Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố đà nẵng hiện nay thực trạng và ...

Tài liệu Thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố đà nẵng hiện nay thực trạng và giải pháp

.PDF
230
1230
68

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH LÊ ANH THùC THI CHÝNH S¸CH AN SINH X· HéI ë THµNH PHè §µ N½NG hiÖn nay - THùC TR¹NG Vµ GI¶I PH¸P LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62 31 02 01 Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. NGUYỄN VĂN VĨNH 2. PGS.TS. LÊ VĂN ĐÍNH HÀ NỘI - 2017 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả luận án Lê Anh MỤC LỤC Trang 1 MỞ ĐẦU Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách công, chính sách xã hội 1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về chính sách an sinh xã hội, hệ thống chính sách an sinh xã hội và thực thi chính sách an sinh xã hội ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng 1.3. Nhận xét tổng quan về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài 7 7 9 16 Chương 2: CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về an sinh xã hội, chính sách an sinh xã hội 2.2. Thực thi chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong thực thi chính sách an sinh xã hội 19 19 28 Chương 3: THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN QUA 3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tác động đến việc thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng 3.2. Hoạt động thực thi chính sách an sinh xã hội ở Đà Nẵng trong thời gian qua 3.3. Đánh giá kết quả việc thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua 46 46 48 82 Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. Dự báo những yếu tố tác động đến hoạt động thực thi chính sách an sinh xã hội ở Đà Nẵng 4.2. Quan điểm nâng cao chất lượng thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng 4.3. Giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 102 102 106 108 151 154 155 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASXH BCÐ BCHTƯ BHTN BHXH BHYT BTXH CNH, HÐH CNH, ÐTH CP CSC CTQG CT - XH DTTS ÐTCS ÐTN GDP HÐND HTX KCB KTTT KT - XH LÐ-TB&XH LLLÐ NCC NCT NKT NOXH TCXH TGXHTX TTg UBND XHCN : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : : An sinh xã hội Ban chỉ đạo Ban chấp hành Trung ương Bảo hiểm thất nghiệp Bảo hiểm xã hội Bảo hiểm y tế Bảo trợ xã hội Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Công nghiệp hóa, đô thị hóa Chính phủ Chính sách công Chính trị quốc gia Chính trị - xã hội Dân tộc thiểu số Ðối tượng chính sách Ðào tạo nghề Tổng sản phẩm quốc nội Hội đồng nhân dân Hợp tác xã Khám chữa bệnh Kinh tế thị trường Kinh tế - xã hội Lao động - Thương binh và xã hội Lực lượng lao động Người có công Người cao tuổi Người khuyết tật Nhà ở xã hội Trợ cấp xã hội Trợ giúp xã hội thường xuyên Thủ tướng Ủy ban nhân dân Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ Trang Bảng 3.1: Ý kiến đánh giá của người dân về hiệu quả thực thi chính sách an sinh xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong 5 năm gần đây (2010 - 2015) 88 Bảng 3.2: Ý kiến đánh giá của người dân về điều kiện thuận lợi mà các chính sách an sinh xã hội mang lại 89 Biểu đồ 3.1: Đồ thị tỷ lệ thất nghiệp ở thành phố Đà Nẵng, 2005-2014 68 Biểu đồ 3.2: Kinh phí hỗ trợ nhà ở 79 Biểu đồ 3.3: Thu ngân sách của thành phố Đà Nẵng qua các năm 98 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ nhiều năm qua, Ðảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng và tổ chức thực hiện các chính sách xã hội, coi đây vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển bền vững, ổn định chính trị - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Nghị quyết Đại hội XII cũng chỉ rõ: Quản lý tốt sự phát triển xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao phúc lợi xã hội; thực hiện tốt chính sách với người có công; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân, chất lượng cuộc sống của nhân dân; thực hiện tốt chính sách lao động, việc làm, thu nhập [56, tr.76, 78]. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương khóa XI khẳng định: Chính sách xã hội có vai trò đặc biệt quan trọng, là mục tiêu, là động lực để phát triển nhanh và bền vững trong mọi giai đoạn phát triển. Chính sách xã hội phải được đặt ngang tầm với chính sách kinh tế và thực hiện đồng bộ với phát triển kinh tế, phù hợp với trình độ phát triển và khả năng nguồn lực trong từng thời kỳ… Không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người có công và bảo đảm an sinh xã hội (ASXH) là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Ðảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội [55, tr.90, 91]. Nhờ thực hiện tốt các chính sách xã hội, thời gian qua các lĩnh vực xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhất là giảm nghèo, tạo việc làm, ưu đãi người có công, giáo dục và đào tạo, y tế, trợ giúp người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; đời sống vật chất và tinh thần của người có công, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số được cải thiện, góp phần củng cố lòng tin của nhân dân và sự ổn định chính trị - xã hội; nước ta được Liên hợp quốc công nhận là một trong các quốc gia đi đầu trong việc thực hiện một số mục tiêu Thiên niên kỷ [55, tr.70,71]. Đối với thành phố Đà Nẵng, Nghị quyết 33 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước [17], đã xác định: Xây dựng thành phố Đà Nẵng trở thành một trong những đô thị lớn của cả nước, là trung tâm kinh tế - xã hội lớn của miền Trung.Trên cơ sở mục tiêu chung đó, thành phố Đà Nẵng đã thực hiện chủ trương gắn phát triển kinh tế với 2 giải quyết các vấn đề xã hội, chính sách an sinh xã hội, quan tâm nhân tố con người và đã đạt được những kết quả tích cực: Trên lĩnh vực kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Đà Nẵng từ 1997 - 2015 đạt 10,62%, nhất là giai đoạn 2001 - 2010 đạt gần 11,96%/năm (tỷ lệ này cao hơn nhiều so với bình quân cả nước là 7,07%/năm). Đời sống của nhân dân không ngừng được nâng lên, thu nhập bình quân đầu người của năm 2011 đạt 23,62 triệu/người (tăng hơn 5 lần so với năm 1997 là 4,69 triệu/người) [7, tr.8-9]. Tăng trưởng kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu, không chỉ để sớm đưa Đà Nẵng trở thành một thành phố hiện đại, phát triển; mà còn làm tiền đề để thực hiện nhiều mục tiêu xã hội. Trên lĩnh vực xã hội: Song song với những thành tựu trên lĩnh vực kinh tế; tiến bộ và công bằng xã hội luôn được chú trọng trong mối quan hệ với phát triển kinh tế, nhiều chính sách ASXH đậm tính nhân văn được triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt. Chương trình thành phố “5 không”, “3 có” gắn với công tác đảm bảo an sinh xã hội được thực hiện tốt: Trong 3 năm 2011 - 2013, với chủ đề “Năm an sinh xã hội”, thành phố tập trung chăm lo đời sống cho các đối tượng chính sách, đối tượng xã hội, hộ nghèo và đồng bào dân tộc. Mục tiêu “Không có hộ đặc biệt nghèo” cơ bản hoàn thành, Đề án giảm nghèo giai đoạn 2009 - 2015 về đích trước 3 năm (năm 2012), giai đoạn 2013 - 2017 về đích trước 2 năm (năm 2015), đến cuối năm 2015 không còn hộ nghèo theo chuẩn mới của thành phố (Chuẩn nghèo giai đoạn 2009 - 2015, thành phố 500.000 đồng/người/tháng, nông thôn 400.000 đồng/người/tháng. Chuẩn nghèo giai đoạn 2013 - 2017, thành phố 800.000 đồng/người/tháng, nông thôn 600.000 đồng/người/tháng). Đề án “Có nhà ở” được triển khai đồng bộ bằng cả nguồn vốn ngân sách và xã hội hoá (Đã đưa vào sử dụng 176 khối nhà chung cư với gần 9.000 căn hộ; đang triển khai xây dựng 128 khối chung cư với gần 17.500 căn hộ; hoàn thành 02 khu ký túc xá sinh viên tập trung phía Tây và phía Đông thành phố, đáp ứng nhu cầu chỗ ở cho 5.500 sinh viên), đặc biệt trong 2 năm 2014, 2015 đã tập trung hỗ trợ xây dựng, sửa chữa hơn 2.200 nhà ở cho các gia đình chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, người dân Làng Vân. Đề án “Có việc làm” được quan tâm thực hiện, tổ chức tốt các phiên giao dịch việc làm, kết nối cung cầu lao động, hằng năm giải quyết việc làm cho 3,2 vạn lao động; tỷ lệ lao động qua đào tạo ước đạt 55%. Tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đến cuối năm 2015 giảm còn 4,15% (cuối năm 2010 là 4,9%) [48, tr.9-10]. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả khả quan nói trên, lĩnh vực kinh tế và ASXH vẫn còn 3 những hạn chế, bất cập: Quá trình phát triển kinh tế đã dẫn đến việc mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ đã thu hút số lượng lớn lao động từ các địa phương khác đến tham gia làm việc và cư trú, trong đó có không ít lao động tự do, những người lang thang cơ nhỡ. Mặt khác, dưới tác động của quá trình đô thị hóa, các đối tượng dân cư bị thu hồi đất, phải chuyển đổi nghề nghiệp, phải tái định cư do quá trình mở rộng và chỉnh trang đô thị rất lớn, gây áp lực cho việc giải quyết việc làm, ổn định cuộc sống, bố trí nhà ở trên địa bàn thành phố, gây khó khăn cho công tác ASXH. Bên cạnh đó, hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đã góp phần làm tăng số lượng học sinh, sinh viên đến học tập và ở lại làm việc đã gây áp lực không nhỏ về vấn đề chỗ ở, khám chữa bệnh, chăm sóc y tế và các vấn đề xã hội khác [48, tr.18-19]. Ngày 12-11-2013, Bộ Chính trị ban hành Kết luận 75-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 33-NQ/TW năm 2003 của Bộ Chính trị (khóa IX) “Về xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước” với nhiều cơ chế, chính sách mới, tạo động lực mới cho Đà Nẵng phát triển [19].Với quan điểm phát triển bền vững: “Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội” [48, tr.87], “Tiếp tục thực hiện đồng bộ và có hiệu quả chương trình thành phố “5 không”, “3 có”, Chỉ thị 24-CT/TU, Chỉ thị 25-CT/TU của BTV Thành uỷ và các chính sách an sinh xã hội đang triển khai, nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân” [47, tr.33-34] để phấn đấu xây dựng Đà Nẵng trở thành “một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có đời sống văn hóa cao; một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống” [48, tr.29], một thành phố giàu đẹp, an bình, văn minh, hiện đại [48, tr.24], thành phố “4 an” - an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm và an sinh xã hội; việc khảo sát một cách khách quan thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng hiện nay, trên cơ sở đó đưa ra những luận cứ khoa học nhằm thực thi chính sách ASXH một cách có hiệu quả hơn là rất cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề "Thực thi chính sách an sinh xã hội ở thành phố Đà Nẵng hiện nay - thực trạng và giải pháp” làm đề tài luận án Tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học. 4 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Tập trung làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực thi chính sách ASXH; phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm góp phần nâng cao chất lượng việc thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về ASXH, về thực thi chính sách ASXH ở nước ta hiện nay. - Phân tích thực trạng thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng thời gian qua. - Xác định quan điểm và đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng việc thực thi hệ thống chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu - Quá trình thực thi chính sách ASXH của thành phố Đà Nẵng trên các lĩnh vực bảo trợ xã hội, giảm nghèo, người có công với cách mạng, nhà ở xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động (nhất là người lao động bị thu hồi đất sau chỉnh trang đô thị), bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế... được thể hiện trong các chương trình ASXH có tính “đặc thù” của thành phố Đà Nẵng (chương trình thành phố “5 không”, “3 có” “4 an”) giai đoạn từ năm 1997 đến nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Chu trình chính sách công bao gồm nhiều bước (hoạch định, tổ chức thực thi, đánh giá kết quả); trong giới hạn của đề tài chỉ tập trung vào giai đoạn tổ chức thực thi chính sách và đánh giá kết quả. Nội dung hệ thống chính sách ASXH bao gồm nhiều nội dung; luận án chỉ tập trung phân tích, đánh giá về việc thực thi chính sách ASXH ở các nội dung cơ bản có tính “ưu trội” ở thành phố Đà Nẵng: Chính sách ưu đãi, chính sách bảo trợ xã hội; chính sách xóa đói, giảm nghèo; chính sách nhà ở cho người có công, dân tộc thiểu số và nhà ở thu nhập thấp; chính sách bảo hiểm xã hội, chính sách bảo hiểm y tế... - Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng giai đoạn từ năm 1997 đến 2015 và đề xuất các giải pháp đến năm 2020, tầm nhìn 2025 5 - Không gian: Thành phố Đà Nẵng 4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về chính trị nói chung và vấn đề chính sách xã hội, chính sách ASXH nói riêng, về khoa học chính sách công, khoa học quản lý công 4.2. Cơ sở thực tiễn Quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, thực hiện của Đảng bộ, chính quyền thành phố Đà Nẵng trong việc xây dựng và phát triển thành phố Đà Nẵng trên quan điểm phát triển bền vững “Kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên, nâng cao chất lượng cuộc sống, giải quyết tốt các vấn đề ASXH” [48, tr.87]. 4.3. Phương pháp nghiên cứu - Việc tiếp cận vấn đề được dựa trên nền tảng khoa học của chuyên ngành chính trị học và vận dụng các kiến thức liên ngành chính sách công, quản lý công. - Các phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích tài liệu có sẵn (là những tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết, các nghiên cứu đã có, các tài liệu khác liên quan đến đề tài) thông qua việc phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh. Phương pháp định lượng: NCS tiến hành điều tra chọn mẫu với số lượng 307 phiếu trưng cầu ý kiến. Số phiếu điều tra này có cơ cấu mẫu như sau: về giới tính, có 142 nam (46,3%), 165 nữ (53,7%); địa bàn thành thị có 212 người (69%), nông thôn gồm 105 người (31%). Địa bàn khảo sát được lựa chọn đại diện cho 3 vùng (vùng nội thành là quận Hải Châu có 109 phiếu; vùng ven là quận Cẩm Lệ có 103 phiếu; và vùng nông thôn là huyện Hòa Vang có 105 phiếu); mẫu được NCS chọn theo nguyên tắc ngẫu nhiên. Phương pháp định tính: NCS thực hiện 21 mẫu phỏng vấn sâu, trong đó, đối tượng phỏng vấn sâu được lựa chọn ngẫu nhiên trên 3 địa bàn kể trên. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn - Góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học chính sách công, quản lý công; vai trò của việc thực thi hệ thống chính sách ASXH trong nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta. - Góp phần hiện thực hóa những nội dung được nêu Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khóa XI “Một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020”. 6 - Đánh giá một cách khách quan về những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực thi hệ thống chính sách ASXH để xây dựng Đà Nẵng thành một thành phố “an bình, đáng sống”. Với những đóng góp đó, luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những tổ chức, cá nhân quan tâm đến vấn đề này. 6. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận án gồm có 4 chương, 11 tiết. 7 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề chính sách công, chính sách xã hội, chính sách an sinh xã hội (ASXH), thực thi chính sách ASXH, đáng quan tâm là những công trình sau: 1.1. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH CÔNG, CHÍNH SÁCH Xà HỘI - "Tìm hiểu về khoa học chính sách công" của Viện Khoa học chính trị - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh [176] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về khái niệm, cấu trúc và chu trình chính sách công - hoạch định, thực thi, đánh giá chính sách công. Vị trí của chính sách công trong việc giành, giữ, thực thi quyền lực chính trị. Chu trình chính sách với 4 giai đoạn chính: Xác lập chương trình nghị sự (tìm kiếm sự nhất trí về mục tiêu), ra quyết định chính sách (tìm kiếm sự nhất trí về biện pháp đạt được mục tiêu), triển khai chính sách (thi hành các biện pháp đã được nhất trí), đánh giá chính sách (đánh giá việc thực hiện mục tiêu và đặt ra các vấn đề mới). Vai trò của nhà nước trong việc thực thi các chính sách xã hội nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các chính sách chính của Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, cuốn sách cũng chỉ rõ: Chính sách công là lĩnh vực nghiên cứu tương đối mới, vì vậy đó chỉ là những nhận thức và cơ sở lý luận ban đầu cho những khảo sát cụ thể hơn về thực tế quy trình hoạch định chính sách ở nước ta - "Chính sách công của Hoa Kỳ (giai đoạn 1935 - 2001)" của Lê Vinh Danh [37] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản như: Chính sách công và chính quyền - tổ chức chính quyền hợp chủng quốc Hoa Kỳ, chính sách công ; Quy trình thiết kế chính sách công; Chính sách công Hoa Kỳ giai đoạn 1935 - 2000; Quy trình thiết kế chính sách trong thực tế. Cuốn sách đã khái quát nội dung với 3 phần: Chính sách công và chính quyền, tiến trình lập và thực hiện chính sách, thiết kế chính sách công trong thực tế. Những mục tiêu tương đồng về lợi ích quốc gia, lề lối thiết kế và quản trị mang tính cơ bản có thể thể nghiệm cho các nước đang phát triển xem xét. Tuy nhiên, chính sách công của Hoa Kỳ không những được điều chỉnh cho phù hợp với những điều kiện biến động của xã hội; hơn thế nữa hệ thống giá trị, hệ thống chính trị của nước Mỹ có những 8 khác biệt so với các nước trên thế giới, vì vậy việc vận dụng đòi hỏi phải có những điều chỉnh tất yếu - "Giáo trình Hành chính học" của Nguyễn Hữu Hải [74] và "Đại cương về phân tích chính sách công" của Nguyễn Hữu Hải, Lê Văn Hòa [75] đã trình bày những nội dung cơ bản về khái niệm, chức năng, ý nghĩa của phân tích chính sách công; các nguyên tắc và yêu cầu của việc phân tích chính sách công; các yếu tố tác động đến phân tích chính sách công; tiêu chí trong phân tích chính sách công; nội dung phân tích chính sách công; phương pháp phân tích chính sách công. Phân tích chính sách công có vai trò quan trọng và là khâu khởi đầu, xuyên suốt trong chu trình chính sách. Cuốn sách đã cung cấp công cụ và phương pháp phân tích chính sách thực sự khoa học. "Chính sách công - Những vấn đề cơ bản" của Nguyễn Hữu Hải [76] đã trình bày những nội dung cơ bản về Chính sách công như: Đặc điểm, vai trò, phân loại chính sách công; cấu trúc nội dung và chu trình chính sách công; hoạch định chính sách công; tổ chức thực thi chính sách công - quan niệm, vị trí, ý nghĩa, các bước tổ chức thực thi chính sách công; phân tích chính sách công; đánh giá chính sách công; tổ chức công tác phân tích, đánh giá chính sách công. Đặc biệt cuốn sách đã cung cấp những phụ lục về quy trình hoạch định chính sách công ở Việt Nam: quy trình hoạch định chính sách công của Quốc hội, quy trình hoạch định chính sách công của Chính phủ, quy trình hoạch định chính sách công của HĐND cấp tỉnh. Đây là tư liệu cung cấp khá hệ thống những kiến thức cơ bản về chính sách công , vận dụng những kiến thức cơ bản đã học vào thực tiễn đánh giá chính sách công, góp phần hoàn thiện công tác hoạch định và thực thi chính sách công trong quản lý nhà nước. - "Quản lý công" của Trần Anh Tuấn, Nguyễn Hữu Hải [156] đã đề cập đến quá trình phát triển khoa học quản lý công; vấn đề khu vực công; nhà quản lý công và nội dung quản lý công, kỹ năng quản lý công; những thách thức trong quá trình quản lý công ở Việt Nam. Đây là tài liệu thể hiện cách tiếp cận mới về nội dung, hình thức, phương pháp quản lý trong khu vực công - việc áp dụng khoa học quản lý công vào các tổ chức công xét đến cùng là quản lý con người trong tổ chức. - "Chính sách công và phát triển bền vững - Cán cân thanh toán, nợ công và đầu tư công" của Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kinh tế [57]. Cuốn sách đã đề cập đến 2 nội dung cơ bản: Nội dung thứ nhất là cán cân thanh toán (mối liên hệ giữa cán cân thanh toán và sự phát triển kinh tế cũng như các vấn đề tỷ giá, lạm phát) và phát 9 triển kinh tế ở các nước đang phát triển. Nội dung thứ hai là đầu tư công và nợ công (các yếu tố tác động đến quy mô và chất lượng của đầu tư công, vấn đề nợ công, chi tiêu công và phát triển bền vững), tái cơ cấu nền kinh tế Việt Nam, cải cách thể chế và định vị lại vai trò của đầu tư công. Những nội dung đó được tiếp cận bằng phương pháp nghiên cứu hiện đại, khách quan, kết hợp định tính và định lượng với những kiến nghị có cơ sở khoa học trong việc tái cơ cấu kinh tế, tái cơ cấu đầu tư công ở nước ta - "Đại cương về Chính trị học" của Lê Văn Đính [59]; "Giáo trình Chính trị học Đại cương" của Nguyễn Văn Vĩnh, Lê Văn Đính [179] đã trình bày quan niệm, đặc trưng, chu trình chính sách công. Đây là những tư liệu tiếp cận vấn đề chính sách công ở giác độ của Chính trị học: quan tâm đến vai trò của nhà nước trong việc thực thi chính sách công nói chung và các chính sách xã hội nói riêng nhằm đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. - Ngoài những tư liệu nói trên, còn có các bài viết công bố trên các tạp chí liên quan đến quan niệm, đặc điểm, chu trình chính sách công.và việc đánh giá chính sách công - nội dung, tiêu chí của đánh giá chính sách công có thể kể đến là: "Chính sách công" của Lê Chi Mai [98], "Đánh giá chính sách công ở Việt Nam - Vấn đề và giải pháp" của Nguyễn Đăng Thành [128]. 1.2. NHÓM CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI, HỆ THỐNG CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI VÀ THỰC THI CHÍNH SÁCH AN SINH Xà HỘI Ở MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG 1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về an sinh xã hội, hệ thống chính sách an sinh xã hội - “Pháp luật an sinh xã hội - kinh nghiệm một số nước đối với Việt Nam” của Trần Hoàng Hải, Lê Thị Thúy Hương [73] đã làm rõ quan niệm và vai trò của pháp luật an sinh xã hội của một số nước như Đức, Nga, Hoa Kỳ cũng như khái quát khá đầy đủ hệ thống pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam. Trên cơ sở đó, các tác giả đã nhấn mạnh để hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam trong tình hình mới cần phải xúc tiến xây dựng Bộ Luật an sinh xã hội và cải cách các Luật Bảo hiểm xã hội và Luật Bảo hiểm y tế. - "Mô hình phát triển xã hội của một số nước phát triển Châu Âu: Kinh nghiệm và ý nghĩa đối với Việt Nam" của Nguyễn Quang Thuấn, Bùi Nhật Quang [137] đã phân 10 tích cách thức nhà nước cung cấp các dịch vụ ASXH cho người dân ở một số quốc gia phát triển ở châu Âu. Từ đó, tác giả đưa ra những bài học kinh nghiệm và giải pháp cho sự lựa chọn mô hình phát triển, chính sách đảm bảo ASXH của nước ta hiện nay trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. - “Hệ thống an sinh xã hội của EU và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Đinh Công Tuấn [157] đã phân tích tổng quan về hệ thống ASXH của châu Âu cũng như làm rõ nhu cầu, thách thức trong việc cải cách hệ thống an sinh xã hội của châu Âu, đồng thời, chỉ ra những thành công, hạn chế, những kinh nghiệm trong đảm bảo ASXH thông qua: Hệ thống ASXH theo mô hình “thị trường xã hội” của Đức; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “xã hội dân chủ” của Thuỵ Điển; hệ thống an sinh xã hội theo mô hình “thị trường tự do” của Anh. Từ đó, cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho xây dựng và thực hiện chính sách ASXH phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay. - "Bảo đảm xã hội trong nền kinh tế thị trường Nhật Bản hiện nay" của Trần Thị Nhung [105] đã phân tích được khái niệm và lịch sử phát triển của hệ thống đảm bảo xã hội của Nhật Bản. Trên cơ sở đó, tác giả cung cấp thông tin một cách đầy đủ về đặc điểm, các loại hình, vai trò, chức năng của nhà nước cũng như những khó khăn, thách thức trong việc thực hiện các chế độ đảm bảo xã hội của nhà nước như: Chế độ đảm bảo thu nhập, bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ và trợ giúp xã hội. - "Chính sách và biện pháp giải quyết phúc lợi ở Nhật Bản" của Nguyễn Duy Dũng [39] đã khái quát sự hình thành và phát triển chế độ phúc lợi xã hội ở Nhật Bản; các hình thức và biện pháp nhà nước đảm bảo phúc lợi xã hội ở Nhật Bản (Chế độ chăm sóc sức khoẻ; phúc lợi đối với bà mẹ và trẻ em; phúc lợi xã hội đối với người già, người tàn tật, người có thu nhập thấp); tổ chức quản lý và tài chính cho việc thực hiện chính sách phúc lợi xã hội của Nhật Bản. - "Giáo trình nhập môn về an sinh xã hội" của Nguyễn Hải Hữu [90]; "Hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Hải Hữu [91]; "Giáo trình Luật an sinh xã hội" của Nguyễn Thị Kim Phụng [110]; "Giáo trình ưu đãi xã hội" của Trường Đại học Lao động [154]; "Giáo trình Cứu trợ xã hội" của Trường Đại học Lao động [155]; "Giáo trình Bảo hiểm xã hội" của Trường Đại học Kinh tế quốc dân [151]. Các giáo trình đã trình bày quan niệm về ASXH, đặc điểm và cấu trúc an sinh xã hội, phương pháp đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống chính sách ASXH, vai trò và tầm quan trọng của xây dựng và thực thi chính sách ASXH. 11 - “Chính sách an sinh xã hội và vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Nguyễn Văn Chiểu [24] đã đề cập đến một số vấn đề lý luận cơ bản chính sách an sinh xã hội và kinh nghiệm một số nước, thực trạng thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam trong gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao vai trò của nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH ở Việt Nam. Với tư liệu này, luận án đã kế thừa nội dung tính tất yếu, vai trò và yêu cầu đặt ra đối với nhà nước trong việc thực hiện chính sách ASXH (tính tất yếu được thể hiện ở các nội dung: bản chất, chức năng xã hội của nhà nước, khắc phục những hạn chế của nền kinh tế thị trường, đảm bảo quyền cơ bản của con người, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế) - “Xây dựng và hoàn thiện chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam” của Mai Ngọc Cường [35] đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của chính sách ASXH trong nền kinh tế thị trường; thực trạng hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam hiện nay; phương hướng, giải pháp xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2015. Cuốn sách đã chỉ rõ tác động mặt trái của kinh tế thị trường: tình trạng phân hóa giàu nghèo, sự bất bình đẳng trong thu nhập, nguy cơ thất nghiệp và bệnh tật, đói nghèo. Đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của Đảng, Nhà nước trong việc ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách nhằm giải quyết các vấn đề xã hội nói chung, ASXH nói riêng - “An sinh xã hội ở nước ta ở Việt Nam hướng tới năm 2020” của Vũ Văn Phúc [109] đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm thế giới về ASXH: quan điểm và cách tiếp cận về về an sinh xã hội, xây dựng và thực hiện hệ thống về ASXH ở nước ta trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN; những vấn đề thực tiễn về an sinh xã hội ở nước ta: xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam, bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, ASXH cho cư dân vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng dân tộc và miền núi, đào tạo nghề. Cuốn sách đã phác họa bức tranh tổng thể về cơ sở lý luận và những vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta. Tuy nhiên, các chuyên đề, bài viết của chuyên gia chưa được tổng quan hóa nên tính logich của các nội dung vẫn còn bất cập. -“Chính sách an sinh xã hội - thực trạng và giải pháp” của Lê Quốc Lý [95] đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về những trở ngại trong thực thi chính sách 12 ASXH; những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở Việt nam gần đây thông qua việc đánh giá nhóm cán bộ thực thi và đối tượng thụ hưởng chính sách; trên cơ sở mục tiêu, quan điểm thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam đến năm 2020 cuốn sách đã nêu lên 5 nhóm giải pháp khắc phục những trở ngại trong thực thi chính sách ASXH ở nước ta (thiết kế và thực thi chính sách ASXH, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, hoàn thiện bộ máy thực thi chính sách ASXH, nâng cao nhận thức của đối tượng thụ hưởng về chính ASXH). - Các bài nghiên cứu trên các tạp chí liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội có thể kể đến là: “An sinh xã hội ở nước ta - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Vũ Văn Phúc [108]; “Về xây dựng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội ở nước ta những năm tới” của Mai Ngọc Cường [36]; “Hệ thống an sinh xã hội cho người nông dân Việt Nam” của Nguyễn Danh Sơn [118]; "Tiếp tục thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công, bảo đảm an sinh xã hội trong phát triển bền vững" của tác giả Nguyễn Thị Kim Ngân [102]; “Bảo đảm an sinh xã hội dưới ánh sáng Đại hội XI của Đảng” của Dương Văn Thắng [133]. Các bài viết nói trên đã đã đề cập đến những vấn đề lý luận chung vấn đề thực tiễn về ASXH ở nước ta, xây dựng và hoàn thiện hệ thống ASXH ở Việt Nam trên quan điểm các nghị quyết chuyên đề của Đảng về ASXH. - Ngoài các ấn phẩm sách, tạp chí, các kỷ yếu của các cuộc hội thảo sau đây cũng phần nào làm sáng tỏ các nội dung liên quan đến lĩnh vực ASXH : “An sinh xã hội ở Việt Nam: Chuẩn bị cho giai đoạn phát triển mới” do Đại học Kinh tế Quốc dân [152]; Hội thảo“Xây dựng Chiến lược an sinh xã hội giai đoạn 2011 - 2020” của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội và Tổ chức Hợp tác Kỹ thuật Cộng hoà Liên bang Đức (GTZ) [20]; “An sinh xã hội ở nước ta: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Ban Tuyên giáo Trung ương, Tạp chí Cộng sản, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương [9]... Qua các hội thảo này, cũng đã có nhiều phát hiện và tiếp cận mới trong xây dựng và thực hiện chính sách ASXH cũng như vai trò của nhà nước trong thực hiện chính sách ASXH, thực trạng và giải pháp thực thi chính sách ASXH ở Việt Nam. - Ngoài các tài liệu trong nước, liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội còn có các tài liệu nước ngoài: "Social security today and tomorrow" (An sinh xã hội hôm nay và ngày mai) của tác giả Robert M. Ball [187] đã đề cập dến quan niệm An sinh 13 xã hội (là hệ thống các chính sách hỗ trợ những người đang đối mặt (hoặc đe doạ) bởi sự thiếu thốn nguồn thu nhập (mà đó chính là khoản lương bổng) hoặc các khoản chi tiêu đặc biệt khác) và đề cập đến các chương trình mà chính phủ các nước đặt ra với mục đích hàng đầu là giúp đỡ những người dân gặp rủi ro dẫn đến việc bị mất hoặc giảm sút thu nhập; chế độ ASXH được xem như là sự bảo vệ của nhà nước đối với người dân trước những rủi ro về xã hội. "Social Security in Global Perspective" (An sinh xã hội trong viễn cảnh toàn cầu) của tác giả John Dixon [185] đã đề cập đến nội dung ASXH của một quốc gia là nhằm cung cấp các biện pháp công cộng (tiền mặt và hiện vật) cho những biến cố ngẫu nhiên mà luật pháp đã quy định người dân có quyền được hưởng bao gồm mất mát thu nhập hoặc thu nhập không đầy đủ, bù đắp hỗ trợ chi phí đối với những người sống phụ thuộc; an sinh xã hội chỉ dành cho những cá nhân và hộ gia đình bị rơi vào hoàn cảnh mất hoặc giảm thu nhập thường xuyên một cách đột ngột - ASXH chỉ tập trung vào hạn chế nghèo đói, bồi thường xã hội và phân phối lại thu nhập, các hình thức bảo hiểm không được coi là một bộ phận của ASXH. "Về bảo trợ xã hội và thúc đẩy xã hội: Thiết kế và triển khai hệ thống an sinh hiệu quả" của nhóm tác giả M.Grosh, C.Ninno, E.Tesliuc và A.Ouerghi [71] đã đề ra quan niệm "Mạng lưới an sinh xã hội vừa dùng để đỡ những người rơi từ trên xuống về phương diện kinh tế trước khi họ rơi vào cảnh bần hàn, vừa trợ cấp hoặc cung cấp một khoản thu nhập tối thiểu cho những người ở trạng thái nghèo thường xuyên, lâu dài hơn"; ASXH chỉ bao gồm hệ thống chính sách trợ giúp xã hội không có đóng góp và nhắm đến đối tượng là người nghèo và người dễ bị tổn thương. Đồng thời, ASXH cũng chỉ dừng lại ở những hoạt động chính thức của nhà nước mà không tính đến vai trò của tư nhân, thị trường trong việc cung cấp các dịch vụ ASXH khác. Nhìn chung, các ấn phẩm và quan niệm của một số học giả được đề cập đến ở trên đều nhấn mạnh rằng, ASXH là các biện pháp bảo vệ sự an toàn xã hội cho các thành viên của mình trong trường hợp họ gặp rủi ro dẫn đến bị mất hoặc giảm thu nhập hay tăng chi phí đột ngột, thông qua các tầng lưới khác nhau để duy trì cuộc sống bình thường - các tầng lưới đó bao gồm các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội, xóa đói giảm nghèo bền vững và đối với Việt Nam, các quan điểm nghiên cứu về chính sách công, góc độ tiếp cận và nhìn nhận đối với chính sách an sinh xã hội cũng có nhiều điểm tương đồng. 14 1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về thực thi chính sách an sinh xã hội ở miền Trung - Tây Nguyên, thành phố Đà Nẵng - Về ấn phẩm sách liên quan đến lĩnh vực an sinh xã hội ở các tỉnh khu vực miền Trung có thể kể đến là: “Xây dựng chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh [61]. Đây là đề tài nghiên cứu cấp thành phố và được xuất bản thành sách (tác giả luận án là thành viên của đề tài). Cuốn sách đã đề cập đến cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết nhà ở thu nhập thấp trong chính sách an sinh xã hội; thực trạng thị trường và chính sách chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; hoàn thiện chính sách nhà ở thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. Những nội dung trong cuốn sách được tác giả luận án kế thừa khi phân tích sự “ưu trội”, “đặc thù” về thành tựu trong việc xây dựng nhà ở xã hội và nhà ở thu nhập thấp ở thành phố Đà Nẵng. “Việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở thành phố Đà Nẵng” của tác giả Nguyễn Dũng Anh [4]. Đây là luận án tiến sĩ được xuất bản thành sách. Cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho nông dân bị thu hồi đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phân tích tác động của thu hồi đất và tính cấp thiết của việc tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tạo việc làm cho nông dân bị thu hồi đất ở thành phố Đà Nẵng thực sự có ý nghĩa đối với việc thực thi chính sách ASXH ở thành phố Đà Nẵng. - Một số bài viết liên quan đến nội dung an sinh xã hội được đăng tải trên Tạp chí: “Quận Hải Châu thành phố Đà Nẵng: Hướng tới mục tiêu giảm nghèo bền vững” của Lê Văn Đính, Lê Anh [62] đã trình bày những thành tựu trong việc thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Quận Hải Châu và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giảm nghèo bền vững ở Quận Hải Châu trong thời gian đến. “Giải quyết nhà ở cho người thu nhập thấp tại Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp" của Lê Văn Đính, Hồ Kỳ Minh [60] đã trình bày những thành tựu trong việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách nhà ở xã hội trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nhằm hiện thực hóa Chương trình 3 có (có nhà ở, có việc làm, có nếp sống văn minh đô thị) và mục tiêu xây dựng thương hiệu Thành phố đáng sống ở Đà Nẵng.“Đà Nẵng với bài học thân dân, an dân và đồng thuận xã hội trong xây dựng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan