ phần lớn những người nhập cư này. Việc nhập
cư tạo nhiều gánh nặng cho các đô thị lớn, trước đây và cả hiện nay,
chính sách "hộ khẩu" đã cản trở người nhập cư tiếp cận đến công ăn
việc làm, nhà ở và các dịch vụ xã hội như: giáo dục, y tế…. Rất cần có
sự quản lý chặt chẽ của chính quyền đô thị về an sinh – xã hội, tạo
điều kiện hỗ trợ người nhập cư và gia đình của họ...
Những năm gần đây có hiện tượng lao động phổ thông nước ngoài vào
Việt Nam từ một số nước châu Phi, châu Á. Ở TP.HCM lao động người
châu Phi làm phụ quán ăn, phụ hồ, khuân vác… lao động từ Philippines
làm giúp việc cho người nước ngoài sinh sông tại TP.HCM. Lao động
nước ngoài vào Việt Nam bằng nhiều con đường: chính thức, không
chính thức như thăm thân, du lịch rồi ở lại... Trong tổng số lao động
nước ngoài có mặt tại Việt Nam, Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội
mới chỉ “nắm được và cấp giấy phép” cho chưa đầy 50%, số còn lại
vẫn chưa quản lý được.
2.4.những đề xuất quản lý:
- Chính thức công nhận khu vực kinh tế phi hình thức về mặt pháp lý
và những
đóng góp của người lao động khu vực kinh tế phi chính thức.
- Giúp người lao động khu vực phi chính thức tiếp cận với các nguồn
lực, tín
dụng, hỗ trợ vốn và kỹ thuật, tăng cường các kênh thông tin, đào tạo
nghề nghiệp.
- Tháo gỡ những cản trở trong Luật Doanh nghiệp, có chính sách hỗ
trợ khu vực
phi chính thức.
- Thiết lập các chính sách kết nối mạnh mẽ khu vực kinh tế phi chính
thức với khu vực kinh tế chính thức.
- Thực hiện luật về tiền lương và thu nhập công bằng cho lao động khu
vực phi
chính thức.
- Bảo vệ người lao động khu vực phi chính thức khỏi bị sự xâm phạm
của chủ
lao động và các đối tượng xấu khác, nhất là nạn xâm hại tình dục, bạo
lực đối với phụ nữ và trẻ em….
- Bảo đảm giáo dục cơ bản đối với con em của người lao động.
- Cần tăng cường công tác quản lý xuất, nhập cảnh và tăng cường
công tác quản lý việc tạm trú, lưu trú, chuyển đổi mục đích sử dụng
của lao động để hạn chế hiện tượng lao động phổ thông nước ngoài ở
Việt Nam.Khi một thành phần kinh tế, một hình thức tổ chức kinh
doanh nào đó còn tồn tại, điều đó có nghĩa là nó còn cần thiết cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Do vậy không thể dùng ý chí
mà xóa bỏ nó, mà ngược lại phải tạo mọi điều kiện để thành phần kinh
tế đó phát triển và khai thác tốt nhất tiềm lực của nó. Trong tình hình
kinh tế khó khăn do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế vừa qua,
khu vực phi chính thức rất dễ bị tổn thương. Đây là một khu vực quan
trọng của nền kinh tế, đáng được trân trọng và hỗ trợ. Cùng với các
khu vực kinh tế khác, nó giúp giải quyết công ăn việc làm cho người
lao động và góp phần ổn định xã hội. Hiện tại chúng ta chú trọng và
quan tâm nhiều đến khu vực nhà nước, khu vực đầu tư nước ngoài và
khu vực kinh tế tư nhân chính thức. Tuy nhiên chú trọng và quan tâm
thoả đáng đến khu vực kinh tế phi chính thức cũng không kém phần
quan trọng và cần thiết giúp nền kinh tế - xã hội của thành phố phát
triển bền vững.
2.5.Vấn đề an sinh xã hội:
KTNT - Hiện nay, khu vực kinh tế phi chính thức (KTPCT)
chiếm trên 11 triệu việc làm trong tổng số việc làm cả nước
- chiếm khoảng 1/4 tổng việc làm chính và 1/2 số việc làm
phi nông nghiệp.
Nếu cộng thêm cả những việc làm phụ thì KTPCT có
trên 12,4 triệu việc làm.
Những lao động này đang
rất cần được hưởng thụ các
chính sách và dịch vụ xã
hội.
Theo ước tính, VN có khoảng 8,4 triệu hộ SXKD phi
chính thức, trong đó 7,4 triệu người coi việc làm phi
chính thức của mình là chính và 1 triệu hộ coi đó là
việc làm thứ hai.
Theo Tổng cục Thống kê và Viện Nghiên cứu phát triển thì việc làm phi chính
thức gồm những NLĐ không được hưởng bất kỳ một chương trình BHXH nào và
chiếm 82% tổng số việc làm trên cả nước.
