LUẬN VĂN:
Thực trạng lạm phát ở việt nam
Lời Nói đầu
Hiện nay, nền kinh tế của toàn thế giới có nhiều sự thay đổi, các quốc gia dần
chuyển mình để hoà nhập với xu thế toàn cầu hoá. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế
có nhiều vấn đề bất cập xảy ra. Một trong những vấn đề luôn song hành với nền kinh tế
đặc biệt là với thị trường tài chính tiền tệ là lạm phát. Lạm phát là một trong những vấn
đề kinh tế vĩ mô đã trở thành mối quan tâm lớn nhất của các nhà chính trị và của cả công
chúng. Lạm phát được coi như là một căn bệnh thế kỉ của nền kinh tế thị trường, nó là
một vấn đề hết sức phức tạp đòi hỏi phải có sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có
thể đạt được kết quả khả quan nhất. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc
dân, đặc biệt là giới lao động,chống lạm phát không chỉ là việc của doanh nghiệp, của
một cá nhân mà còn là nhiệm vụ của chính phủ.
ở Việt Nam,hiện nay về việc kiềm chế lạm phát, giữ vững sự phát triển ổn định
của nền kinh tế là một mục tiêu quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, nâng cao
đời sống nhân dân.
Thật vậy, vấn đề lạm phát đã được nhiều người quan tâm, nghiên cứu và cũng đưa ra
phương pháp khắc phục nhằm kiểm soát được lạm phát. Từ lâu, tiền giấy xuất hiện và sau
một thời gian sẽ diễn ra tình trạng giảm giá tiền và dẫn đến lạm phát. Nét đặc trưng cơ
bản nền kinh tế thị trường khi có lạm phát là giá cả của hầu hết các hàng hoá đêù tăng cao
và sức mua của đồng tiền ngày càng giảm nhanh.
Nhìn lại lịch sử lạm phát, từ cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20 ở nước ta lạm phát diễn ra
kéo dài và nghiêm trọng. Lạm phát đã phá vỡ toàn bộ kế hoạch của nền kinh tế, phương
hại đến tất cả các mối quan hệ trong nền kinh tế xã hội.
Phần I :Lý thuyết chung về lạm phát
1- Các khái niệm về lạm phát
Lạm phát là một phạm trù vốn có của nền kinh tế thị trường, nó xuất hiện khi các yêu
cầu của các quy luật kinh tế hàng hoá không được tôn trọng, nhất là quy luật lưu thông
tiền tệ. ở đâu còn sản xuất hàng hoá, còn tòn tại những quan hệ hàng hoá tiền tệ thì ở đó
còn tiềm ẩn khả năng xảy ra lạm phát và lạm phát chỉ xuất hiện khi các quy luật của lưu
thông tiền tệ bị vi phạm. Lạm phát đã trở thành mối quan tâm của rất nhiều người. Do đó
lạm phát được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiêm cứu của các nhà kinh tế.
Mỗi người đều đưa ra khái niệm về lạm phát theo quan điểm, phương hướng nghiên cứu
của mình.
- Trong bộ tư bản nổi tiếng của mình, Các Mác viết :”Việc phát hành tiền giấy phải được
giới hạn ở số lượng vàng hoặc bạc thực sự lưu thông nhờ các đại diện tiền giấy của mình
“.Điều này có nghĩa là khi khối lượng tiền giấy do Nhà nước phát hành vào lưu thông
vượt qua số lượng vàng mà nó đại diện thì giá trị của tiền giấy giảm xuống, giá cả tăng
vọt và tình trạng lạm phát xuất hiện.
Từ đây, ông cho rằng lạm phát là “bạn đường “của chủ nghĩa tư bản.Không những chủ
nghĩa tư bản bóc lột người lao động bằng giá trị thặng dư mà còn gây ra lạm phát giảm
tiền lương của người lao động.
-
Nhà kinh tế học Samuelson cho rằng :”lạm phát xảy ra khi mức chung của giá cả và
chi phí tăng – giá bánh mì, dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu
sản xuất tăng “.Ông thấy rằng lạm phát chính là biểu thị sự tăng lên của giá cả .
-
Còn Milton Friedman lại quan niệm khác :”Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo
dài “.Ông cho rằng lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.
Một số nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes đều tán thành ý kiến đó của
Friedman.Họ cho rằng khi thị trường tiền tệ phát triển, ảnh hưởng đến nền kinh tế quốc
dân của mỗi nước thì lạm phát có thể xảy ra bất kì thời điểm nào. Nó chính là một hiện
tượng tất yếu của taì chính – tiền tệ.
-
Một định nghĩa nữa về lạm phát do các nhà kinh tế học hiện đại đưa ra và nó đựoc sử
dụng rộng rãi trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường :”Lạm phát là sự tăng lên của mức
giá trung bình theo thời gian“.
-
Lạm phát được đo bằng chỉ số giá cả :
+ Chỉ số giá cả được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số giá cả hàng tiêu dùng CPI
(Consumer Price Index). CPI tính chi phí của một giỏ hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị
trường. Để tính CPI, ta dựa vào tỷ trọng của phần chi cho từng mặt hàng trong tổng chi
tiêu cho tiêu dùng của thời kì có lạm phát.
+ Một chỉ số nữa thường được sử dụng là chỉ số giá cả sản xuất (PPI: Producer
Price Index), đây là chỉ số giá bán buôn. PPI dùng để tính giá cả trong lần bán đầu tiên do
người sản xuất ấn định
Ip = ip.d
ip:chỉ số giá của từng loại nhóm hàng
d:tỷ trọng mức tiêu dùng của từng loại hàng
+Ngoài 2 chỉ số trên, chỉ số GNP cũng được sử dụng. Đây chính là chỉ số giảm
phát, chỉ số giá cả cho toàn bộ NGP :chỉ số giảm phát GNP = GDP danh nghĩa / GDP
thực tế.
2) Phân loại lạm phát
Có nhiều cách đẻ phân loại lạm phát. Dựa trên các tiêu thức khác nhau sẽ có các loại
lạm phát khác nhau.
a) Căn cứ vào định lượng gồm:
- Lạm phát vừa phải :Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một
năm. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền
kinh tế hoạt động một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn
định đó được biểu hiện : Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra
tình trạng mua bán và tích trữ hàng hoá với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mứclạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động của
nó là không đáng kể. Mặt khác, lạm phát vừa phải tạo tâm lý an tâm cho người lao
động chỉ trông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này, các hãng kinh doanh có khoản
thu ổn định, ít rủi ro và sẵn sàng đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
-
Lạm phát phi mã : lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với tỷ lệ 2 con số 1
năm. ở mức 2 con số thấp :11,12% thì nói chung các tác động tiêu cực không đán kể
và nền kinh tế vẫn có thể chấp nhận được. Nhưng khi tăng đến hai chữ số cao thì lạm
phát sẽ làm cho giá cả chung tăng lên nhanh chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các
hợp đồng được chỉ số hoá. Lúc này người dân tích trữ hàng hoá, vàng bạc, bất động
sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi xuất bình thường. Như vậy lạm phát sẽ
làm ảnh hưởng xấu đến sản xuất và thu nhập vì những tác động tiêu cực của nó không
nhỏ. Bên cạnh đó lạm phát phi mã còn là mối đe doạ đối với sự ổn định của nền kinh
tế
-
Siêu lạm phát : 3 con số một năm xảy ra khi lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ rất
nhanh, tỷ lệ lạm phát cao. Tốc độ và tỷ lệ siêu lạm phát vượt xa lạm phát phi mã, nó
như một căn bệnh chết người, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng
nhanh và không ổn định, tiền luơng thục tế của người lao động bị giảm mạnh, tiền tệ
mất giá nhanh chóng, thông tin không còn chính xác, các yếu tố thị trường biến dạng
và hoạt động sản xuất khin doanh lâm vào tình trạng rối loạn, mất phương hướng.
Tóm lại, siêu lạm phát làm cho đời sống và nền kinh tế suy sụp một cách nhanh
chóng. Tuy nhiên siêu lạm phát rất ít xảy ra.
b) Căn cứ vào định tính :
-
Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng.
* Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người lao động,
tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Do đó
không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người lao động và dến nền kinh
tế nói chung.
*Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của người lao
động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.
-
Lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường
* Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kì
tương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn. Loại lạm phát này có thể dự đoán
trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã quen
với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đó không gây ảnh
hưởng đến đời sống, đến kinh tế.
* Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện. Loại
lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi.
Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tế và niềm tin
của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút
Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát triển
thường diễn ra trong thời gian dài, vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng
hơn. Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm
phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm, lạm phát
nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm
phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm.
3)
Tác Động của lạm phát :
Lạm phát có nhiều loại,cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của lạm phát
đối với nền kinh tế. Xét trên góc độ tương quan, trong một nền kinh tế lạm phát là một
nỗi lo của toàn xã hội và ta cũng thấy được các tác động của nó.
a) Tác động đến lĩnh vực sản xuất :
ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra
biến động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá trình sản xuất. Sự mất giá của
đồng tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh. Hiệu quả sản xuất –
kinh doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế.
Nếu một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá
sản rất lớn.
Tuy nhiên, xét ở góc độ nào đó, khi tỷ lệ lạm phát thấp, không gây ảnh hưởng đến
kinh tế thì có thể sẽ kích thích tăng trưởng kinh tế. Từ đó sẽ khuyến khích các doanh
nghiệp đi vay để mở rộng sản xuất, sản lượng sẽ tăng lên. Ngoài ra cũng khuyến khích
tiêu dùng, cầu tiêu dùng tăng lên, do đó hàng hoá bán chạy và cũng làm sản lượng tăng.
b) Đối với lĩnh vực lưu thông:
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá trình đầu cơ tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng
hoá. Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của mình để vơ vét và thu gom
hàng hoá, tài sản, tình trạng này càng làm mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu
hàng hoá trên thị trường giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn.
Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ
gặp phải những rủi ro cao. Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh
vực này trở lên hỗn loạn. Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong lại nhanh chóng bị
đẩy vào kênh lưu thông, tốc đọ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm
phát gia tăng.
c) Đối với lĩnh vực tiền tệ, tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng, thương mại và ngân hàng bị thu hẹp. Số tiền
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống. Về
phía hệ thống ngân hàng, do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp
ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền, sự
điều chỉnh lãi suất tiền gưỉ không làm an tâm những cá nhân, doanh nghiệp hiện đang có
lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay.Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động
vốn, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mứclãi suất ổn định. Mà lãi suất thực
= lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lãi suất thực ổn
định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát.
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh
chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức
năng kinh doanh tiềntệ bị hạn chế, không cònnguyên vẹn bởi khi có lạm phát thì chẳng có
ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
d) Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước :
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hoá, khi lạm phát xảy
ra thì những thông tin trong xã hội bị phá huỷ do biến động của giá cả và làm cho thị
trường bị rối loạn. Khi đó người ta khó phân biệt được những doanh nghiệp làm ăn tốt và
kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, các khoản thu cho ngân sách nhà nước
không tăng. Do đó, nhà nước không còn đủ sức cung cấp tiền cho các khoản dành cho
phúc lợi xã hội, các nghành, các lĩnh vực dự định được chính phủ đầu tư hỗ trợ vốn bị thu
hẹp lại hoặc không có gì. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các mục tiêu cải
thiện và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện để thực hiện.
4) Nguyên nhân gây ra lạm phát :
a) Lạm phát do cầu kéo:
Đây chính là sự mất cân đối trong quan hệ cung – cầu. Nguyên nhân chính là do tổng
cầu tăng quá nhanh trong khi tổng cung không tăng hoặc tăng không kịp.
Việc tăng cung ứng tiền tệ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến việc tăng cầu về hàng hoá
và dịch vụ. Nhưng đây không phải là nguyên nhân duy nhất làm tăng cầu. áp lực lạm phát
sẽ tăng sau từ 1 đến 3 năm, nếu cầu về hàng hoá vượt quá mức cung, song sản xuất vẫn
không được mở rộng hoặc do sử dung máy móc với công suất giới hạn hoặc vì nhân tố
sản xuất không đáp ứng được sự ra tăng của cầu. Sự mất cân đối sẽ được giá cả lấp đầy
từ đó mà lạm phát do cầu tăng lên (lạm phát do cầu kém xuất hiện. Chẳng hạn như ở Mỹ,
sử dụng công suất máy móc là một chỉ số có ích phản ánh lạm phát trong tương lai ở Mỹ,
sử dụng công suất máy móc trên 83% dẫn tới lạm phát tăng.
(Tổng mức giá)
AS3
P
AS2
P3
3
P2
2’
2
AD3
P1
1’
1
AD2
AD1
0
Yn
Yt
Y
(Tổng sản phẩm)
Lúc đầu nền kinh tế đạt ở mức cân bằng tại điểm 1. Khi các nhà hoạch định chính
sách muốn có một tỷ lệ thất nghiệp dưới mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, họ sẽ đưa ra
những biện pháp nhằm đạt được chỉ tiêu sản lượng lớn hơn mức sản lượng tiềm năng (Yt
> Yn).Từ đó sẽ làm tăng tổng cầu và đường tổng cầu sẽ dịch chuyển đến AD2 nền kinh tế
chuyển đến điểm 1’. Lúc này sản lượng đã đạt tới mức Yt lớn hơn sản lượng tiềm năng
và mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách đã thực hiện được.
Tuy nhiên tỷ lệ thất nghiệp thực tế thấp hơn tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nên tiền
lương tăng và đường tổng cung sẽ di chuyển đến AS2, đưa nền kinh tế từ điểm 1’ sang
2’. Nền kinh tế quay trở về mức sản lượng tiềm năng và tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên nhưng
ở một mức giá cả P2 > P1 . Lúc này tỷ lệ thất nghiệp lại cao hơn mục tiêu ban đầu. Do
đó các nhà hoạch định chính sách lại tìm cách làm tăng tổng cầu. Quá trình này cứ tiếp
diễn và đẩy giá cả trong nền kinh tế lên cao hơn.
b)Lạm phát do chi phí đẩy :
Hình thức của lạm phát do chi phí đẩy phat sinh từ phía cung, do chi phí sản
xuất cao hơn đã được chuyển sang người tiêu dùng. Điều này chỉ có thể đạt trong giai
đoạn tăng trưởng kinh tế khi người tiêu dùng sẵn sàng trả với giá cao hơn. Ví dụ : Nếu
tiền lương chiếm một phần đáng kể trong chi phí sản xuất và dịch vụ và nếu tiền lương
tăng nhanh hơn năng xuất lao động thì tổng chi phí sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản
xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này cho người tiêu dùng thì giá bán sẽ tăng lên, công
nhân và các công đoàn sẽ yêu cầu tiền lương cao hơn trước đẻ phù hợp với chi phí sinh
hoạt taưng lên điều đó tạo vòng xoáy lượng giá.
Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên nhiên vật liệu tăng do tỷ giá tăng hợac
khả năng khả thác hạn chế.Một ví dụ điển hình cho thấy giá cả nguyên nhiên vật liệu là
giá dầu thô tăng. Trong năm 1972-1974 hầu như giá dầu quốc tế tăng 5 lần dẫn đến lạm
phát tăng từ 4,6% đến 13,5% bình quân trên qoàn thế giới. Ngoài ra sự suy sụp của giá
dầu (1980) làm cho lạm phát giảm xuống mức thấp chưa từng thấy.
Bên cạnh đó giá cả nhập khẩu cao hơn được chuyển cho người tiêu dùng nội địa
cũng là một yếu tố gaay lên lạm phát. Nhập khẩu càng trở lên đắt đỏ khi đồng nội tệ yếu
đi hợac mất giá so với đồng tiền khác
ASRL
ASSL
P
AD
P
P1
ASLR
E
E1
P
ASSR
1
AD1
0
1
P0
E0
AD0
y*
y0
y
ASSR2
y1
*
y0
Chi tiêu quá khả năng cung ứng
Chi phí tăng đẩy giá lên cao
_Khi sản lượng vượt tiềm năng
_Cầu không đổi, giá cả tăng sản
Đường AS có độ dốc lớn lên khi
lượng giảm xuống Y0 – Y1
cầu tăng mạnh, AD – AD1, giá cả
AS1 – AS2
tăng P0 – P1
c)Lạm phát do cung tiền tệ tăng cao và liên tục
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thuộc phía tiền tệ, khi cung tiền tệ tăng lên
kéo dài làm cho mức giá tăng lên kéo dài và gây ra lạm phát. Có thể thấy ngưỡng tăng
cung tiền để gây lạm phát là nền kinh tế toàn dụng. Khi nền kinh tế chưa toàn dụng thì
nguồn nguyên nhiên vật liệu còn nhiều, chưa khai thác nhiều. Có nhiều nhà máy xí
nghiệp bị đóng cửa chưa đi vào hoạt động. Do đó nhân viên nhàn rỗi lớn và tỷ lệ thất
nghiệp cao … Trong trường hợp này, khi tăng cung tiền thì dẫn đến lãi xuất giảm đến
một mức độ nào đó, các nhà đầu tư thấy rằng có thể có lãi và đầu tư tăng nhiều.từ đó các
nhà máy, xí nghiệp mở cửa để sản xuất, kinh doanh. Lúc này nguyên nhiên vật liệu bắt
đầu được khai thác, người lao động có việc làm và sản lượng tăng lên.
