Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm thành phố hồ chí min...

Tài liệu Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm thành phố hồ chí minh

.PDF
130
271
66

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ------------------ HOÀNG ANH THỰC TRẠNG ĐỊNH HƯỚNG GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Chuyên ngành: Tâm lý học Mã số: 60 31 80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. TRẦN THỊ QUỐC MINH Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Việt Nam đang trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội, hệ thống giá trị cũng thay đổi. Nhiều giá trị mới được tạo dựng, một số giá trị truyền thống khác được mở rộng về nội dung, v.v… Điều này đã ảnh hưởng đến định hướng hệ thống giá trị của mỗi cá nhân, nhất là thanh niên trong giai đoạn hiện nay. Giá trị được hiểu là tổ hợp các thuộc tính tâm lý của nhân cách. Giá trị tạo nên bản chất của nhân cách và qui định chiều hướng, tính chất của hành vi. Giá trị thể hiện ở vai trò, vị trí, lối sống của cá nhân. Vì thế, giá trị được coi là cốt lõi của nhân cách. Giá trị qui định hoạt động của cá nhân, là cơ sở để cá nhân tự đánh giá và điều chỉnh hoạt động và hành vi ứng xử trong cuộc sống. Vì thế lựa chọn giá trị phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, với truyền thống của dân tộc, phù hợp với yêu cầu của nghề nghiệp và điều kiện của bản thân là vấn đề phải cần quan tâm nghiên cứu một cách thoả đáng. SVSP cần định hướng giá trị đúng đắn để không chỉ tích cực trong học tập và rèn luyện ở trường sư phạm mà còn định hướng giá trị cho học sinh của mình khi đã là giáo viên. Do đó, xác định cấu trúc giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức cho SVSP có ý nghĩa xã hội to lớn. Nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị đã được các tác giả trong nước và trên thế giới đề cập đến như Ph.N. Gônôbôlin, V.A. Cruchetxki, Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thủy, Thái Duy Tuyên, Đặng Hữu Toàn, v.v… Trong những công trình nghiên cứu, các tác giả đã đề cập đến nhiều bình diện của giá trị và định hướng giá trị ở thanh niên như “Định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong nền kinh tế thị trường”, “Vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay”, “Hướng các giá trị đạo đức truyền thống theo hệ chuẩn giá trị Chân – Thiện – Mỹ”, “Giá trị đạo đức – Giá trị bản thân và giá trị xã hội”, v.v… Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy chưa có một đề tài nào nghiên cứu cụ thể về giá trị và định hướng giá trị đạo đức ở sinh viên các trường sư phạm nói chung và SVSP tại TPHCM nói riêng. Vì lẽ đó, tìm hiểu cụ thể các giá trị và định hướng giá trị đạo đức của SVSP là cần thiết. Từ những lý do trên, người nghiên cứu quyết định chọn đề tài “Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của sinh viên sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh”. 2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng định hướng giá trị đạo đức ở SVSP, đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức của SVSP Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3.1. Khách thể nghiên cứu: Nhân cách của SVSP 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng định hướng giá trị đạo đức của SVSP Thành phố Hồ Chí Minh 4. Giả thuyết nghiên cứu Hiện nay, SVSP ở TPHCM có nhận thức, thái độ và hành vi đạo đức khá tích cực trong các mối quan hệ của cuộc sống. Trong hệ thống giá trị đạo đức của SVSP ở TPHCM có sự kết hợp những giá trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức hiện đại. Có sự khác biệt tương đối giữa sinh viên nam và sinh viên nữ, giữa sinh viên ở các tỉnh lên thành phố học với sinh viên sống tại TPHCM, giữa sinh viên năm đầu và sinh viên năm cuối, và giữa sinh viên một số trường sư phạm ở TPHCM. Nếu xác định được các giá trị đạo đức ở SVSP hiện nay sẽ tìm ra các giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức một cách đúng đắn cho SVSP. 5. Nhiệm vụ nghiên cứu 5.1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận về giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức. 5.3. Khảo sát thực trạng định hướng giá trị đạo đức của SVSP TPHCM 5.4. Đề xuất một số giải pháp giáo dục định hướng giá trị đạo đức cho SVSP. 6. Phạm vi nghiên cứu 6.1. Về nội dung: đề tài chỉ tập trung nghiên cứu định hướng giá trị đạo đức trong hệ thống giá trị nhân cách. 6.2. Về phạm vi khảo sát: khảo sát định hướng giá trị đạo đức của sinh viên ở một số trường sư phạm trong địa bàn TPHCM năm học 2006 – 2007. 7. Phương pháp nghiên cứu 7.1. Phương pháp luận: Triết học Mac – Lênin, quan điểm hệ thống cấu trúc, quan điểm hoạt động – nhân cách 7.