Đối với các nền kinh tế đang phát triển, mặc dù khu vực KTPCT và việc làm phi
chính thức chiếm tỉ trọng lớn, nhưng nó ít được biết đến trong hoạch định chính
sách công.
Điều kiện làm việc của NLĐ khu vực này rất khó khăn như: Thu nhập thấp, việc
làm bấp bênh không ổn định, gần như không có BHXH và phần lớn vẫn chưa
được hưởng lợi từ những chính sách đặc thù. Tuy nhiên, các chính sách đó lại
đóng góp rất lớn vào quá trình xóa đói, giảm nghèo.
Theo Bộ LĐTBXH, ở VN khu vực KTPCT là một trong những khu vực tiên phong
trong tiến trình đổi mới của đất nước, góp phần quan trọng vào quá trình chuyển
đổi kinh tế từ kế hoạch hóa sang kinh tế thị trường. Tuy không tạo đột phá trong
phát triển kinh tế, nhưng đây là khu vực “bung ra” sớm nhất, mạnh nhất và với
tốc độ phát triển nhanh nhất từ giữa những năm 1980 của thế kỷ trước.
Kết quả điều tra LĐ việc làm khu vực KTPCT tại TPHCM năm 2008, điều kiện
làm việc của NLĐ khó khăn, tạm bợ, thời gian làm việc nhiều và thu nhập thấp.
Không kể LĐ làm nông nghiệp, Hà Nội hiện có 132.300 người và TPHCM là
343.700 người đang làm việc trong khu vực phi chính thức, chưa tính tới những
người chủ đơn vị, người tự kinh doanh... Trong đó, trên 60% không có hợp đồng
với chủ sử dụng, 37% thỏa thuận miệng giữa đôi bên và chỉ khoảng 0,5% có
hợp đồng lao động ngắn hạn hoặc dài hạn.
Những LĐ này phần lớn không được hưởng bất kỳ một khoản phúc lợi nào từ
hoạt động SXKD nơi mình làm việc. Chỉ có khoảng 0,6% số LĐ được chia lợi
nhuận, 0,8% được trả lương cho những ngày nghỉ lễ tết... Do khu vực
KTPCT không đăng ký kinh doanh nên pháp luật LĐ và BHXH dường như vẫn
chỉ đứng bên ngoài, do vậy NLĐ làm việc nhiều nhưng thu nhập và các chế độ
đãi ngộ rất thấp.
Hiện, trên 50% số LĐ làm việc tại khu vực này thu nhập thấp hơn 1,4 triệu
đồng/người/tháng, trong khi có tới 30% số LĐ phải làm việc trên 60 giờ/tuần,
phần lớn NLĐ phải làm việc từ 49 giờ đến 52 giờ/tuần.
Đóng góp khoảng 20% vào GDP, nhưng làm cách nào để những LĐ này tiếp cận
được với các chính sách, các dịch vụ xã hội đang là một thách thức lớn cần
quan tâm.
2.6.Lao động phi chính thức-chưa được công nhận:
Một điều tra của Viện Khoa học thống kê phối hợp với tổ chức IRD/DIAL Pháp về cuộc
sống của người lao động (NLĐ) tại hai thành phố lớn nhất là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh
cho thấy, tuổi bình quân của NLĐ phi chính thức khoảng 39-40 tuổi và phần đông có
trình độ học vấn thấp. Có tới 37-40% số hộ thuộc KVKTPCT không có địa điểm kinh
doanh cố định, vì vậy họ ít có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ công cơ bản như điện,
nước, điện thoại. Thu nhập của khu vực này chỉ bằng 2/3 so với các khu vực hộ sản xuất,
kinh doanh chính thức. Kết quả điều tra còn cho thấy, KVKTPCT đóng góp khoảng 12%
giá trị tăng thêm của 2 thành phố. Tuy nhiên, khu vực này chỉ được coi là hoạt động bên
lề của nền kinh tế vì có rất ít mối quan hệ với các khu vực kinh tế khác: trên 75% số sản
phẩm của nó tạo ra phục vụ cho các hộ gia đình. TP Hà Nội hiện có 132.300 người và TP
Hồ Chí Minh có 343.700 người đang làm việc trong KVKTPCT, chưa tính tới những
người chủ đơn vị, người tự kinh doanh. Trong đó có trên 60% không có hợp đồng với
giới chủ, khoảng 37% có thoả thuận miệng giữa đôi bên và chỉ có khoảng 0,5% có hợp
đồng lao động ngắn hạn hoặc dài hạn. Số lao động này không được hưởng bất kỳ khoản
phúc lợi nào từ hoạt động sản xuất, kinh doanh nơi mình làm việc. Chỉ có 0,6% số lao
động được chia lợi nhuận, 0,8% được trả lương cho những ngày lễ, tết.
Ngày càng nhiều lao động tự do tìm kiếm việc làm tại các TP. Ảnh: Thái Hiền
Phần lớn NLĐ hoạt động gần như đơn độc, mối liên kết gần nhất, bền chặt nhất chính là
giữa những người đồng cảnh ngộ "phi chính thức" với nhau. Vì vậy, việc đóng BHXH,
BHYT đối với họ vẫn là xa vời. Bằng chứng là mặc dù Việt Nam đã đề xuất và thực hiện
nhiều chính sách nhằm tiến tới thực hiện BHYT toàn dân nhưng đa số đều không sẵn
sàng tham gia. Với họ, BHYT không giúp giảm đi nhiều gánh nặng từ chi phí về y tế.
Bên cạnh đó, đối tượng này vẫn chưa được xã hội công nhận đúng mức cả về mặt pháp lý
lẫn tâm lý. Khó có thể tìm thấy một "công đoàn" hoặc một tổ chức nghề nghiệp để bảo
trợ, hỗ trợ về pháp lý hay kinh tế cho những người bán hàng rong, trẻ em bán vé số, đánh
giày, giúp việc, xe ôm...
2.7. Giới thiệu về Sở Lao Động – Thương Binh Xã Hội Tp Hồ Chí Minh:
2.7.1.Sơ đồ tổ chức Sở Lao Động – Thương Binh Xã Hội thành phố Hồ Chí
Minh:
Sơ đồ tổ chức Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí MInh
A.Cơ quan Sở
Cơ quan Sở Lao động – Thương binh và Xã hội Thành phố có 6 phòng, ban thực hiện
chức năng tham mưu cho Ban Giám đốc Sở về các lĩnh vực chính sách lao động, việc làm,
dạy nghề, chính sách có công, chính sách xã hội, thanh tra chính sách, thanh tra an toàn lao
động trên địa bàn Thành phố; 6 phòng, ban thực hiện công tác bảo đảm hoạt động ngành.
Các phòng ban chuyên môn:
Văn phòng (hành chính - quản trị - tổng hợp – thi đua)
Phòng lao động - Tiền lương - Tiền công
Phòng dạy nghề
Phòng chính sách có công
Phòng bảo trợ xã hội
Phòng chăm sóc bảo vệ trẻ em
Phòng kế hoạch – tài chính
Phòng y tế
Phòng tổ chức cán bộ
Thanh tra Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
Phòng pháp chế
Phòng bình đẳng giới
B.Các đơn vị sự nghiệp:
Trung tâm hỗ trợ xã hội
Trung tâm bảo trợ xã hội Tân Hiệp
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ người già tàn tật Chánh Phú Hoà
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ người già tàn tật Thạnh Lộc
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ trẻ tàn tật mồ côi Thị Nghè
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Gò Vấp
Trung tâm nuôi dưỡng bảo trợ trẻ em Tam Bình
Trung tâm bảo trợ và tạo việc làm cho người tàn tật
Trung tâm điều dưỡng người bệnh tâm thần
Làng thiếu niên Thủ Đức
Làng SOS Gò Vấp
Chi cục phòng chống tệ nạn xã hội
Trung tâm tiếp nhận đối tượng xã hội Bình Triệu
Trung tâm giáo dục lao động bảo trợ xã hội Phú Văn
Trung tâm chữa bệnh Đức Hạnh
Trung tâm giáo dục lao động xã hội Phú Nghĩa
Trung tâm bảo trợ người tàn tật Hiệp Bình Chánh
Trung tâm điều dưỡng người bệnh tâm thần Tân Định
Trung tâm giáo dục lao động xã hội Phú Đức
Trung tâm giáo dục thường xuyên Gia Định
Trung tâm giáo dục dạy nghề Thiếu niên Thành phố
Trung tâm giáo dục dạy nghề Thanh thiếu niên 2
Trung tâm cai nghiện ma túy Bố Lá
Trung tâm cai nghiện ma túy Bình Đức
Trung tâm tư vấn cai nghiện ma túy
Trung tâm giáo dục lao động xã hội Phước Bình
Ban quản trang Thành phố
Nhà tang lễ Thành phố
Trường nghiệp vụ nhà hàng thành phố
Trung tâm dưỡng lão Thị Nghè
Trường Cao đẳng nghề Thành phố
Trường Hermann Gmeiner
Văn phòng ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo thành phố
Trung tâm giới thiệu việc làm thành phố
Trung tâm kiểm định và huấn luyện kỹ thuật an toàn lao động
Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình Sở
Trung tâm Dự báo nhu cầu nhân lực và Thông tin thị trường lao động thành
phố Hồ Chí Minh
C. Doanh nghiệp nhà nước:
Công ty 27/7
Công ty dịch vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia (Suleco)
Xin cảm ơn thầy, chúng em đã cố gắng hết sức nhưng công lực chỉ đến đây, không
thể đến 20 trang được, chúc thầy 1 ngày vui vẻ và hạnh phúc.
Sv:Lưu Công Triệu & Trần Thị Trinh.
Kính gửi.
- Xem thêm -