ở nền kinh tế toàn dụng, các nhà máy, xí nghiệp được hoạt động hết công suất,
nguồn nguyên nhiên vật liệu được khai thác tối đa. Khi đó lực lượng lao động được sử
dụng một cách triệt để và làm sản lượng tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên tình hình sẽ dẫn
đến một vài kênh tắc nghẽn trong lưu thông. Chẳng hạn khi các nhà máy, xí nghiệp hoạt
động hết công suất sẽ dẫn đến thiếu năng lượng, thiếu lao động, nguyên vật liệu dần bị
han hiếm …Vai trò của chính phủ và các nhà quản lý phải xác định được kênh lưu thông
nào bị tắc nghẽn và tìm cách khơi thông nó. Nếu không sẽ gây ra lạm phát.Lúc đó sản
lượng không tăng mà giá cả tăng nhiều thì lạm phát tất yếu sẽ xảy ra.
Trong việc chống lạm phát các Ngân hàng trung ương luôn giảm sút việc cung
tiền.
Trường hợp tăng cung tiền có thể đạt được bằng hai cách :
Ngân hàng trung ương in nhiều tiền hơn (khi lãi xuất thấp và điều kiện kinh doanh
tốt ) hợac các ngân hàng thương mại có thẻ tăng tín dụng. Trong cả hai trường hợp sẵn có
lượng tiền nhiều hơn cho dân cư và chi phí. Về mặt trung và dài hạn, điều đó dẫn đến cầu
và hàng hoá và dịch vụ tăng. Nếu cung không tăng tương ứng với cầu thì việc dư cầu sẽ
được bù đắp bằng việc tăng giá.Tuy nhiên giá cả sẽ không tăng ngay nhưng nó sẽ tăng
sau đó 2-3 năm. In tiền để trợ cấp cho chi tiêu công cộng sẽ dẫn đến lạm phát nghiêm
trọng. Ví dụ năm 1966-1967, chính phủ Mỹ đã sử dụng việc tăng tiền để trả cho những
chi phí leo thang của cuộc chiến tranh taị Việt Nam, lạm phát tăng từ 3%(năm 1967) đến
6% (năm 1970).
Xét trong dài hạn lãi xuất thực tế (i) và sản lượng thực tế (Y) đạt mức cân bằng, nghĩa là
(i) và (Y) ổn định. Mức cầu tiền thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi
lượng tiền danh nghĩa (M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên với tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm
phát là một hiện tượng tiền tệ. Đây cũng chính là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương rất
chú trọng đến nguyên nhân này.
d) Các nguyên nhân khác
Ngoài các nguyên nhân chủ yếu đã đề cập ở trên, một số các nguyên nhân khác
cũng gây ra lạm phát. Thứ nhất có thể kể đến là tâm lý của dân cư. Khi người dân không
tin tưởng vào đồng tiền của Nhà nước, họ sẽ không giữ tiền mà đẩy vào lưu thông bằng
việc mua hàng hoá dự trữ hoặc đầu tư vào một lĩnh lực kinh doanh nào đó … Như thế cầu
sẽ tăng lên mà cung cấp không đáp ứng được cân bằng cung cầu trên thị trường hang hoá
không còn nữa và tiếp tục đẩy giá lên cao, từ đó lạm phát sẽ xảy ra. Có thể thấy giá cả
tăng lên làm tiêu dùng tăng, cứ như vậy sẽ gây ra xoáy ốc lạm phát.Thứ hai thâm hụt
ngân sách cũng có thể là một nguyên nhân dẫn đến tăng cung ứng tiền tệ và gây ra lạm
phát cao.
Khi chính phủ lâm vào tình trạng thâm hụt ngân sách thì có thể khắc phục bằng cách phát
hành trái phiếu chính phủ đẻe vay vốn từ người dân nhằm bù đắp phần thiếu hụt. Biện
pháp này không làm ảnh hưởng đến cơ số tiền và do vậy mà làm tăng mức cung ứng tiền
tệ và không gây ra lạm phát. Tuy nhiên khi sự thâm hụt trầm trọng và kéo dài thì chính
phủ phải áp dụng biện pháp in tiền.Việc phát hành tiền sẽ ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ
làm tăng mức cung ứng tiền, đẩy tổng cầu lên cao và làm tăng thêm tỷ lệ lạm phát. TUy
nhiên,đối với các nước đang phát triển, việc phát hành trái phiếu chính phủ gặp nhiều khó
khăn vì nguồn vốn trên thị trường còn hạn chế. Biện pháp in tiền được coi là có hiệu quả
nhất. Vì thế mà khi thâm hụt ngân sách càng nhiều và càng kéo dài thì tiền tệ sẽ tăng theo
và tỷ lệ gây lạm phát càng lớn
Còn đối với những quốc gia có nền kinh tế phát triển thì việc phát hành trái phiếu có lợi
hơn.Nhưng việc phát hành này kéo dài sẽ làm cầu về vốn sẽ tăng và lãi xuất tăng cao
hơn. Lúc này để giảm lãi xuất trên thị trưòng Ngân hàng Trung ương lại phải mua vào
các trái phiếu đó. Như thế mức cung tiền lại tămg lên
và dễ gây lạm phát.