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: - Các phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, so sánh, trừu tượng hoá, khái quát hóa,… - Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Điều tra bằng phiếu câu hỏi, phỏng vấn, quan sát - Phương pháp toán thống kê: Sử dụng SPSS Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ● Giá trị là một khái niệm được nghiên cứu trên phạm vi rất rộng và ở nhiều lĩnh vực khác nhau như kinh tế, tâm lý và giáo dục. Trong kinh tế, “Giá trị” có khi được dùng chỉ tính tiện ích của hàng hoá. Trong Tâm lý học, “giá trị” được dùng để chỉ thuộc tính tâm lý cá nhân. Còn trong Giáo dục học, “giá trị” được hiểu như là thành phần cốt lõi của đạo đức cần giáo dục cho học sinh. Trong những năm cuối của thế kỉ 20, vấn đề giá trị và định hướng giá trị ngày càng được nhiều nước quan tâm và nghiên cứu như Ba Lan, Liên Xô, Bungary, Nhật Bản, Hungary, v.v... Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề của giá trị như nội dung (gồm giá trị đạo đức, giá trị kinh tế, giá trị thẩm mỹ) [41, tr.108], cấu trúc của giá trị và một số giá trị cơ bản như hợp tác, tự do, hạnh phúc, trung thực, khiêm tốn, tình yêu, hòa bình, tôn trọng, trách nhiệm, giản dị, khoan dung, đoàn kết [72, tr.1], công cụ để đo đạc và kiểm chứng giá trị, những tác động của thế giới đến sự thay đổi các giá trị và nhấn mạnh sự khủng hoảng giá trị là một vấn đề toàn cầu và những giá trị được toàn cầu chấp nhận trong giai đoạn hiện nay, đó là tinh thần tập thể, sự bảo vệ đời sống con người, bảo vệ thiên nhiên và chân giá trị nhân loại, sự công bằng, tự do, bình đẳng. Ở Việt Nam, đã có nhiều công trình nghiên cứu về giá trị và định hướng giá trị như “Tổng quan về giá trị và giáo dục giá trị”, đề tài KX-07-04 (1993) do Lê Đức Phúc và Mạc Văn Trang thực hiện; “Định hướng giá trị của thanh niên sinh viên trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” (1995), Luận án Tiến sĩ của Dương Tự Đàm; “Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá trị” - Đề tài KX-07-04 (1995) do Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Thạc, Mạc Văn Trang làm chủ nhiệm. Các đề tài đã nêu định hướng giá trị chung trên các lĩnh vực nhân cách, nghề nghiệp, khu vực và giới tính. Trong cuốn “Về giá trị và giá trị châu Á”, Hồ Sỹ Quý đã phân tích những giá trị truyền thống Châu Á và nền văn hoá Việt Nam đồng thời phân tích sự biến động một số giá trị ưu trội trong bảng giá trị Châu Á tại Việt Nam như cần cù, hiếu học, gia đình và cộng đồng trước tác động của quá trình toàn cầu hoá. Chức năng và ý nghĩa cơ bản của giá trị cũng như những giá trị mới trong tư tưởng và lối sống của thanh niên Việt Nam cũng được các nhà khoa học, nhà giáo Việt Nam như Nguyễn Quang Uẩn, Trần Trọng Thuỷ, Đỗ Long trình bày trong các bài báo khoa học đăng trên tạp chí chuyên ngành hay trong các công trình nghiên cứu (Luận án Tiến sĩ của Đỗ Ngọc Hà, 2002). ● Đạo đức và giáo dục đạo đức là một vấn đề được nghiên cứu từ xa xưa. Nhà Triết học cổ Hy Lạp Platon đề cao giáo dục “chân, thiện, mỹ” trong nghiên cứu Triết học. Aristote đã nói đến đức dục trong ba mặt: Thể, Đức, Trí [64, tr.43]. Đặc biệt Khổng Tử đã đưa ra những chuẩn mực cần có của người quân tử. Theo ông, người quân tử phải sống theo chữ “Nhân” và tôn thờ chữ “Lễ”, giữ kỷ cương trật tự của luật gia, phép nước [65, tr.57]. Các quan niệm về đạo đức, về thiện, ác lần lượt xuất hiện trong các tác phẩm của Ph. Ănghen, Heghen, Phơbach, Kant. Hêghen quan niệm “ác” là những dục vọng xấu xa của con người như “lòng tham lam”, “sự thèm muốn”; Phơbach coi “cái thiện tuyệt đối” là tình yêu thương đồng loại [28, tr.7]. Đặc biệt Kant đã cho ra đời hẳn một học thuyết về đạo đức, được gọi là “Đạo đức học Kant”. N.A. Lyapin, A.G. Côvalép, Liđya và Bôgiôvic (1962), trong cuốn “Cơ sở tâm lý học của đức dục” đã trình bày các thành phần của đạo đức gồm “thói quen đạo đức”, “tình cảm đạo đức”, “quan điểm – khái niệm đạo đức” như là những thành phần tạo nên “niềm tin” – cốt lõi của vấn đề hình thành và giáo dục đạo đức. Ở Việt Nam, “đạo đức” từ lâu đã trở thành tiêu chí đánh giá về tư tưởng và lối sống của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hoá coi tư tưởng, lối sống mà cụ thể là việc định hướng giá trị đạo đức có quan hệ mật thiết đến mức tổ hợp thành một vấn đề trọng tâm và cấp bách trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nghiên cứu về các giá trị đạo đức, nguồn gốc hình thành giá trị đạo đức Việt Nam và định hướng giá trị đạo đức được Trần Văn Giàu, Vũ Khiêu, Trần Văn Khuê, Huỳnh Khái Vinh, v.v… trình bày trong các công trình nghiên cứu của mình. Lối sống đạo đức của SVSP với nhiều mặt biểu hiện, đề xuất nhiều biện pháp tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên được Nguyễn Quang Uẩn phân tích trong đề tài “Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên Đại học Sư phạm, phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, mã số 96/08. Một nhóm tác giả thuộc trường ĐHSPKT TPHCM thực hiện đề tài “Đạo đức sinh viên Việt Nam hiện nay – thực trạng và xu hướng biến đổi” (2006), trong đó, các vấn đề như đạo đức, vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội, những yêu cầu về nội dung đạo đức của sinh viên trong sự phát triển của xã hội Việt Nam, thực trạng đạo đức của sinh viên Việt Nam hiện nay ở các tỉnh phía Nam, v.v… được đề cập. Những bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như Triết học, Tâm lý học, Giáo dục đã nêu lên nhiều quan điểm, ý kiến phân tích vấn đề định hướng giá trị và giá trị đạo đức của thanh niên hiện nay. Như trong bài “Những suy nghĩ về sự thay đổi thang giá trị đạo đức trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam hiện nay” [20], tác giả Trần Hoàng Hảo đã nêu lên những nguyên nhân dẫn đến sự biến động phức tạp trong giá trị đạo đức ở nước ta, đó là sự bất cập giữa lý luận với thực tế xã hội, mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, giữa lý trí với tình cảm, giữa lý tưởng và hiện thực,.v.v… Tác giả kết luận: “…đạo đức truyền thống là một trong những nhân tố quan trọng góp phần tạo ra môi trường bền vững cho sự phát triển kinh tế công nghiệp hoá - hiện đại hoá”. Nhìn chung, tất cả những đề tài khoa học đã nghiên cứu về giá trị, định hướng giá trị, đạo đức và giáo dục đạo đức đều thể hiện một cách chung chung hoặc chỉ đề cập theo diện rộng với các giá trị truyền thống của dân tộc, hoặc đi theo hướng giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ. Cần phải có những công trình nghiên cứu hệ thống giá trị đạo đức của một nhóm khách thể cụ thể dưới góc độ lứa tuổi, hay ngành nghề nhất định. 1.2. Giá trị và định hướng giá trị 1.2.1. Giá trị a. Khái niệm giá trị Giá trị (Value) được nhiều khoa học nghiên cứu như Triết học, Xã hội học, Tâm lý học dưới nhiều bình diện, khía cạnh khác nhau như sự hình thành, tồn tại, nội dung và điều kiện hình thành, cũng như ý nghĩa của giá trị đối với cá nhân và xã hội nhất định. • Triết học Mácxít nhấn mạnh bản chất xã hội, tính lịch sử, tính nhận thức và tính thực tiễn của giá trị. Chủ nghĩa Mac – Lênin coi giá trị là những hiện tượng xã hội đặc thù, mọi giá trị đều có nguồn gốc từ lao động sáng tạo của con người. Nói đến quan điểm giá trị, bao giờ cũng nói đến mối quan hệ giữa khách thể và chủ thể. Các giá trị đều được nhận thức và kiểm nghiệm bằng thực tiễn. Rõ ràng là giá trị gắn với hoạt động của con người. Giá trị tồn tại thật, nhận thức được, kiểm chứng được và được hình thành, thay đổi trong thực tiễn cuộc sống xã hội của con người. • Tâm lý học xã hội nghiên cứu giá trị và định hướng giá trị trong cộng đồng, đồng thời, giải thích vai trò của chúng trong sự hình thành và phát triển của các hiện tượng tâm lý xã hội như tâm lý dân tộc, nhu cầu, thị hiếu, tập quán, lối sống của các nhóm xã hội. • Tâm lý học hoạt động đã xác định “giá trị là cái được chủ thể đánh giá thừa nhận trên cơ sở mối quan hệ với sự vật, hiện tượng đó”. Các nhà Tâm lý học nghiên cứu khái niệm giá trị nhằm mục đích tìm hiểu hành vi, hoạt động của con người và dự báo phát triển nhân cách. Trong đó chuyên ngành Tâm lý học nhân cách đề cập đến giá trị như là một bộ phận cấu thành nên tâm lý – nhân cách con người. Có thể nói giá trị là một phạm trù không thể thiếu được khi đề cập đến vấn đề nhân cách: Hoạt động – Giao tiếp – Giá trị - Nhân cách” [5, tr.261]. Giá trị được hiểu như thế nào? Có nhiều ý kiến khác nhau về giá trị, phổ biến nhất, tập trung nhất vẫn là tính có ích của giá trị đối với cá nhân và xã hội. Cụ thể như: “Tất cả cái gì có ích lợi, đáng ham chuộng, đáng kính phục đối với cá nhân, hoặc xã hội đều có một giá trị” (J.H.Fichter, nhà Xã hội học Hoa kỳ) và đồng tình với quan niệm này còn có V.P. Tugarinov, L. Dramaliev, J. Makiguchi,v.v... Makiguchi viết “giá trị của sự vật (có thể hiểu là bao gồm sự vật và hiện tượng – người nghiên cứu) là cái được chủ thể thừa nhận, trên cơ sở mối quan hệ của sự vật với chúng ta là có tầm quan trọng trong cuộc sống” [41, tr.108]. Một số tác giả Việt Nam như Trần Văn Giàu, Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Văn Huyên, Huỳnh Khái Vinh, v.v… đều cho rằng giá trị là tính có nghĩa tích cực, tốt đẹp, đáng quý, có ích của các đối tượng với các chủ thể. Chủ thể ở đây có thể là một nhóm người, một giai tầng, một dân tộc hoặc một thời đại [63, tr.49]. Theo Nguyễn Quang Uẩn, giá trị của một sự vật hay hiện tượng đều được thừa nhận một cách khách quan dựa vào mối quan hệ giữa chủ thể và nhu cầu đối với sự vật, hiện tượng đó. Từ những phân tích ở trên, theo chúng tôi, giá trị có thể được hiểu là mức độ cho thấy tính có lợi ích, có ý nghĩa của sự vật, hiện tượng, gắn liền với nhu cầu của cá nhân con người hay nhóm người. b. Phân loại giá trị Có nhiều cách phân loại giá trị. Tùy thuộc vào mục đích tiếp cận mà các tác giả phân chia giá trị như sau: - Dựa vào sự thỏa mãn nhu cầu vật chất hay nhu cầu tinh thần của con người mà giá trị được chia thành giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Giá trị vật chất như giá trị sử dụng, giá trị kinh tế. Giá trị tinh thần như giá trị khoa học, giá trị chính trị, giá trị đạo đức, giá trị pháp luật, giá trị tôn giáo. - Căn cứ vào các giá trị chi phối hệ thống hành vi lớn của con người, M. Popon và J.R. William đã đề xuất các giá trị chủ yếu gồm các giá trị tồn tại sinh học, các giá trị tính cách, các giá trị văn hóa và các giá trị xã hội [77, tr.58]. - Dựa trên các lĩnh vực hoạt động của con người, Huỳnh Khái Vinh chia giá trị thành các nhóm: Giá trị nhân văn, giá trị đạo đức, giá trị văn hoá, giá trị chính trị, luật pháp, giá trị kinh tế. [83, tr.60]. Đồng quan điểm với Huỳnh Khái Vinh có J.H. Fichter, M. Popon và J.R. William. Mặc dù cách phân loại này mang tính toàn vẹn trong cấu trúc hệ thống của các loại giá trị, nhưng vẫn chưa thể hiện một cách tách bạch trong sự biểu hiện các giá trị cụ thể, và điều này dẫn đến khó khăn trong khi nghiên cứu. Mỗi cách phân loại giá trị thể hiện mỗi khía cạnh khác nhau và không có cách phân loại nào thể hiện đầy đủ mọi phương diện giá trị vốn dĩ rất phong phú trong cuộc sống. Điều quan trọng là khi xem xét các giá trị, cần xác định chúng trong một hệ thống - cấu trúc, đặt chúng theo các thứ bậc và chú ý tính đa dạng trong các biểu hiện sinh động của từng giá trị. Trong đề tài này, chúng tôi phân loại giá trị dựa trên mức độ nhu cầu của con người, trong đó, đạo đức là một trong những nhóm giá trị tinh thần quan trọng, chi phối hành vi lối sống của con người (được trình bày ở phần dưới). c. Hệ giá trị, thang giá trị và chuẩn giá trị - Hệ giá trị (hay còn gọi là hệ thống giá trị) là một tổ hợp giá trị khác nhau được sắp xếp, hệ thống lại theo những nguyên tắc nhất định, thành một tập hợp mang tính toàn vẹn, hệ thống, thực hiện các chức năng đặc thù trong việc đánh giá của con người theo những phương thức vận hành nhất định của giá trị [77, tr.62]. Các hệ giá trị có vị trí độc lập tương đối và tương tác với nhau theo những thứ bậc phù hợp với quá trình thực hiện các chức năng xã hội trong mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Do vậy, hệ thống giá trị luôn mang tính lịch sử xã hội và chịu sự chế ước bởi lịch sử - xã hội. Trong hệ thống giá trị có chứa đựng các nhân tố của quá khứ, của hiện tại và có thể cả những nhân tố trong tương lai, các giá trị truyền thống, các giá trị thời đại, các giá trị có tính nhân loại, tính dân tộc, tính cộng đồng, tính giai cấp, tính lý tưởng và tính hiện thực v.v... - Thang giá trị (thước đo giá trị) là một tổ hợp giá trị, một hệ thống giá trị được sắp xếp theo một trật tự ưu tiên nhất định. Thang giá trị biến đổi theo thời gian, theo sự phát triển, biến đổi của xã hội loài người, cộng đồng và từng cá nhân. Trong quá trình biến đổi đó, thang giá trị của xã hội, của cộng đồng và của nhóm chuyển thành thang giá trị của từng người, cứ thế qua từng giai đoạn lịch sử của con người. Thang giá trị là một trong những động lực thôi thúc con người hoạt động. Hoạt động được tiến hành theo những thang giá trị cụ thể sẽ tạo nên những giá trị nhất định, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người. Chính trong hoạt động tạo ra những giá trị lại góp phần khẳng định, củng cố, phát huy, bổ sung, hoàn thiện hoặc thay đổi thang giá trị. - Chuẩn giá trị là những giá trị giữ vị trí ở thứ bậc cao, vị trí cốt lõi, then chốt trong thang giá trị, là chuẩn mực chung cho nhiều người. Hay nói cách khác, chuẩn giá trị là các giá trị cốt lõi được lựa chọn, đánh giá và được xác định như các chuẩn mực chung cho đại đa số thành viên xã hội [83, tr.62]. Chuẩn giá trị luôn tồn tại và phát triển thông qua mối quan hệ tương tác, nhất là các mối liên hệ cấu trúc theo tầng bậc trong bảng giá trị xã hội để bảo đảm tính ổn định và tính đa dạng của thang giá trị xã hội. Các chuẩn giá trị xã hội đóng vai trò chuẩn mực cho các giá trị khác và là chuẩn cơ bản cho định hướng giá trị của đại đa số thành viên xã hội. Ở Việt Nam, chuẩn giá trị thường mang ý nghĩa luân lý sâu sắc. Theo Hồ Chủ tịch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung với nước, hiếu với dân là thang giá trị cao nhất, là thước đo giá trị của người Việt Nam, trong đó cái “đức”, cái “thiện” là cốt lõi, là chuẩn của mọi giá trị. Theo Trần Văn Giàu, những giá trị đạo đức tốt đẹp, chuẩn mực thường được gọi là phẩm giá, phẩm chất [77, tr.65]. Trải qua nhiều thời kỳ với bao khó khăn, thăng trầm của đất nước, dân tộc, nhưng hạt nhân cơ bản của thang giá trị, thước đo giá trị và nhân phẩm con người Việt Nam ngày nay vẫn là các giá trị nhân văn truyền thống như lòng tự hào dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, trung với nước, hiếu với dân, nhân nghĩa, cần cù, thông minh, năng động, sáng tạo. Mặc dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận, xã hội Việt Nam hiện tại đang có sự biến động nhanh chóng, rõ nét thậm chí khủng hoảng, đảo lộn về thang giá trị, chuẩn giá trị xã hội trong một bộ phận thanh niên Việt Nam thể hiện trong suy nghĩ, lối sống và trong hành vi ứng xử như “sống suy đồi, thoái hoá một cách nghiêm trọng, ham tư lợi, vị kỉ, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng.v.v… suy đồi đến mức lãng quên, coi thường những chất liệu sống cơ bản”. Điều quan trọng không phải là lên án, kết tội một bộ phận nhỏ lớp trẻ đang có lối sống như trên, mà cần tiếp tục nghiên cứu để có những nhận định, đánh giá đúng đắn, khách quan tình hình biến đổi của thang giá trị, chuẩn giá trị ngày nay, để có những định hướng giá trị đúng đắn cho xã hội, cho từng nhóm người, từng cá nhân để họ tạo ra những giá trị tốt nhất cho xã hội. d. Vai trò của giá trị Giá trị có tác dụng như những chuẩn mực, quy tắc để định hướng con người hướng tới mục tiêu, thúc đẩy và điều chỉnh hành động của con người nhằm đạt tới những mục tiêu đó. Giá trị là cơ sở của việc đánh giá thái độ, hành vi nào là đúng và nên có, ngược lại thái độ, hành vi nào là sai và không nên có. Sự thống nhất, ổn định về tâm lý, tinh thần, đạo đức của cá nhân và xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị. Nó là thang bậc, chuẩn hành vi để các thành viên của xã hội so sánh, đối chiếu, phân biệt được những hành động và suy nghĩ tốt đẹp, tích cực hoặc tiêu cực, sai lệch. Các giá trị hình thành nên ý thức, thái độ và sức mạnh dư luận của đạo đức để đối phó với những hành vi đi ngược lại lợi ích xã hội. Giá trị có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển nhân cách, đối với mỗi một con người (cá nhân, nhân cách), giá trị có hai chức năng cơ bản: Thứ nhất, là cơ sở cho sự hình thành và bảo tồn những định hướng giá trị trong ý thức của con người, cho phép cá nhân giữ một lập trường xác định, bày tỏ quan điểm của mình, đánh giá và phê phán. Các giá trị - đó là một bộ phận của ý thức mà thiếu nó thì không thể có nhân cách được. Thứ hai, thúc đẩy hành vi, hoạt động, bởi vì sự định hướng của con người trong thế giới xung quanh và nguyện vọng đạt được các mục đích riêng lẻ của họ đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc nhân cách. 1.2.2. Định hướng giá trị Định hướng (theo cách hiểu thông thường) nghĩa là lựa chọn, xác định cho mình lối đi, cách làm hay rộng hơn là hành động, lối cư xử sao cho phù hợp với bản thân, với tồn tại xung quanh. Hiểu như vậy, “định hướng” có liên quan đến “xu hướng” trong Tâm lý học. Theo Từ điển bách khoa toàn thư Xô viết, “Hệ thống định hướng giá trị tạo thành nội dung xu hướng của nhân cách và là cơ sở bên trong các mối quan hệ giữa cá nhân với thực tại” [77, tr.66]. Vì thế, khi nghiên cứu “định hướng giá trị” không thể không tìm hiểu “xu hướng” Xu hướng là một trong những thuộc tính tâm lý của nhân cách cùng với tính cách, khí chất và năng lực tạo thành toàn bộ các đặc điểm tâm lý ổn định của con người, quy định hành vi và giá trị xã hội của cá nhân. Vì thế, Xu hướng được hiểu là một thuộc tính tâm lý điển hình của cá nhân, bao hàm trong nó một hệ thống những động lực qui định sự lựa chọn các thái độ của nó” [78, tr.186]. Xu hướng nhân cách được biểu hiện ở một số mặt chủ yếu như nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin. Những phạm trù nằm trong xu hướng trên đều hàm chứa nội dung những giá trị sống mà mỗi cá nhân hay tập thể xác định cho mình trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Như vậy, xu hướng có thể được xem là nguồn gốc để nảy sinh những định hướng giá trị của con người, vì nếu không có những động lực qui định, người ta sẽ không lựa chọn những giá trị vật chất hay tinh thần tương tự. Định hướng giá trị được hiểu theo nhiều hướng như: • “Định hướng giá trị là phương thức chủ thể sử dụng để phân biệt các sự vật theo ý nghĩa của chúng đối với chính mình, từ đó hình thành nội dung cơ bản của xu hướng, động cơ hoạt động” [13, tr.60]. Hiểu theo hướng này thì định hướng giá trị nằm trong nội hàm ý nghĩa của “xu hướng”, và có quan hệ chặt chẽ với các hoạt động tâm lý tiền thân của sự hình thành nhân cách như tình cảm, ý chí… • “Định hướng giá trị là khuynh hướng chung đã được qui định về mặt xã hội, được ghi lại trong tâm lý của cá nhân, nhằm vào mục đích và phương tiện hoạt động trong lĩnh vực nào đó” [34, tr.56]. • Ladov cho rằng: “Định hướng giá trị là những biểu tượng của con người về những mục đích chủ yếu của cuộc đời và các phương tiện cơ bản đạt những mục tiêu ấy. Định hướng giá trị đóng vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các chương trình hành vi lâu dài. Chúng hình thành trên cơ sở nhu cầu của chủ thể về việc nắm vững những hình thức cơ bản của hoạt động sống trong những điều kiện lịch sử cụ thể xác định và do tính chất của các quan hệ xã hội qui định. Các quan hệ xã hội này là nguồn gốc khách quan hình thành những nhu cầu ấy”. • Một số tác giả Việt Nam như Phạm Minh hạc, Trần Trọng Thuỷ, Huỳnh Khái Vinh đều cho rằng “định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư cách là những tiêu chuẩn hành vi của mình, định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân”. Thật khó có thể thâu tóm khái niệm định hướng giá trong một hai dòng, nên chúng tôi tiếp cận “định hướng giá trị” theo các ý sau đây: - Định hướng giá trị là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị với tư cách là những tiêu chuẩn hành vi của cá nhân hay của nhóm. - Định hướng giá trị được hình thành trong quá trình cá nhân hoặc nhóm người gia nhập vào các quan hệ xã hội với tư cách chủ thể của các hoạt động đó, hướng vào các giá trị có ý nghĩa cơ bản đối với cá nhân hay nhóm. - Quá trình định hướng giá trị bao giờ cũng chứa đựng các yếu tố nhận thức (đánh giá), ý chí và cảm xúc (thử nghiệm) cũng như các khía cạnh đạo đức, thẩm mỹ trong sự phát triển nhân cách. - Định hướng giá trị là cơ sở bên trong của hành vi, quyết định lối sống của cá nhân đó. Từ cách tiếp cận trên, khi nghiên cứu về định hướng giá trị cần nhìn nhận một cách toàn diện về nhận thức, thái độ đánh giá, lựa chọn và biểu hiện ra thành hành vi của cá nhân hay nhóm đối với các giá trị trong quá trình sống và hoạt động của mình. Quá trình hình thành định hướng giá trị Có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh quá trình định hướng giá trị. Paths, Harmin và Simon đã đề xuất bảy giai đoạn của quá trình định hướng giá trị [77, tr.73], được nêu trong bảng 1.2.2. Từng giai đoạn được các tác giả giải thích như sau: - Chọn tự do là sự lựa chọn không bị thúc đẩy bởi một quyền lực hay một sự cưỡng bách nào đó mà cá nhân tâm niệm, gửi gắm vào một sở thích, một mục đích nào đó. Còn chọn từ các khả năng lựa chọn khác nhau là có nhiều khả năng lựa chọn, cần phải xác định một tiêu chuẩn thích hợp làm cơ sở cho một mối quan tâm, một chủ định, hay một hành động. Cuối cùng, lựa chọn trên cơ sở đã dự đoán kết quả có thể có của từng khả năng lựa chọn. - Cân nhắc và tâm niệm là người ta ấp ủ tâm niệm hoặc cân nhắc một cái gì mà người ta có cảm tình với nó. Còn khẳng định là sau khi cái lựa chọn đã được cân nhắc và tâm niệm, người ta khẳng định và gắn bó với các lựa chọn đó. - Hành động theo lựa chọn là giai đoạn quan trọng trong quá trình định hướng giá trị, thông qua hành động mà cái lựa chọn bộc lộ bản chất của giá trị. Lặp lại hành động: Đây là bước cuối cùng trong quá trình định hướng giá trị. Các giá trị phải được bộc lộ qua quá trình lặp lại hành động. Các cá nhân hành động phù hợp và kiên trì theo các giá trị mà mình ấp ủ, tâm niệm. Bảng 1.2.2. Các giai đoạn của quá trình định hướng giá trị Các quá trình Chọn lựa Cân nhắc (đánh giá) Các giai đoạn 1. Tự do 2. Từ các khả năng lựa chọn khác nhau 3. Sau khi dự đoán kết quả của từng khả năng lựa chọn 4. Tâm niệm, cảm thấy vui mừng với những lựa chọn đã tiến hành 5. Sẵn sàng khẳng định sự lựa chọn đó một cách công khai Hành động 6. Làm một cái gì đó theo sự lựa chọn 7. Lặp lại hành động một vài dịp theo mẫu đó trong đời Như vậy, tập hợp những quá trình trên đây xác định sự đánh giá giá trị. Kết quả của quá trình định hướng giá trị là khẳng định được giá trị. Định hướng giá trị đó chính là hình thành nhân cách, chịu sự tác động của cả yếu tố chủ quan lẫn khách quan. Hệ thống giá trị mà cá nhân hay nhóm định hướng được đều mang tính đặc thù riêng biệt, đan xen vào nhau, thể hiện tính lịch sử và xã hội rõ rệt. Do vậy, các giai đoạn trên diễn ra trong suốt quá trình sống và hoạt động của con người, không lúc nào ngừng nghỉ. Định hướng giá trị là một trong những yếu tố quan trọng của xu hướng, của cấu trúc bên trong nhân cách, là cơ sở điều chỉnh hành vi và lối sống cá nhân. Sự định hướng giá trị ổn định tạo nên những nét đặc trưng của ý thức, động cơ, đảm bảo tính mục đích, tính tích cực và sự kiên định của nhân cách trong hoạt động, khi xử trí các quan hệ xã hội theo một phương hướng và nguyên tắc nhất định. Định hướng giá trị còn có vai trò hết sức quan trọng trong nhận thức chính trị, tư tưởng, trong việc hình thành ý thức, ý chí và cảm xúc của con người. Nó vừa là nhân, vừa là quả của đạo đức, lối sống, niềm tin, lý tưởng của con người trong quá trình sống. Việc xây dựng hệ thống giá trị và định hướng giá trị đúng đắn, tích cực có vai trò rất lớn trong công tác giáo dục thanh thiếu niên nói chung, sâu xa hơn là phòng ngừa tội phạm và giáo dục vị thành niên phạm pháp. Nó góp phần hình thành ý thức công dân, trách nhiệm công dân trong điều kiện của nền kinh tế thị trường. Giáo dục giá trị và định hướng giá trị theo chuẩn mực chung của xã hội thể hiện trong việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, trong việc thực hiện các nghĩa vụ cá nhân, tập thể và xã hội, nhằm hạn chế tính vị kỷ cá nhân, lơ là trách nhiệm của mình trước tập thể, trước xã hội. 1.3. Giá trị đạo đức và định hướng giá trị đạo đức 1.3.1. Giá trị đạo đức a. Đạo đức Từ trước đến nay, khái niệm đạo đức đã trở thành đối tượng nghiên cứu của rất nhiều ngành khoa học về con người như Triết học, Tâm lý học, Đạo đức học, Giáo dục học v.v... Đạo đức theo nghĩa gốc trong tiếng La tinh là “mos” - lề thói, có nghĩa là nói đến những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. - Dước góc nhìn của Triết học, Triết học Mac – Lênin định nghĩa: “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội” [39, tr.196]. Những hình thái của ý thức xã hội bao gồm ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức khoa học, ý thức thẩm mỹ, ý thức tôn giáo và triết học. Hình thái ý thức đạo đức là thành phần cốt lõi, là một trong những hình thái ý thức ra đời rất sớm trong lịch sử, ngay từ xã hội nguyên thuỷ. Hình thái ý thức đạo đức bao gồm toàn bộ những quan niệm, tri thức và các trạng thái xúc cảm tâm lý chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công bằng, lòng tự trọng, v.v... và về những quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội. Đạo đức bị qui định, bị chi phối bởi tồn tại xã hội, và cũng tác động góp phần làm thay đổi tồn tại xã hội. Đấy chính là tính biện chứng của giá trị đạo đức, theo cách tiếp cận của Triết học. - Dưới góc nhìn của Tâm lý học, đạo đức là một bộ phận, một thành phần trong cấu trúc nhân cách, bao gồm hệ thống phẩm chất (đức), và hệ thống năng lực (tài). Trong hệ thống phẩm chất, có phẩm chất xã hội như thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, lập trường, thái độ chính trị, thái độ lao động; phẩm chất cá nhân gồm các nết, các thói, các “thú” (ham muốn); và phẩm chất ý chí như tính kỷ luật, tính tự chủ, tính mục đích, tính quả quyết, tính phê phán… Phẩm chất cũng bao gồm cả cung cách ứng xử như tác phong, lễ tiết, tính khí… Rõ ràng, trong cách tiếp cận khái niệm đạo đức theo quan điểm Tâm lý học hoạt động như trên, đạo đức đã được thu lại trong một phạm vi hẹp, đó là những thái độ, hành vi tốt đẹp trong giao tiếp, ứng xử giữa cá nhân với người khác, cá nhân với chính mình trong các dạng quan hệ hoạt động xã hội khác nhau. - Dưới góc độ của Đạo đức học, đạo đức gắn với hành vi và động cơ hành vi của con người; đạo đức chỉ được xác định dựa trên ý nghĩa “lợi” hay “hại” của hành vi và động cơ con người. G. Banzeladze nói: “Nếu như động cơ hành vi của con người là xu hướng đem lại ích lợi cho xã hội thì chúng ta nói rằng động cơ này là một động cơ có đạo đức, hành vi được qui định bởi động cơ này là hành vi có đạo đức, và chủ thể của hành vi này là người có đạo đức. Ngược lại – có nghĩa là làm hại cho xã hội hoặc người khác – là vô đạo đức. Còn nếu như hành vi không làm lợi mà cũng không làm hại cho ai thì động cơ của hành vi, bản thân hành vi và chủ thể đó chẳng mang một giá trị đạo đức nào cả” [3, tr.99]. Theo Banzeladze, “Đạo đức là hệ thống những chuẩn mực biểu hiện sự quan tâm tự nguyện tự giác của những con người trong quan hệ với nhau và trong quan hệ với xã hội nói chung” [3, tr.104]. Tác giả còn phân tích một số phạm trù của đạo đức như Chuẩn mực đạo đức – đó là yêu cầu mà cá nhân đưa ra cho chính mình trong quá trình quan hệ qua lại với những người khác; Nghĩa vụ đạo đức – là tính tự xác định bên trong của cá nhân trong quan hệ với những người khác; Lương tâm – là tình cảm trách nhiệm trước nghĩa vụ đạo đức. Từ những phân tích trên, theo chúng tôi, đạo đức hiểu theo nghĩa rộng là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm một hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực xã hội được con người nhận biết, lực chọn, biểu hiện trong hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của người khác và tiến bộ xã hội trong mối quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội. Hiểu theo nghĩa hẹp, đạo đức là toàn bộ những phẩm chất tốt đẹp của con người trong giao tiếp và ứng xử với người khác, với cộng đồng. b. Vai trò của đạo đức Đạo đức có vai trò quan trọng trong cuộc sống cá nhân và xã hội. Khi đánh giá vai trò của đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh coi đạo đức là “cái gốc”, là nền tảng của người cách mạng. Người so sánh: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo” [66, tr.84]. Đạo đức có vai trò to lớn trong việc giúp con người sáng tạo ra hạnh phúc, nâng cao phẩm giá của cá nhân, giữ gìn và bảo vệ cuộc sống tốt đẹp của xã hội. Đạo đức thực hiện chức năng định hướng giáo dục: cung cấp cho con người hệ thống những tri thức, quan điểm, nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức cơ bản để con người có những hành xử hợp lý, được mọi người và xã hội chấp nhận; chức năng điều chỉnh hành vi: trong cuộc sống, con người có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, có những vấn đề đòi hỏi bản thân phải đặt mình trong các mâu thuẫn giữa cái phải làm và cái không nên làm. Khi đó, đạo đức giúp cá nhân có sự lựa chọn, cân nhắc và điều chỉnh hành vi phù hợp với chuẩn mực xã hội và mang lại sự an bình cho chính lương tâm của mình. Đạo đức còn thực hiện các nhiệm vụ như chi phối các mối quan hệ xã hội. Mỗi cá nhân có thể tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội như quan hệ kinh tế, quan hệ chính trị, quan hệ văn hoá, quan hệ khoa học… Mối quan hệ nào cũng đều chứa đựng trong nó quan hệ đạo đức sâu sắc, góp phần làm cho các quan hệ đó có ý nghĩa. Khi đặt thành tố đạo đức vào quan hệ nào thì nó sẽ mang sắc thái đặc thù do các quan hệ đó chi phối. Đạo đức còn vạch ra những yêu cầu, tiêu chuẩn, nguyên tắc đạo đức phù hợp với những giá trị tốt đẹp, nhân cách mới của xã hội để cá nhân lựa chọn, định hướng, điều chỉnh hành vi ứng xử của mình trong quan hệ với người khác và xã hội. Mặt khác, đạo đức còn có nhiệm vụ đấu tranh, phê phán, chống lại những khuynh hướng của đạo đức lạc hậu, không lành mạnh, cản trở cá nhân và xã hội vươn lên những giá trị văn minh, nhân bản. c. Giá trị đạo đức Như đã nói ở trên, giá trị đạo đức nằm trong hệ thống giá trị tinh thần, đóng vai trò là một yếu tố cấu thành nên diện mạo của một thời đại, một xã hội, một dân tộc, một nền văn hóa. Giá trị đạo đức là gì? Xem xét trên bình diện xã hội, giá trị đạo đức được định nghĩa: “là những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng và những quy tắc ứng xử nhằm điều chỉnh và chuẩn hóa hành vi của con người” [73, tr.35]. Xem xét tính lợi ích, bình diện cá nhân, giá trị đạo đức được định nghĩa là “những cái được con người lựa chọn và đánh giá như một việc làm có ý nghĩa tích cực đối với đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương” [46, tr.62]. Từ những ý kiến trên, theo chúng tôi, giá trị đạo đức được hiểu là những tiêu chuẩn lối sống được con người hay nhóm người thừa nhận và áp dụng trong hệ thống hành vi, thái độ của mình một cách có ích đối với các mối quan hệ trong đời sống xã hội, được lương tâm đồng tình và dư luận biểu dương. Kế thừa xuất sắc các quan điểm trong Triết học Mac – Lênin, Hồ Chí Minh đã xây dựng nên một hệ thống những tư tưởng về “đạo đức cách mạng”. Theo Người, “đạo đức cách mạng” là đạo đức của người làm cách mạng, của những người sống và làm việc để xây dựng đất nước, xây dựng xã hội luôn vận động đi lên. Từ quan điểm đó, hình thành nên những giá trị đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới, bao gồm: - Trung với nước, hiếu với dân "Trung" và "hiếu" không hiểu theo nghĩa "Trung với vua, hiếu với cha mẹ", mà là trung thành với tổ quốc, với đất nước, hiếu với nhân dân. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Nội dung chủ yếu của “trung với nước” là biết đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của cách mạng lên trên hết, lên trước hết; quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu cách mạng; thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nội dung chủ yếu của “hiếu với dân” là khẳng định vai trò sức mạnh thực sự của nhân dân; tin dân, học dân, lắng nghe ý kiến của dân, gắn bó mật thiết với dân, tổ chức, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. - “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là một biểu hiện sinh động của phẩm chất "trung với nước, hiếu với dân". “Cần” tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai. “Kiệm” là tiết kiệm vật tư, tiền bạc, của cải, thời gian, không xa xỉ, không hoang phí. “Liêm” là trong sạch, không tham lam tiền của, địa vị, danh tiếng. “Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. “Chí công vô tư” là không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào; là đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Thực hành “chí công vô tư” cũng có nghĩa là phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Các đức tính này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Cần mà không kiệm giống như một chiếc thùng không đáy. Kiệm mà không cần thì lấy gì mà kiệm. Cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Như một cây cần có gốc rễ, lại cần có cành, lá, hoa, quả mới là hoàn chỉnh. - Thương yêu con người là phải biết gần gũi thân thương đối với từng số phận con người, quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân. Tình thương yêu con người luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người. - Tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung là tôn trọng và thương yêu tất cả các dân tộc, nhân dân các nước, chống sự hằn thù, bất bình đẳng dân tộc và sự phân biệt chủng tộc. Từ những giá trị đạo đức mà Hồ Chủ Tịch nêu ra cho người cách mạng, các nhà nghiên cứu đã phân tích hệ thống giá trị đạo đức cho thanh niên Việt Nam trong giai đoạn hiện đại gồm ba nhóm, đó là: * Những giá trị đạo đức trong mối quan hệ với tổ quốc gồm: - Lòng yêu nước: Yêu mến dân tộc và tự hào về đất nước, trung thành và tận tụy với dân tộc, đất nước, sẵn sàng hy sinh khi tổ quốc lâm nguy. - Bình đẳng giữa các dân tộc: Tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc và cộng đồng. - Hài hòa tinh thần dân tộc và quốc tế: Biết chung sống hòa bình giữa các dân tộc, hài hoà giữa lợi ích dân tộc và quốc tế. * Những giá trị đạo đức với bản thân như: - Tự trọng: Biết giữ gìn nhân phẩm trong mọi điều kiện - Can đảm: Sẵn sàng chấp nhận sự rủi ro do quyết định của bản thân, không tránh trách nhiệm, bảo vệ niềm tin, lẽ phải.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan