Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện tính nhân dân trên báo chí nói chung và báo chí việt nam nói riêng....

Tài liệu Thực hiện tính nhân dân trên báo chí nói chung và báo chí việt nam nói riêng.

.PDF
29
913
74

Mô tả:

1 MỤC LỤC MỞ ĐẦU-------------------------------------------------------------------------------------------------- 2 1) Tính cấp thiết của đề tài. -----------------------------------------------------------------------2 2) Mục đích nghiên cứu. ---------------------------------------------------------------------------3 3) Phạm vi nghiên cứu đề tài. ---------------------------------------------------------------------3 4) Phương pháp nghiên cứu. ---------------------------------------------------------------------4 5) Kết cấu tiểu luận. --------------------------------------------------------------------------------4 NỘI DUNG ----------------------------------------------------------------------------------------------- 5 I/ KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC TÍNH NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ. ---------------------------------------------------------------------------------------5 1) Khái niệm. -----------------------------------------------------------------------------------------5 2) Vai trò. ---------------------------------------------------------------------------------------------7 II/ VIỆC THỰC HIỆN TÍNH NHÂN DÂN TRÊN BÁO CHÍ NÓI CHUNG VÀ BÁO CHÍ VIỆT NAM NÓI RIÊNG. -----------------------------------------------------------------------8 1) Tính nhân dân của báo chí biểu hiện ở chỗ, nó phản ánh và đánh giá các hiện tượng và sự kiện của đời sống từ lập trường của nhân dân, đại diện và bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân, đề cao và trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự tiến bộ của xã hội. ----------------------------------------------------------------------8 2) Biểu hiện thứ hai của tính nhân dân trong hoạt động báo chí là sự tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào các hoạt động báo chí. ------------- 15 III/ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN TÍNH NHÂN DÂN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM. -------------------------------------------------------------------------------------- 20 1) Báo chí thông tin không chính xác, sai sự thật gây ra hiểu lầm hoặc nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến tư tưởng của quần chúng, gây tổn hại đến đời sống vật chất và tinh thầnn của nhân dân. ------------------------------------------------------------------------ 20 2) Trên một số bài báo, tác giả còn sử dụng nghệ thuật biểu hiện không phù hợp với trình độ nhận thức của công chúng. ---------------------------------------------------------- 22 3) Tư duy đổi mới báo chí còn hạn chế, lúng túng, nội dung, hình thức thông tin còn kém phong phú, sinh động, thiếu tính sắc bén, tính hấp dẫn, lượng phát hành không lớn, sự tác động chi phối thông tin đến công chúng không mạnh mẽ, do đó hiệu quả tuyên truyền không cao. ------------------------------------------------------------------------- 23 IV/ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC TÍNH NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ. ------------------- 23 1) Đẩy mạnh công tác hướng dẫn - tổ chức quần chúng tham gia làm chủ mặt báo để phản ánh tiếng nói của quần chúng một cách đúng đắn và tích cực hơn. ------------- 24 2) Các cơ quan báo chí cần tổ chức mạng lưới cộng tác viên, thông tin viên rộng rãi. -------------------------------------------------------------------------------------------------------- 25 3) Đẩy mạnh công tác điều tra xã hội, nghiên cứu tâm lý, tìm hiểu nguyện vọng của quần chúng. ---------------------------------------------------------------------------------------- 25 KẾT LUẬN --------------------------------------------------------------------------------------------- 27 2 MỞ ĐẦU 1) Tính cấp thiết của đề tài. Trong tiến trình lịch sử của nhân loại, báo chí là một hiện tượng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin – giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Từ khi ra đời, báo chí đã nhanh chóng trở thành một trong những lĩnh vực xung kích bởi khả năng phản ánh hiện thực của nó. Từ khi xuất hiện đến nay, báo chí luôn năng động trong việc phản ánh hiện thực đa dạng, sinh động và luôn vận động phát triển. Báo chí là một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của mọi người, mọi dân tộc. Ở Việt Nam, báo chí cũng như một lực lượng vật chất được sản sinh từ công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, trưởng thành theo từng bước tiến lịch sử hào hùng của Đảng và nhân dân ta. Từ thời kỳ đấu tranh chống thực dân, đế quốc đến thống nhất nước nhà và xây dựng chế độ mới cho đến nay, những năm đầu của thế kỷ XXI, đất nước ta đang