Tóm lại, nếu như thâm hụt ngân sách kéo dài thì trong mọi trường hợp vẫn làm tăng
cung tiền và lạm phát xảy ra là một điều chắc chắn.
Một nguyên nhân nữa có thể gây ra lạm phát là tỷ giá hối đoái. Khi tỷ giá tăng đồng bản
tệ sẽ bị mất giá Khi đó tâm lý những người sản xuất trong nước muốn đẩy giá hàng lên
tương ứng với mức tăng tỷ giá hối đoái. Mặt khac khi tỷ giá hối đoái tăng, chi phí cho các
nguyên vật liệu, hàng hoá nhập khẩu sẽ tăng lên. Do đó giá cả của các hàng hoá này tăng
lên cao.Đây chính là lạm phát do chi phí đẩy
Bên cạnh đó các nguyên nhân liên quan đến chính sách của nhà nước, chính sách thuế,
chính sách cơ cấu kinh tế không hợp lý, mất cân đối cũng xảy ra lạm phát.
5) Biện pháp khắc phục lạm phát
Khi lạm phát tăng cao và kéo dài sẽ gây ra những hậu quả lớn, ảnh hưởng trầm
trọng đến đời sống nhân dân lao động và sự tăng trưởng kinh tế. ở mỗi nước tỷ lệ lạm
phát khác nhau với những nguyên nhân và tác động khác nhau. Do đó chính phủ ở các
nước sẽ có những biện pháp khác nhau. Tuỳ vào từng hoàn cảnh cụ thể chính phủ sẽ áp
dụng biện pháp tình thế và các biện pháp có tính chiến lược.
Từ lịch sử chống lạm phát ở các nước sẽ có những biện pháp điển hình sau:
-
Những biện pháp tình thế: là những biện pháp áp dụng nhằm làm giảm tức thời cơn
sốt lạm phát
Đầu tiên biện pháp tình thế mà các nước thường áp dụng là giảm lượng tiền cung
ứng trong lưu thông. Đây được gọi là biện pháp thắt chặt lượng cung tiền tệ hay còn
gọi là đóng bảng tiền tệ. Cụ thể là Ngân hàng trung ương ngừng thực hiện các nghiệp
vụ chiết khấu và tái chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng, dừng việc mua vào các
chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ, không phát hành tiền đề bù đắp bội chi
ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, đểlàm giảm lượng tiền cung ứng thì ngân hàng
trung ương sẽ bán các chứng khoán ngắn hạn, bán ngoại tệ, phát hành các công cụ nợ
của chính phủ để vay tiền trong nền kinh tế. Và ngân hàng cũng có thể ấn định mức
lãi xuất cao, từ đó sẽ khuyến khích người dân gửi tiền vào ngân hàng, doanh nghiệp
gửi tiền không kì hạn, dẫn đến lượng tiền trong lưu thông giảm.
Tiếp đến, đẻ khắc phục lạm phát chính phủ có thể sử dụng biện pháp thắt chặt chi tiêu
của mình như giảm cầu tiêu dùng của chính phủ, làm giảm sự tăng nhanh của tổng
cầu. Nhà nước cũng có thể hạn chế tăng tiền lương làm giảm lượng cầu chi tiêu của
dân cư.Ngoài ra chính phủ có thể đi vay và xin viện trợ từ nước ngoài… Một biện
pháp nữa được áp dụng là cải cách tiền tệ khi tỷ lệ lạm phát tăng quá cao trong khi
các biện pháp nêu trên chưa đạt được hiệu quả.
-
Cùng với những biện pháp tình thế, các nước còn sử dụng các biện pháp chiến lược
nhằm tác động đến sự phát triển lâu dài của nền kinh tế và làm cho cơ số tiền tệ ổn
định bền vững. Đó là các biện pháp :
Đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá, mở rộng lưu thông hàng hoá. Hàng hoá
trong nước ngày càng nhiều, quỹ hang tăng lên với số lượng, chủng loại đa dạng phong
phú. Ngoài ra chính phủ còn nhập hàng hoá về để bổ xung cho hàng hoá thiếu hụt trong
nước. Xuất kho dự trữ vàng và ngoại tệ để bán cho dân chúng, phát triển các ngành sản
xuất hàng hoá xuất khẩu và ngành du lịch.
Các doanh nghiệp thực hiện chiến lược cạnh tranh hoàn hảo :Sản phẩm để người tiêu
dùng chấp nhận được là yếu tố quan trọng. Như vậy cần phải cạnh tranh giá cả bằng việc
tìm mọi cách giảm chi phí.
Biện pháp chiến lược khác là kiện toàn bộ máy hành chính, cắt giảm biên chế quản lý
hành chính . Điều này sẽ làm giảm mức chi tiêu thường xuyên của Ngân sách nhà nước.
Mặt khác cần phải tăng cường công tác quản lý điều hành Ngân sách nhà nước dựa trên
việc tăng các khoản thu cho Ngân sách một cách hợp lý chống thất thu như thất thu về
thuế và điều chỉnh các khoản chi phù hợp và có hiệu quả nhất.
Phần II : Thực trạng lạm phát ở việt nam
1) Thực trạng và lịch sử lạm phát ở Việt Nam.
Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát cũng đã tồn tại của nó không công khai, các nghị
quyết của Đảng cộng sản Việt Nam không sử dụng khái niệm lạm phát mà chỉ sử dụng
cụm từ “ chênh lệch giữa thu và chi giữa hàng và tiền…”;” Thị trường vật giá không ổn
định…”
Sau một thời gian, lạm phát đã bộc phát công khai với mức bộc phát phi mã. Đảng đã
kịp thời nhận định tình hình này.
“ Chúng ta chưa có chính sách cơ bản về tài chính gắn liền với chính sách đúng đắn
về giá cả, tiền tệ, tín dụng. Các khoản chi ngân sách mang nặng tính bao cấp và một thời
gian dài vượt quá nguồn thu. Việc sử dụng vốn vay và viện trợ kém hiệu quả. Tất cả
những cái đó gây ra thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến thâm hụt ngân
sách trầm trọng “.
Trong điều hành vĩ mô phát triển nền kinh tế, mọi quốc gia trên thế giới đều phải
quan tâm tới chính sách tài chính, tiền tệ để chống lạm phát. Đối với nước ta hiện nay,
kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả đang là một vấn đề lớn đặt ra trong điều hành của
chính phủ, của các nhà quản lý vì sự phát triển và ổn định. Và về phương diện này, Việt
Nam đã thành công. Lạm phát đã giảm từ hơn 70% một năm vào năm 1986 xuống còn
35% một năm vào năm 1989. Đây là một thành công lớn, phản ánh kết quả từ nhiều yếu
tố như tự do hoá nền kinh tế, áp dụng một tỷ giá hối đoái thực tế hơn, ngươi dân không
còn tồn trữ hàng hoá, vàng và đô la bắt đầu tích luỹ bằng đồng tiền trong nước, xuất khẩu
dàu thô ngày càng tăng…Tuy nhiên, những tiến bộ vượt bậc trong năm 1989 đã không
được củng cố ngay bằng các chính sách tiền tệ và tài khoản thận trọng, do đó trong các
nhu năm 1992 và 1993, giá cả đã tăng gần 70% năm.
Lịch sử của lạm phát ở Việt Nam có thể chia thành những thời kỳ như sau :
_
Giai đoạn thứ nhất : Từ năm 1980 trở về trước, lạm phát được hiểu giống như định
nghĩa của Mác, cho nên chống lạm phát là tìm mọi cách hạn chế việc phát hành tiền vào
lưa thông.
_
Thời kỳ 1938-1945 : Ngân hàng Đông Dương cấu kết với chính quyền thực dân Pháp
đã lạm phát đồng tiền Đông Dương để voư vét của cải của nhân dân Việt Nam. Số tiền đó
được đem về Pháp đóng góp cho cuộc chiến chống phát xít Đức. Hậu quả năng nề của
lạm phát là nhân dân Việt Nam phải chịu giá sinh hoạt từ năm 1939-1945 bình quân là 25
lần.
_
Thời kỳ 1946-1954 : chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà do chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập và lãnh đạo đã phát hành đồng tài chính thay cho đòng Đông Dương và sau đó là
đòng ngân hàng thay cho sức người, sức của toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến 9 năm
đánh đuổi quân xâm lược Pháp, kết quả giải phóng hoàn toàn nửa đất nước.
_
Thời kỳ 1955-1965 : chính phủ tay sai Mỹ ở miền Nam Việt Nam liên tục lạm phát
đòng tiền miền Nam để bù lại cuộc chiến tranh chống lại phong trào giải phóng dân tộc ở
miền Nam. Mặc dù được chính phủ Mỹ đổ vào miền Nam một khối lượng hàng viện trợ
khổn lồ, giá trị hàng trăm tỉ USD cũng không thể bù đắp được chi phí bỏ ra.
_
Thời kỳ 1965-1975 : ở miền Bắc Việt Nam, chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà
phải tiến hành một cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ tại miền Bắc, giải phóng miền Nam thốn nhất đất nước, đã phát hành số tiền lớn (gấp
3 lần tiền lưa thông của năm 1965 ở miền Bắc) để huy động lực lượng toàn dân đánh
thắng quân xâm lược. Nhưng nhờ có sự viện trợ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các
nước XHCN anh em nên chúng ta đã hạn chế được lạm phát trong thời gian này.
_
Thời kỳ 1976 đến nay : sau khi thống nhất đất nước, chúng ta thiếu nhiều kinh
nghiệm trong thời bình nên duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp toàn diện,
không mở rộng sản xuất. XHCN không tiến hành hạch toán kinh doanh nên đã tự gây cho
mình nhiều khó khăn, sản xuất không đủ tiêu dùng, ngân sách không đủ chi tiêu, lạm phát
tiền giấy liên tục và bùng nổ dữ dội với tỷ lệ lên tới 3 con số. Nhưng kể từ năm 1999 đến
nay, với sự chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước thì lạm phát hiện nay chỉ dừng ở mức độ
tưong đối tốt cho sự phát triển nền kinh tế (15-17%). Có thể nói, đây là một thành công
không nhỏ của đất nước ta.
2) Đặc trưng của lạm phát ở nước ta.
Lạm phát ở Việt Nam cũng có những biểu hiện chung giống với lạm phát ở các quốc
gia khác như : chỉ số giá cả nói chung tăng phổ biến do vậy giá trị của đồng tiền giảm.
Song lạm phát ở Việt Nam có đặc trưng riêng do điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể.
_ Lạm phát của một nền kinh tế kém phát triển trong đó khu vực kinh tế nhà nước có
địa vị thống trị. Khu vực kinh tế nhà nước ở Việt Nam chiếm 1 tỷ trọng lớn hiếm có trên
thế giới. Thế nhưng, khu vực với số vốn đầu tư lớn và tỷ lệ chất xám cao này lại chỉ có
thể làm ra từ 30%-37% tổng sản phẩm xã hội. Các xí nghiệp quốc doanh nhìn chung nộp
cho ngân sách nhà nước một số tiền rất thấp so với số tiền nhà nước cung cấp để bù lỗ, bù
giá, cấp phát tín dụng, lãi xuất thấp. Ngược lại, khu vực tư nhân làm ăn có hiệu quả và
đóng góp một phần quan trọng trong ngân sách nhà nước. Chính những hoạt động của
các hãng kinh tế nhà nước với lãi giả lỗ thật đã làm cho thị trường hônx loạn, lỗ lãi khó
kiểm tra, từ đó hiệu quả kinh doanh giảm sút. Do vậy mà công tác giảm sút của nhà nước
không có hiệu quả dẫn đến thu không đủ bù chi và lạm phát xảy ra.
_ Lạm phát của một nền kinh tế độc quyền mà nhà nước có địa vị thốn trị trên mọi lĩnh
vực, cơ chế kinh tế quan liêu bao cấp. Trong nền kinh tế thị trường, một công ty mới
giành thế độc quyền phải tiến hành trang thiết bị máy móc, tổ chức lao động, tập trung
nguồn vốn…và khi đã ở vị trí độc quyền, nó sẽ bóp chết các địch thủ khác và cũng ít chú
ý hơn đến việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật dẫn đến sự suy thoái trong kinh doanh.
Trên thực tế, độc quyền ở Việt Nam cũng như ở các nước XHCN khác đã khống chế toàn
bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội. Và cùng với cơ chế quan liêu, mệnh lệnh đã triệt tiêu
mất các quan hệ thị trường làm cho nền kinh tế Việt Nam xa lạ với thị trường. Đây cũng
là nguyên nhân góp phần làm tăng lạm phát.
_ Ngoài những đặc điểm trên thì lạm phát Việt Nam có cơ cấu gồm những ngành kém
hiệu quả có sự ưu tiên phát triển. Mọi người đều thấy sự mất cân đối khi ưu tiên phát
triển công nghiệp nặng (vốn lớn, thu hồi lãi chậm)
_ Lạm phát ở một nước chịu ảnh hưởng nặng nề của các cuộc chiến tranh kéo dài do
đó chi phí cho lĩnh vực quốc phòng lớn, tiền trợ cấp cho gia đình chính sách nhiều.
Những khoản này làm tăng thâm hụt ngân sách và tăng lạm phát.
_ Việt Nam là nước nông nghiệp mà luôn chịu ảnh hưởng của thiên tai, hạn hán, mất
mùa…Do đó, ngân sách hụt đi do phải trợ cấp cho các vùng bị thiên tai.
3) Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở nước ta.
Phần trước, chúng ta đã đề cập đến nguyên nhân lạm phát nói chung, phần này ta xét
đến nguyên nhân lạm phát ở Việt Nam ở thời điểm cụ thể. Nguyên nhân dẫn đến lạm
phát ở Việt Nam có nhiều.
_ Thứ nhất : lạm phát nảy sinh từ trong chính các thể chế kinh tế quan liêu bao cấp, đóng
cửa…, hướng nền kinh tế Việt Nam phát triển các nghành có chi phí cao, tách rời cầu thị
trường, cô lập với thế giới bên ngoài dẫn đến sự mất cân đối giữa cung và cầu, thu với chi
ngân sách thể hiện nền kinh tế kém hiệu quả, các xí nghiệp làm ăn thua lỗ…Đó là những
nguyên nhân dẫn đến lạm phát phi mã.
_ Thứ hai : do sự điều hành sai lầm của bộ máy nhà nước, như xác định cơ cấu không
xuất phát từ hiệu quả. Sự đổi tiền và tăng giá năm 1985 là chính sách phá giá đồng tiền,
làm giảm niềm tin của dân vào đồng tiền của nhà nước, chính sách lãi xuất thấp so với
mức trượt giá làm cho người dân không muốn gửi tiết kiệm. Sự mất cân đối tài chính gây
lạm phát qua kênh tín dụng, ngân hàng nhà nước luôn phải phát hành tiền để cân đối các
nguồn vốn cho vay của ngân hàng, đáp ứng yêu cầu của các nghành kinh tế và xây dựng
cơ bản ngày càng tăng. Nhà nước lại không chủ động trong việc cân bằng cung cầu hàng
hoá, gây ra sự rối loạn trên thị trường, giá cả thay đổi một cách bất hợp lý so với giá quốc
tế. Mặt hàng giá cả bị nhích lên do cơn sốt xi măng, thép, xăng dầu và ngoại tệ.
_ Thứ ba : cho đến nay, xương sống của nền kinh tế Việt Nam vẫn là các doanh nghiệp.
những doanh nghiệp này đóng góp 37% vào ngân sách nhà nước. Việc làm ăn của nhiều
công ty xuất nhập khẩu hàng năm nhà nước phải bù lỗ, bù giá qua lớn chiếm gần 40%
tổng số thu chi cho ngân sách.
_ Thứ tư : môi trường đầu tư chậm cải tiến, tích luỹ ở trong nước còn ở mức thấp. Đầu tư
nhũng công trình có vốn lớn, thời gian thi công kéo dài qua sức chịu đựng của nền kinh té
trong khi đó nguồn thu hạn hẹp, thất thu lớn. Tình hình đó làm cho nguồn tài chính quốc
gia bị thâm hụt, không còn cách nào khác nhà nước buộc phải in tiền giấy bù đắp và đã
gây ra lạm phát.
_ Thứ năm : nguyên nhân từ cơ chế kinh tế độc quyền, cơ chế quan liêu bao cấp nặng
nề. Nhà nước can thiệp sâu vào các hoạt động của nền kinh tế. Các quan hệ tiền tệ không
phát huy một cách đầy đủ tác dụng kích thích, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cùng với những yếu kém của nền kinh tế, chúng ta còn đứng trước tác động mạnh mẽ
của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang lan rộng trong khu vực.
phần iii : các giải pháp kiềm chế lạm phát ở nước ta
1) Các quan điểm về khắc phục lạm phát.
_ Tăng lãi suất ngân hàng cao hơn mức lạm phát : thuyết tiền tệ Friedman được áp dụng.
Muốn khắc phục lạm phát cần phải thi hành chính sách “ hạn chế tiền tệ “ hay “ khắc khổ
“ thu, tăng lãi suất tín dụng của ngân hàng trung ương, hạn chế tăng lương, duy trì thất
nghiệp ở mức thấp.
_ Các cách tiếp cận khác :
+ Đối với mọi cuộc siêu lạm phát và lạm phát phi mã, hầu như đều gắn liền với sự tăng
trưởng nhanh chóng về tiền tệ, thâm hụt ngân sách lớn… nên đề ra những biện pháp giảm
mạnh tốc độ tăng cung tiền, cắt giảm mạnh mẽ chi tiêu và kiểm soát có hiệu quả việc
tăng lương danh nghĩa, chắc chắn sẽ chặn đứng và đẩy lùi lạm phát.
+ Đối với lạm phát vừa phải, muốn kiềm chế và đẩy lùi từ từ xuống mức thấp hơn cũng
đòi hỏi áp dụng chính sách nói trên. Tuy nhiên, biện pháp này kéo theo suy thoái và thất
nghiệp – một giá đắt – nên viẹc kiểm soát chính sách tiền tệ tài khoá trở nên phức tạp và
đòi hỏi phải hết sức thận trọng.
Có thể xoá bỏ lạm phát hay không ? Cái giả phải trả của việc xoá bỏ hoàn toàn lạm
phát không tương xứng với lợi ích đem lại của nó, vì vậy các quốc gia thường chấp nhận
lạm phát ở mức thấp và xử lý ảnh hưởng của nó chỉ số hoá các yếu tố chi phí như tiền
lương, giá vật tư, lãi suất… Đó là cách làm cho sự thiệt hại của lạm phát ít nhất.
2)
Các giải pháp chống lạm phát ở nước ta :
a) Giải pháp của Đảng và nhà nước :
Đảng cần nâng cao nhận thức chính trị, kinh tế. Đảng viên phải theo hướng đổi mới
trên mọi lĩnh vực. Đồng thời nhà nước phải vững mạnh chuyên chính vô sản, lập lại trật
tự kỷ cương xã hội, giữ vững phép nước phải kiên quyết thực hiện nguyên tắc tập chung
dân chủ trong hệ thống Đảng và các cơ quan nhà nước, đấu tranh không khoan nhượng,
xoá bỏ những đặc quyền, đặc lợi, những tư tưởng cục bộ địa phương đang làm trì trệ, tê
liệt những chủ trương chính sách nhà nước. Để làm được việc này, nhà nước cần ban
hành những đạo luật chung về kinh tế, các đạo luật cụ thể về giá cả, lao động, tái chính,
ngân hàng… làm cơ sở thống nhất cho việc thi hành trong cả nước đồng thời phải đề ra
chức năng thoái soát kiểm kê của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, xã hội… Ngoài
ra, nhà nước tạo điều kiện phát triển kinh tế ngoài quốc doanh. Nhà nước cho phép các
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được kinh doanh trên nhiều lĩnh vực. Pháp luật của
nhà nước đảm bảo các quyền lợi, quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các thành
phần kinh tế. Từ đây, các thành phần kinh tế tạo nên được cạnh tranh trong hoạt động,
gây sức ép với nhau để đổi mới, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động. Mục tiêu cụ
thể giảm tỷ lệ lạm phát xuống khoảng 30-40% năm 1994 và dưới 12% năm 1997, năm
1999 còn 3,6%.
b) Các biện pháp tiền tệ – tín dụng, thanh toán và giải pháp của ngân hàng trung
ương và các ngân hàng thương mại.
“ Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định về tăng cường nền tài chính,
tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hoá phát triển có hiệu quả “.
Như vậy, Đảng đã thấy rõ tầm quan trọng của việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát với
việc thi hành các chính sách tài chính, tín dụng, tiền tệ, xây dựng một nền tài chính lành
mạnh. Các giải pháp đó gồm :
+ Xoá bao cấp qua tín dụng
+ Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt ngoại tệ
+ Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách, cải tiến việc phân cấp quản lý
ngân sách
+ Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý, giáo dục. Việc thực hiện giải pháp
này không nằm ngoài nội dung hoàn thiện chính sách lãi suất.
Giảm hoặc rút bớt về một khối lượng lớn giấy bạc. Để thực hiện được điều này, chính
phủ và ngân hàng thường sử dụng các hình thức thu hút vốn vào quỹ ngân hàng như sau :
_ Khuyến khích doanh nghiệp, cá nhân gửi tiền vào ngân hàng (kể cả tiền gửi tiết kiệm
của người dân ) bằng cách nâng cao mức lãi suất trên mức lạm phát, với sự sụt giá đồng
bảng và chính sách bảo vệ bảo hiểm giá trị đồng vốn gửi vào ngân hàng.
_ Thu hẹp khả năng thanh toán cuối cùng các hối phiếu hoặc kỳ phiếu thương mại đối
với ngân hàng thương mại thông qua việc hạn chế chiết khấu và nâng cao tỷ lệ quỹ vốn
lao động.
_ ấn định giá hối đoái, hợp lý đồng bạc quốc gia theo chế độ một giá hối đoái và thực
hiện nghiêm ngặt điều kiện quản ký ngoại hối, biện pháp náy cho phép ngân hàng nhà
- Xem thêm -