đứng trước bao vận hội mới đang chuyển mình mạnh mẽ, vượt qua những khó khăn để vươn lên phát triển. Báo chí đã, đang và sẽ ngày càng tỏ rõ bản chất cách mạng, tính chiến đấu cao độ nhằm thể hiện cho được ý Đảng, lòng dân, vun đắp cho một xã hội luôn vươn tới công bằng, dân chủ, giàu mạnh hơn. Báo chí của chúng ta là báo chí của Đảng, lại sống giữa lòng quần chúng, có truyền thống yêu nước, yêu tự do dân chủ, có năng lực sáng tạo và đầy tài năng. Báo chí phải lấy mục tiêu phục vụ cho lợi ích của Đảng làm nhiệm vụ hàng đầu. Đông thời lương tâm và trách nhiệm mỗi nhà báo phải là sự tận tụy phục vụ cho công chúng. Sức sống và hiệu quả của mỗi tờ báo được đánh giá đầy đủ và công tâm nhất là ở giữa lòng công chúng. Điều đó thể hiện nguyên tắc tính nhân dân của báo chí, đồng thời biểu hiện một chức năng quan trọng trong một yeue cầu tự thân thuộc về bản chất của nền báo chí vô sản. Tuy nhiên, nguyên tắc này 3 không phải là là một vấn đề chung chung, khô khan, xơ cứng, giống nhau trong tất cả các giai đoạn phát triển của báo chí. Tính nhân dân là nguyên tắc quan trọng làm nên sự thành công của mỗi tờ báo, vì công chúng sẽ không đoc, thậm chí không thể chấp nhận một tờ báo nếu như tờ báo đó không đề cập đến họ, không bảo vệ quyền lợi cho họ. Vì vậy, vấn đề nghiên cứu về nguyên tắc tính nhân dân của hoạt động báo chí là một vấn đề quan trọng, không chỉ đối với các cơ quan báo chí mà còn đối với công chúng độc giả, khán – thính giả của báo chí. 2) Mục đích nghiên cứu. Trong bối cảnh hiện nay, vấn đề tính nhân dân của báo chí phát triển phong phú, sinh động, song cũng nổi cộm lên nhiều vấn đề đáng quan tâm. Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm thẩm định và mở rộng nhận thức về tính nhân dân của báo chí vô sản, đặc biệt trong cơ chế thị trường. Qua đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tác động của báo chí vào đời sống xã hội, cũng như phương hướng hoạt động nghiệp vụ của mỗi nhà báo, mỗi tòa soạn của cơ quan báo chí. Do vậy, khi nghiên cứu đề tài này, người làm tiểu luận tự đặt ra cho mình nhiệm vụ khảo sát thực tiễn báo chí trong điều kiện hiện nay, tính nhân dân có gì mới, có gì khác trước? Đặc biệt những biểu hiện của tính nhân dân trong thực tiễn đời sống. Từ đó làm cơ sở trau dồi thêm kỹ năng nghề nghiệp, hoạt động báo chí nhuần nhuyễn, thông suốt, sáng tạo hơn. 3) Phạm vi nghiên cứu đề tài. Vấn đề “Nguyên tắc tính nhân dân trong hoạt động báo chí” là một đề tài lớn, sinh động, hấp dẫn sog cũng không ít khó khăn, phức tạp. Với trình độ nhận thức của bản thân, người làm tiểu luận xin đề cập, lý giải vấn đề này trên phạm 4 vi giới hạn, đi sâu vào tình hình thực hiện nguyên tắc tính nhân dân của báo chí Việt Nam, trên một số khía cạnh mà bản thân đã cố gắng tìm hiểu. 4) Phương pháp nghiên cứu. Tùy thuộc vào điều kiện thực tế cùng với trình độ nhận thức của sinh viên năm thứ nhất, người làm tiểu luận áp dụng chủ yếu phương pháp nghiên cứu văn bản, phân tích tài liệu kết hợp với việc khảo sát thực tế trên một số tờ báo in, Báo mạng điện tử và các chương trình phát thanh – truyền hình. Việc nghiên cứu dựa trên nền tảng, nguyên lý của học thuyết Mác – Lênin và xuất phát từ quan điểm coi quần chúng nhân dân là động lực của mọi cuộc cách mạng báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng, đặt lợi ích của Đảng và mọi tầng lớp nhân dân trên hết trong sự nghiệp đổi mới báo chí hiện nay. 5) Kết cấu tiểu luận. Tiểu luận có kết cấu gồm các phần chính như sau: Mở đầu. Nội dung. I – Khái niệm, vai trò của nguyên tắc tính nhân dân trong hoạt động báo chí. II – Việc thực hiện tính nhân dân trên báo chí nói chung và báo chí Việt Nam nói riêng. III – Một số biện pháp chính để cơ quan báo chí vận dụng đúng đắn nguyên tắc tính nhân dân trong việc phản ánh tiếng nói của quần chúng trên báo chí. Kết luận. 5 NỘI DUNG I/ KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA NGUYÊN TẮC TÍNH NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ. 1) Khái niệm. Để hiểu được khái niệm nguyên tắc tính nhân dân trong hoạt động báo chí, trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là nguyên tắc và thế nào là nguyên tắc báo chí. Những tri thức về nguyên tắc có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận cũng như thực tiễn. Đó là cơ sở để nghiên cứu các mối quan hệ giữa các vấn đề, sự kiện, hiện tượng, quá trình, đồng thời còn xác định thái độ, quan điểm, cách thức, phương pháp hành động để đạt hiệu quả. “Nguyên tắc (tiếng Latinh: Principium – chỉ sự bắt đầu nền tảng, cơ sở) là điều cơ bản định ra, nhất thiết phải tuân theo trong mọi việc làm. Nguyên tắc là cơ sở đầu tiên, tư tưởng chỉ đạo quy tắc chủ yếu để hành động”.[1] Khái niệm nguyên tắc được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau như kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học… Mỗi một lĩnh vực đề có một nguyên tắc riêng của mình. Và “Nguyên tắc hoạt động của báo chí là các quy tắc, chuẩn mực chung của mọi hoạt động của báo chí giúp báo chí thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Nguyên tắc báo chí chính là cơ sở phương pháp luận của hoạt động báo chí”.[2] Nguyên tắc hoạt động báo chí là sự thể hiện khuynh hướng quan điểm, chính kiến của một Đảng, một giai cấp, đồng thời nó còn xác định thái độ, trách nhiệm, sự hiểu biết, cách đánh giá của nhà báo đối với hoạt động thực tiễn. Nguyên tắc 1 2 Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông, tr.95, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005 Cơ sở lý luận báo chí, tr.154, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,2005 6 còn là đòi hỏi nhà báo đáp ứng chuẩn xác cách xử sự, ứng phó và hành động của mình. Báo chí còn được coi là các phương tiện thông tin đại chúng. Thuật ngữ “đại chúng” dù không đầy đủ nhưng đã phần nào nói lên tính nhân dân và bản chất dân chủ của hoạt động báo chí. Trước hết, từ “đại chúng” trong thuật ngữ “phương tiện truyền thông đại chúng” có những nội dung sau: Đối tượng tác động của thông tin là xã hội rộng rãi bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau. Những nhu cầu thông tin của nhân dân được ưu tiên đảm bảo và là thớc đo trình độ năng lực của hoạt động thông tin báo chí. Mục đích của thông tin là nhằm hình thành đời sống tinh thần lành mạnh của xã hội, qua đó tác động vào việc giải quyết các nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước. Đảm bảo sự phổ biến rộng rãi, dễ hiểu, giúp cho đại đa số các thành viên trong xã hội có khả năng tiếp cận và thu nhận thông tin. Có sự tham gia rộng rãi của quần chúng nhân dân vào công việc của các cơ quan báo chí, tạo điều kiện cho các thành viên của xã hội có thể tham gia việc giải quyết các nhiệm vụ chung, các công việc xã hội.[3] “Khái niệm tính nhân dân của báo chí thể hiện mối liên hệ giữa báo chí và đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, nhất là nhân dân lao động, người sáng tạo chân chính của lịch sử”.[4] Báo chí từ lúc ra đời đã được thừa nhận có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của xã hội loài người. Là phương tiện truyền thông đại chúng, vốn tự thân báo chí phải hướng tới nhu cầu nhận thức của người đọc, lấy thực tiễn đời sống xã hội, nhân dân làm đối tượng phản ánh của mình. 3 4 Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông, tr.117, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005 Cơ sở lý luận báo chí, tr.168, NXB Lý luận chính trị, Hà Nội,2005 7 Tuy nhiên về nguyên tắc tính nhân dân – hiểu theo nghĩa rộng và đúng đắn nhất – chỉ thực sự có ở nền báo chi vô sản. Mác – Ăngghen, người đã khai sinh học thuyết chủ nghĩa cộng sản nổi tiếng cũng là người đặt nền móng đầu tiên cho nền báo chí vô sản, trao cho báo chí vô sản một sức mạnh mới là sự chuyển hóa báo chí thành công cụ đấu tranh cho lợi ích của giai cấp vô sản. Xác định đặc điểm chủ yếu của báo chí vô sản khác với báo chí tư sản là ở chỗ, báo chí vô sản kế thừa nguyên tắc tính nhân dân từ giai đoạn cách mạng dân chủ. 2) Vai trò. Sức mạnh của báo chí cách mạng là ở chỗ nó là người phát ngôn của đông đảo công chúng, có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích nhân dân. Vậy nguyên tắc tính nhân dân của báo chí vô sản xác định rõ nhiệm vụ của báo chí vừa phục vụ cho lợi ích của Đảng, vừa phục vụ cho lợi ích của nhân dân. Báo chí là diễn đàn chính trị rộng rãi và dân chủ của mọi tầng lớp nhân dân. Chúng ta đều biết rằng, một tờ báo nếu có đầy đủ các tính chất: tính công khai, tính nhân đạo, tính dân tộc... mà thiếu đi tính nhân dân thì liệu nó còn được gọi là phương tiện thông tin đại chúng theo đúng nghĩa của nó? Và liệu tờ báo đó có thể tồn tại lâu dài? Nói như vậy, người làm tiểu luận không có ý phủ nhận vai trò cảu các tính công khai, tính nhân đạo, tính dân tộc… mà tác giả chỉ muốn khẳng định và nhấn mạnh vai trò quan trọng của tính nhân dân – một trong những yêu cầu hàng đầu đối với báo chí, trở thành nguyên tắc hoạt động của báo chí. Đảng ta cũng đã xác định được tầm quan trọng của tính nhân dân đối với báo chí. Đảng ta luôn vận dụng đúng đăn đường lối chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh thực tiễn xã hội Việt Nam trong lãnh đạo công tác báo chí, dù bất kỳ giai đoạn nào cũng luôn nhấn mạnh nhiệm vụ của mỗi tờ báo phải chú trọng tuyên truyền đến tận quần chúng những chủ trương, đường lối, chính sách của 8 Đảng, đồng thời phản ánh chân thật mọi ý kiến, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Nhân ngày Báo chí cách mạng Việt Nam 21/06/1987, đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh đã viết: “Tờ báo, theo tôi, không phải chỉ là “diễn đàn của Đảng, chính phủ và của một số cán bộ viết báo” mà còn phải là “diễn đàn của mọi tầng lớp nhân dân”. Phải làm sao có những mục để chính ngay dân hoặc người Đảng viên, cán bộ gần dân, hiểu dân viết ra những ý, những bài thể hiện được ý của dân, để hoặc là đề bạt nguyện vọng của nhân dân với Đảng, Nhà nước, hoặc là lên án những việc làm sai trái của cán bộ, Đảng viên, nhân viên Nhà nước, hay của ngay một số dân với mục đích khuyên răn nhau làm điều phải…”. (Báo Nhân dân, số ra ngày 24/06/1987) Hiểu rõ vai trò quan trọng của tính nhân dân trong hoạt động báo chí, ta càng nhận rõ tính cấp thiết của đề tài nguyên cứu tính nhân dân, và càng xác định rõ hơn trách nhiệm của mình trong việc làm thế nào để phát huy tính nhân dân trong báo chí. II/ VIỆC THỰC HIỆN TÍNH NHÂN DÂN TRÊN BÁO CHÍ NÓI CHUNG VÀ BÁO CHÍ VIỆT NAM NÓI RIÊNG. Sự ra đời và mục đích hoạt động của báo chí bắt đầu từ nhu cầu thông tin, giao tiếp của con người. Phát triển lên, báo chí bắt đầu từ nhu cầu thông tin và phản ánh toàn diện đời sống xã hội. Không một đề tài báo chí nào, không một nguồn thông tin nào lại không bắt nguồn từ hoạt động của con người. Nhân dân đông đảo quần còn là người thưởng thức, tiêu thụ các sản phẩm báo chí. Tính nhân dân thể hiện từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng của hoạt động báo chí. 1) Tính nhân dân của báo chí biểu hiện ở chỗ, nó phản ánh và đánh giá các hiện tượng và sự kiện của đời sống từ lập trường của nhân dân, đại diện và 9 bảo vệ cho quyền lợi của nhân dân, đề cao và trực tiếp tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân vì sự tiến bộ của xã hội. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy đội ngũ những người làm báo rằng: “Mỗi chữ viết, mỗi lời nói phải thể hiện một tư tưởng, một ước ao của nhân dân”. Và chính bản thân Người – vị lãnh tụ đồng thời là người thày kiệt xuất của báo chí cách mạng Việt Nam cũng đã thực hiện đúng nguyên tắc đó. Trước khi sáng lập Báo Thanh niên, Người đã viết trên những tờ báo lớn của Paris và Moscow. Người viết nhiều thể loại như: xã luận, bình luận, điều tra, luận chiến, truyện, ký và vẽ cả biếm họa… Các bài báo của Người chỉ nhằm chống Chủ nghĩa thực dân và đòi độc lập, tự do cho nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước thuộc địa. Sau khi khai sinh nền báo chí cách mạng ngay trên Tổ quốc mình, với sự từng trải trong nghề báo, Người gửi đến những người làm báo Việt Nam biết bao lời căn dặn bình dị mà sâu lắng: Phải xác định “Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Vì ai mà viết?”, “Không biết rõ, hiểu rõ, chứ nói, chớ viết. Khi không có gì cần nói, không có gì cần viết chớ nói, chứ viết càn”, “Viết để nêu những cái hay, cái tốt của dân ta, của bộ đội ta, của cán bộ ta, của bạn ta. Đồng thời để phê bình những khuyết điểm của chúng ta, của cán bộ, của nhân dân, của bộ đội. Không nên chỉ viết cái tốt mà giấu cái xấu. Nhưng phê bình phải đúng đắn. Nêu cái hay, cái tốt thì phải có chừng mực, chớ phóng đại”. “Cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ. Để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Khi Người nhận định “Viết cho ai xem? Vì ai mà viết?”, thì tức là Người đã hướng đối tượng phục vụ vào công chúng của báo chí. Các Mác cũng nhận định, để báo chí đi sâu vào quần chúng một cách thiết thực thì một yêu cầu đặt ra là “Báo chí sống trong nhân dân và trung thực chia sẻ 10 với nhân dân niềm hy vọng và sự lo lắng của họ, tình yêu và lòng căm thù của họ, niềm vui và nỗi buồn của họ”. “Trong hy vọng và lo lắng có điều gì báo chí nghe được ở cuộc sống, báo chí sẽ lớn tiếng loan tin cho mọi người đều biết, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những tin tức đó – một cách gay gắt, hăng say, phiếm diện như những tình cảm và tư tưởng bị xúc động thầm bảo nó vào lúc đó. Điều sai lầm hôm nay nằm trong các sự kiện mà nó đưa tin, hoặc trong những lời nhận xét mà nó nêu lên, thì ngày mai sẽ được bản thân nó bác bỏ. Báo chí thể hiện trong bản thân nó cái chính sách “độc đáo”, với ý nghĩa chan chính của từ này, chính sách mà trong những trường hợp khác kẻ thù của báo chí rất yêu thích”.[5] Như mối quan hệ gắn bó hữu cơ, báo chí đã đặt quần chúng bạn đọc trở thành đối tượng phục vụ chính yếu thì quần chúng càng đến gần với báo chí hơn. Từ những nhu cầu thiết yếu được thông tin về thời sự - chính trị - kinh tế - xã hội trên mặt báo, làn sóng phát thanh, truyền hình đã mở rộng thêm thời lượng, chuyên mục phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân lao động. Từ một tờ Thanh Niên tin trên giấy nến cách đây hơn 80 năm, ngày nay báo chí Việt Nam đã có hơn 172 tờ báo, 448 tạp chí, 67 đài phát thanh, truyền hình, 88 tờ báo điện tử và gần 14000 nhà báo có thẻ hành nghề. Đất nước ta đã có tất cả các loại hình báo chí (báo viết, báo phát thanh, truyền hình và Báo mạng điện tử). Một số tờ báo cho xuất bản cùng lúc nhiều loại sản phẩm khác nhau như nhật báo, tuần báo, nguyệt san, đặc san, chuyên san, Báo mạng điện tử… Đài tiếng nói Việt Nam có 6 hệ chương trình, 452 chương trình, thời lượng phát sóng 172 giờ trong ngày. Sóng phát thanh không chỉ phủ sóng trong toàn quốc mà còn tỏa sóng khắp năm châu, đáp ứng nhu cầu tinh thần của hàng triệu đồng bào sống ở nước ngoài 5 Các Mác và Ăngghen toàn tập, tập 9, tr.237, NXB Sự thật, Hà Nội, 1986 11 và bạn bè thế giới. Cùng 11 trạm phát sóng và phát qua vệ tinh của Đài tiếng nói Việt Nam, còn có 64 đài phát thanh tỉnh, thành phố, 606 đài phát thanh – truyền hình cấp huyện, trong đó có 288 đài phát sóng FM. Đài truyền hình Việt Nam có 5 kênh, phủ sóng đến 85% hộ gia đình Việt Nam, có 4 đài khu vực và 61 đài phát thanh – truyền hình tỉnh và thành phố. Trong những năm gần đây đã có chương trình VTV4 phủ sóng đến nhiều vùng trên thế giới, được cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và bè bạn năm châu đón nhận, hoan nghênh. Mặc dù mới phát triển trong những năm gần đây, Báo mạng điện tử đã có bước phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng 32,5%/năm. Hiện nay nước ta có 88 tờ báo điện tử và hàng ngàn trang thông tin điện tử, 6 nhà cung cấp dịch vụ và kết nối Internet, 20 nhà cung cấp dịch vụ Internet, hơn 50 nhà cung cấp thông tin và báo điện tử trên Internet… Báo chí Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nhân dân ta tự hào, vui mừng được sống trong một nền báo chí phát triển rực rỡ như ngày nay. Chúng ta phấn khởi và sung sướng được thấy một đội ngũ nhà báo Việt Nam hùng hậu, thông minh, năng động và có tư duy tươi mới. Thực sự báo chí nước ta đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu được của các tầng lớp nhân dân, thực sự đến với nhiều đối tượng và trở thành người bạn thân thiết hàng ngày của họ. Đó là vì báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội, tiếng nói của nhân dân. Báo chí là người bạn tin cậy của mọi tầng lớp nhân dân, đã và đang đáp ứng quyền được cung cấp thông tin của đông đảo cán bộ, nhân dân. Thời gian gần đây, báo chí của chúng ta đã tăng cường lượng thông tin bổ ích, phản ánh được mọi mặt của đời sống xã hội. Tỷ lệ tin tức liên quan đến cuộc sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Xét theo một góc độ nào đó thì thông tin đầy đủ, chân thật là cơ sở đầu tiên để giáo dục nhận thức công chúng, tạo cho người 12 dân có cách nhìn đúng đắn về xã hội, để tiến đến làm chủ mặt báo. Đầu tiên phải là “Dân biết”, có “biết” mới tiến đến “dân bàn”, “dân thực hiện” và “dân kiểm tra” các hoạt động của xã hội. Hội chứng “Giữ bí mật” và các vấn đề “nội bộ” là vật cản của nói thẳng, nói thật, đang bị dư luận lên án. Tính nhân dân có quan hệ khăng khít với tính công khai trên báo vì lẽ đó. Công khai phải được coi là một điều kiện nhất thiết của quá trình dân chủ hóa xã hội và xử lý đúng đắn tính nhân dân trên mặt báo. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn báo chí phải công khai nói cho dân biết cả những mặt tốt, mặt xấu, khó khăn để dân hiểu và dân tin Đảng. Đó cũng là lý do tại sao Người đã ra lệnh phải tường thuật trên báo Cứu Quốc và Đài tiếng nói Việt Nam một cách đầy đủ, tỉ mỉ về vụ án tham nhũng của đại tá Trần Dụ Châu (năm 1952). Theo Người khẳng định, phải báo chp dân biết vì chế độ này là chế độ của dân, do dân, vì dân, toàn bộ quyền hành nằm trong tay dân cả. Nhà báo Thái Duy đánh giá: “Báo chí là biểu hiện rất cụ thể của quá trình dân chủ hóa đất nước”. Đúng vậy, nước Việt Nam chúng ta đang trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một xã hội hoạt động theo phương châm “do dân, vì dân”. Dĩ nhiên, không ngoại lệ, báo chí cũng lấy nguyên tắc tính nhân dân làm chuẩn mực cho mọi hoạt động. Trên báo chí, ta tthấy xuất hiện hàng loạt các bài báo phản ánh các mặt của đời sống nhân dân, những bức xúc, những kiến nghị của nhân dân, những bài báo viết về những vụ việc làm ảnh hưởng đến nhân dân. Ví dụ: Trên báo “Tuổi trẻ thủ đô” số ra ngày 27/10/2008 có bài báo mang tên “Phải công bằng dân mới „tâm phục khẩu phục”‟. Bài báo viết về vụ xây nhà trái phép của hộ bà Nguyễn Thị Mai Trinh trú tại 16 Lê Phụng Hiểu, phường Tràng Tiền, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đã sai thì phải xử lý theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, điều mà dư luận băn khoăn và thấy bất ổn là ở cách hành xử của chính quyền phường Tràng Tiền, đã không công bằng, thiếu khách quan, thậm 13 chí có dấu hiệu trả thù người khiếu nại tố cáo không thấu tình, đạt lý trong vụ việc này. Đó là một trong những trường hợp mà báo chí đã “lên tiếng‟ đả kích vào sự việc gây ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của nhân dân, phản ánh sự việc dưới quan điểm của nhân dân. Hay trong các số báo ra ngày đầu tiên của năm 2009, có một loạt các bài báo phản ánh các vấn đề trong đời sống nhân dân: “Xử lý nghiêm vi phạm quy định bảo vệ đất trồng lúa” (Báo “Nông thôn ngày nay”, 01/01/2009), “Mối họa của người dân lương thiện” viết về tình trạng côn đồ phạm tội bằng hung khí ở Lào Cai (Báo “Gia đình và xã hội”, 01/01/2009), “Vừa bẩn, vừa điêu” nói về bành mứt Tết sản xuất tại công ty chế biến thực phẩm Thiên Hồng, Từ Liêm, Hà Nội không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (Báo “Tuổi trẻ thủ đô”, 01/01/2009), “Tính mạng người bệnh bị đe dọa‟ viết về vấn đề thuốc đông dược trộn thêm tân dược bày bán trên địa bàn Hà Nội (Báo „Tuổi trẻ thủ đô‟, 01/01/2009), “Thiếu một chế tài xử phạt nghiêm khắc” nói về việc ngăn chặn vi phạm đo lường chất lượng xăng dầu (Báo “Đời sống và pháp luật”, 01/01/2009), “Chủ động phát hiện và tố cáo vi phạm an toàn vệ sinh thực phẩm” (Báo “Sức khỏe và đời sống”, 01/01/2009)... Có thể nói thời lượng các bài báo phản ánh các vấn đề của đời sống xã hội ngày càng cao. Đây là thành công đầu tiên trong việc thực hiện nguyên tắc tính nhân dân của báo chí Việt Nam. Báo chí Việt Nam chống tiêu cực như thế nào? Một biểu hiện không thể thiếu của tính nhân dân đó là việc chống tiêu cực trên báo chí. Báo chí chống tiêu cực để góp phần xây dựng một xã hội Việt nam trong sạch, lành mạnh, xã hội “do dân, vì dân”. Báo chí Việt Nam đã tích cực tham gia đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, quan liêu, phát hiện những việc 14 làm trái với pháp luật, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Báo chí tham gia xây dựng đời sống mới,đấu tranh với những hủ tục, những tệ nạn xã hội. Khảo sát trên báo ta thấy hàng loạt các bài phóng sự điều tra phê phán các mặt tiêu cực của xã hội, giúp người dân nhận thức được cái xấu và biết đấu tranh vì một xã hội lành mạnh. VD: Bài “Công ty cấp thoát nước để „thoát” hơn 17 tỉ đồng” (Báo “Nông thôn ngày nay”, 01/01/2009). Bài “Nữ sinh tuổi teen muốn...già!” (Báo “Tiền phong” số 168, ngày 16/06/2008) phê phán lối sống hư hỏng của một bộ phận nữ sinh 9x. Có thể nói, báo chí luôn bám sát mọi mặt của đời sống xã hội, luôn có mặt ở những điểm nóng của hoạt động thực tiễn, phản ánh, phê bình kịp thời những tiêu cực, cho dù tiêu cực đó xảy ra ở đâu, thuộc ngành nào, ai là người sai phạm?... Tính nhân dân có mâu thuẫn với tính Đảng của báo chí? “Một nền báo chí, một tác phẩm báo chí có tính nhân dân khi đề cập, phản ánh những sự kiện, hiện tượng có ý nghĩa đối với nhân dân, lý giải chúng theo quan điểm tiến bộ của nhân dân, phù hợp với những tư tưởng tiến bộ của thời đại”.[6] Báo chí của chúng ta là công cụ phục vụ lợi ích của quần chúng, coi phong trào quần chúng là cơ sở thực tiễn để phản ánh, do vậy tính nhân dân không hề mâu thuẫn với tính Đảng. Quan điểm “Báo chí là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, của các tổ chức xã hội” để từ đó “báo chí là diễn đàn của nhân dân”. “lấy dân làm gốc”, để “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là hoàn toàn phù hợp với thực tế, với quan điểm lịch sử. Trên thực tế, sự gặp nhau giữa “ý Đảng, lòng dân” đã tạo thành sức 6 Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông, tr.118, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005 15 mạnh vượt mọi khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. Báo chí phân tích, lý giải các sự kiện nóng hổi, những vấn đề thiết thực đang đặt ra từ đời sống dưới ánh sáng đường lối quan điểm đúng đắn của Đảng, phù hợp với nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Ta hiểu tại sao có người đã ví báo chí là chiếc cầu nối giữa một bên là Đảng, một bên là nhân dân. Đảng dùng báo chí để tuyên truyền đến nhân dân những chủ trương, chính sách. Và thông qua báo chí, nhân dân có thể kiến nghị lên Đảng những nhu cầu, nguyện vọng, những tâm tư. Có ý kiến cho rằng báo chí tư nhân, tư sản mới thực sự chú trọng thông tin đa chiều, có tính đại chúng rõ nét hơn. Nhưng đó chỉ là cách lập luận phiếm diện nhằm che đậy các mục đích chính trị hoặc thương mại đơn thuần. Tính quần chúng thể hiện trên báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng còn bao hàm nhiều ý nghĩa rộng lớn hơn, đó là báo chí phục vụ cho lợi ích thiết thân của quần chúng. Diễn đàn trên báo Đảng là diễn đàn dân chủ, tập trung phục vụ cho lợi ích của Đảng, lợi ích này hoàn toàn gắn bó với lợi ích của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội. Vì vậy giữa tính Đảng và tính nhân dân trong nguyên tắc hoạt động của báo chí có mối quan hệ gắn bó hữu cơ, không thể tách rời. 2) Biểu hiện thứ hai của tính nhân dân trong hoạt động báo chí là sự tham gia tích cực và thường xuyên của đông đảo nhân dân vào các hoạt động báo chí. Lênin từng nói: “Cơ quan báo sẽ sinh động, đầy sinh lực khi nào cứ 5 nhà văn lãnh đạo và thường xuyên viết sách báo thì lại có 500 và 5000 nhân viên cộng tác không phải là nhà văn”.[7] Chính sự tham gia của quần chúng đã làm cho báo chí thực sự trở thành diễn đàn dân chủ để người dân phát biểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, 7 V.I.Lênin toàn tập, tập 9, tr.127-135, NXB Sự thật, Hà Nội, 1986 16 trực tiếp tham gia thảo luận những vấn đề quốc kế mưu sinh, thực hiện những quyền dân chủ của công dân trong việc biểu dương những nhân tố tích cực, phê phán các hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội cũng như trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức kinh tế và đoàn thể xã hội. Quần chúng có thể tham gia vào hoạt động báo chí dưới nhiều hình thức: Nhân dân tham gia với tư cách là cộng tác viên, cung cấp thông tin, trực tiếp làm ra các sản phẩm báo chí. Đây là môt hình thức khá phổ biến ở rất nhiều các cơ quan báo chí hiện nay. Ưu điểm của hoạt động này là giúp cho báo chí thu thập được thông tin nhanh nhạy và đầy đủ hơn. Với lực lượng cộng tác viên gồm các nhà khoa học, các nhà hoạt động chính trị - xã hội, học sinh, sinh viên và cả những người lao động bình thường, báo chí đã thu được chất xám của toàn xã hội, tăng thêm sự gắn bó và uy tín của báo chí trong nhân dân. Mặt khác, đối với đội ngũ cộng tác viên, khi được tham gia vào các cơ quan báo chí, họ có cơ hội được phản ánh những sự vật, sự việc trong xã hội, và có thể nâng cao thu nhập (thông qua việc nhuận bút từ mỗi bài viết). Ta thấy trong đội ngũ cộng tác viên của cơ quan báo chí. Chiến đa số là sinh viên các chuyên ngành báo chí, họ tham gia cộng tác như một cơ hội rèn luyện nghề nghiệp và tích lũy kinh nghiệm. Một ví dụ điển hình như sinh viên Vũ Văn Tiến (Báo in K22 - Khoa Báo chí - Học viện Báo chí và tuyên) đã làm cộng tác viên cho mười tờ báo và tạp chí khi còn là sinh viên như báo Lao động, Nông thôn ngày nay, Quân đội nhân dân, Tiền phong, Tuổi trẻ, Tạp chí Thanh niên.... Vũ Văn Tiến đã viết rất nhiều thể loại: Tiểu phẩm báo chí, bài phản ánh điều tra... Đóng góp cho các báo một tác phẩm đồ sộ. Các tác phẩm của Vũ Văn Tiến tập trung phản ánh các hiện tượng có thật trong đời sống xã hội, phê phán những mặt trái, biểu dương người tốt, việc tốt.... góp phần vào xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Bên cạnh Vũ Văn Tiến còn rất nhiều các cộng tác 17 viên thuộc mọi lứa tuổi, mọi ngành nghề, đang làm việc cho các cơ quan báo chí, từ các tờ báo in cho các đài phát thanh - truyền hình. Và sự tham gia của nhân dân vào báo chí có lẽ được thể hiện rõ nhất trên báo mạng điện tử. Trên các trang báo điện tử, người dân được thỏa sức bình luận, đánh giá, đăng tải những bài viết, ý kiến (tất nhiên những bài viết và hình ảnh phải nằm trong phạm vi pháp luật quy định). Mặc dù vậy, blog chưa thể coi là báo chí nhân dân, cho dù đó có là những blog chuyên về các vấn đề chính trị, thì phần lớn những bài viết trong đó vẫn không hề mang tính báo chí. Những bài viết chỉ đơn giản là nhằm chia sẻ các thông tin cá nhân và thu hút được rất ít lượng độc giả. Hiện nay, các cơ quan báo chí đang có xu hướng tuyển thêm nhiều cộng tác viên để thu hút thêm nhiều tiếng nói của công chúng. Chính điều này đã góp phần nâng cao tính nhân dân của báo chí, giúp báo chí đến gần hơn với quần chúng. Nhân dân có thể tham gia vào báo chí với tư cách là công chúng (độc giả, khán - thính giả...) đóng góp ý kiến phê bình, kiến nghị về tất cả các hoạt động của đời sống xã hội cũng như riêng với các hoạt động báo chí. Ở Việt Nam, việc phản ánh tiếng nói của công chúng trên báo được nâng lên một bước vô cùng quan trọng. Như chúng ta đã thấy, hiện nay tất cả các phương tiện thông tin đại chúng đều giành nhiều thời gian, liều lượng để đăng tải ý kiến của bạn đọc, hình thành nên từng mục, từng trang đặc sắc như: “Ý kiến bạn đọc” của báo Tiền phong, “Nhịp cầu bạn đọc” của báo Quân đội nhân dân, “Bạn đọc” của các báo Tuổi trẻ Thủ đô, Bạn đường, chuyên mục “Ý kiến bạn nghe đài” của Đài tiếng nói Việt Nam, các chuyên mục “Hộp thư truyền hình”, “Trả lời bạn xem truyền hình” của Đài truyền hình Việt Nam….Qua những chuyên mục này, người dân có thể đóng góp ý kiến có thể là khen hoặc chê đối với các cơ quan báo chí hoặc phản ánh những bức xúc, những kiến nghị… Và qua đó cơ quan báo chí cũng nắm bắt được những nhu cầu của nhân dân, biết được những ưu, khuyết điểm 18 của mình để phát huy và sửa chữa. Đó là một nét mới biểu hiện sinh động sự dân chủ hóa và công khai trong thông tin, thể hiện cao độ nguyên tắc tính quần chúng trên báo chí. Nhưng là chiếc cầu nối giữa Đảng với quần chúng không có nghĩa là báo chí chỉ đứng giữa Đảng với quần chúng, báo chí còn phải thực hiện chức năng hướng dẫn dư luận xã hội. Việc phản ánh ý kiến, tiếng nói của quần chúng cũng có nhiều cách làm. Thông tin 2 chiều là cần thiết nhưng không phải báo chí đưa lên tất cả những ý kiến một cách tùy tiện, vô thưởng vô phạt. Điều đó chỉ làm rối ren dư luận xã hội, tổn hại đến lợi ích của nhân dân. Tóm lại, sự tham gia tích cực của quần chúng làm cho thông tin báo chi trở nên sinh động hơn, nhanh chóng, kịp thời và sát với cuộc sống hơn. Thu hút trí tuệ và tài năng sáng tạo của toàn thể xã hội là con đường đúng đắn để nâng cao tính hấp dẫn, tính trí tuệ của báo chí. Sự giao lưu gắn bó với công chúng có một tầm quan trọng đặc biệt như vậy cho nên công tác bạn đọc (đối với báo viết), thính giả (đối với phát thanh), khán giả (đối với báo hình) luôn luôn là công tác trọng tâm của bất kì cơ quan báo chí và bất kì người làm báo nào. Ở đây không chỉ đòi hỏi người cán bộ phải vững vàng, trung thực, nhiệt tình, tận tụy, có văn hóa mà cao hơn nữa phải dày dạn kinh nghiệm công tác, biết đổi mới và sáng tạo nhiều hình thức giao lưu với công chúng, làm cho tờ báo thực sự gắn bó với xã hội. Biểu hiện thứ ba của tính nhân dân trong hoạt động báo chí là ở nghệ thuật biểu hiện trong các tác phẩm báo chí phù hợp với trình độ, nhận thức, năng lực tiếp thu và nhu cầu thẩm mĩ lành mạnh của công chúng. Một tác phẩm báo chí khi đề cập đúng vấn đề mà xã hội quan tâm, nhưng nghệ thuật biểu hiện kém, ngôn ngữ xa vời với cách nói, cách nghĩ của công chúng thì cũng không thể đem lại hiệu quả cao. Lênin đặc biệt quan tâm đến 19 cách viết, cách nói sao cho thật giản dị, dễ hiểu. Người chỉ ra rằng: “Sự đơn giản, dễ hiểu và phổ cập, nội dung sinh động của tư liệu đưa ra sẽ đảm bảo cho những tư tưởng của báo chí đi sâu vào lòng người đọc thuộc mọi tầng lớp nhân dân”.[8] Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhắc nhở: “Báo chí ta không phải để cho số ít người xem, mà để phục vụ nhân dân… cho nên phải có tính chất quần chúng”.[9] Do vậy, cái quan trọng hàng đầu của người làm báo là phải biết nói đơn giản, dễ hiểu, lược bỏ đi những khuôn sáo thuật ngữ cứng nhắc, những khẩu hiệu rỗng tuếch và xa lạ, những từ ngữ khó hiểu đối với quần chúng. Khảo sát trên thực tế báo chí Việt Nam, ta thấy các nhà báo đều viết bài với một lối viết giản dị, đảm bảo cho một người với trình độ bình dân cũng có thể hiểu hết nội dung, ý nghĩa của bài báo. Đôi khi trên báo chí cũng có sử dụng các thủ pháp nghệ thuật nhằm tăng tính biểu cảm cho tác phẩm báo chí như: ẩn dụ, chơi chữ… Nhưng những tri thức sử dụng thủ pháp này đều được bóc tách từ những tục ngữ, ca dao truyền thống, những điển tích quen thuộc đảm bảo tính dễ hiểu. Nhà báo chỉ làm mới hoặc sáng tạo trên cái đã có, ví dụ: “”Đi bụi” để hiểu cuộc đời gió bụi” (Báo Sinh viên Việt Nam, 25/03/2008), “Thời “oanh” đã qua, nay tới thời “liệt”” (Báo Thế giới, 25/03/2002)… Giản dị, dễ hiểu là yêu cầu đặt ra để nâng cao tính hấp dẫn và hiệu quả của báo chí đối với nhân dân. Bởi sự thông thái, uyên thâm mà không đi được vào lòng người, không được được quần chúng hiểu và chấp nhận thì đó là sự thông thái vô bổ. Ngược lại, nếu giản dị đến mức nôm na, tầm thường và không có tác dụng nâng cao năng lực thẩm mỹ thì cũng làm cho quần chúng khó tiếp thu. Vì vậy, vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa phổ cập và nâng cao là hết sức quan trọng. Để làm được điều này, người làm báo phải thường xuyên rèn luyện, trau 8 9 V.I.Lênin toàn tập, tập 14, tr.92, NXB Sự thật, Hà Nội, 1986 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 9, tr.414, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996 20 dồi vốn sống, vốn hiểu biết văn hóa, luôn học hỏi mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Người làm báo phải là một chiến sỹ văn hóa, biết giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, thuần phong mỹ tục Việt Nam. Như đồng chí Trường Chinh - cố tổng bí thư Đảng ta và là cây bút chính luận bậc thầy của báo chí cách mạng Việt Nam từng căn dặn những người làm báo: “Chúng ta phải biết trau dồi văn phong cho tốt đẹp và đúng đắn. Nghề báo chính là nghề văn, một nghề gian khổ mà cao quý. Phải có văn phong mới tuyên truyền… vì sự nghiệp của nhân dân mà nâng cao câu văn của chính mình”. Còn cố thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn nhắc nhở những người làm báo: “Phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.[10] III/ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG VIỆC THỰC HIỆN TÍNH NHÂN DÂN CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM. Nhìn chung, báo chí Việt Nam thực hiện tương đối tốt nguyên tắc tính nhân dân thể hiện qua việc báo chí viết về các sự kiện của đời sống xã hội, nhìn nhận và đánh giá mọi vấn đề dưới góc nhìn của quần chúng; sự tham gia của quần chúng vào báo chí; và việc sử dụng ngôn ngữ có tính đại chúng trên báo chí. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế trong việc thực hiện nguyên tắc tính nhân dân. Đó là: 1) Báo chí thông tin không chính xác, sai sự thật gây ra hiểu lầm hoặc nghiêm trọng hơn là ảnh hưởng đến tư tưởng của quần chúng, gây tổn hại đến đời sống vật chất và tinh thầnn của nhân dân. Ví dụ: Vụ các bài báo về vụ việc sông Tô Lịch. “Thánh vật ở sông Tô Lịch” là tên chuỗi bài trên báo “Bảo vệ pháp luật” tại Việt Nam trong các số 13, 14, 15 từ 31/3 đến 14/4/2007. Chuỗi bài này thống kê các sự việc không lành diễn ra 10 Website: www.nhandan.com.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan