Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện tứ kỳ, tỉnh hải dương...

Tài liệu Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện tứ kỳ, tỉnh hải dương

.PDF
87
573
90

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ HUỆ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số : 60.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRƯƠNG THỊ HỒNG HÀ HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! TÁC GIẢ LUẬN VĂN NGUYỄN THỊ HUỆ MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN 1.1 Khái niệm, đặc điểm tiếp công dân 1.2 Khái niệm, đặc điểm, hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về tiếp công dân 1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân 1 11 11 16 28 Chương 2 : THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIẾN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI 33 DƯƠNG 2.1. Thực trạng pháp luật về tiếp công dân của Uỷ ban nhân dân các cấp từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 2.2. Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 2.3. Ưu điểm và hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân của Uỷ ban nhân dân các cấp huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 2.4. Nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế trong thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương 33 45 49 60 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN TỪ THỰC TIỄN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI 66 DƯƠNG 3.1 Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân 66 3.2 Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân 67 3.3.Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về tiếp công dân 71 KẾT LUẬN 78 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa HĐND: Hội đồng nhân dân UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nhà nước CHXHCN Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, điều này khẳng định mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân, là nhà nước do dân lập nên, dân làm chủ, dân ủng hộ, mọi hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước luôn phải lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến, nguyện vọng của nhân dân thông qua việc tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân, hoạt động này được gọi là hoạt động tiếp công dân. Trong một xã hội dân chủ, hoạt động tiếp công dân là sự phản ánh, biểu hiện ra bên ngoài của việc thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân. Mối quan hệ giữa Nhà nước với công dân là mối quan hệ hai chiều, công dân vừa là đối tượng chịu sự quản lý của nhà nước, khi tiếp công dân là nhà nước tiếp nhận sự phản ánh lại những tác động từ hoạt động quản lý của nhà nước, đồng thời công dân cũng là chủ thể của quyền lực nhà nước khi công dân có quyền đề xuất, kiến nghị với nhà nước về những nội dung liên quan đền quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, nhà nước có trách nhiệm tiếp công dân để lắng nghe, tiếp nhận, xử lý, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và cung cấp cho người dân những thông tin liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đó. Tiếp công dân có vai trò rất quan trọng, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản pháp luật về tiếp công dân; Ngay từ ngày đầu xây dựng nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến việc thể chế hoá và hiện thực hoá các quyền tự do, dân chủ trong đó có quyền khiếu nại, tố cáo của công dân. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh tra đặc biệt, Điều 2 của Sắc lệnh này quy định một trong những nhiệm vụ 1 của Ban thanh tra là “Tiếp nhận các đơn khiếu nại của nhân dân”. Đây là văn bản pháp lý quan trọng đầu tiên xác định quyền khiếu nại của công dân đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước, cán bộ, nhân viên làm việc trong cơ quan đó và trách nhiệm của cơ quan thanh tra trong việc giải quyết các khiếu nại của nhân dân. Tại Hội nghị cán bộ Thanh tra toàn miền Bắc năm 1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn thị: “Về công tác xét và giải quyết các việc khiếu nại, tố giác, nhiệm vụ của các Ban Thanh tra là phải làm cho nghiêm chỉnh, kịp thời, làm sớm chừng nào hay chừng ấy. Đồng bào có oan ức mới khiếu nại, hoặc chưa hiểu rõ chính sách của Đảng và Chính phủ mà khiếu nại. Ta giải quyết nhanh, tốt chừng nào thì đồng bào thấy rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến quyền lợi của họ, do đó mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ cũng được củng cố tốt hơn”. Đến Hiến pháp năm 1992 tại Điều 8 có quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân”. Ngày 07/8/1997 Chính phủ ban hành Nghị định số 89/CP về ban hành quy chế tiếp công dân đã nêu rõ các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm tiếp công dân đến trình bày khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Ngày 06/3/2002 Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 09/CT-TW về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong đó quy định “các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể các cấp phải quan tâm đến việc tiếp dân, giải quyết đúng đắn, kịp thời khiếu nại, tố cáo của công dân, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, ngăn ngừa, khắc phục tình trạng công dân khiếu tố vượt cấp...” Quốc hội ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005; Chính Phủ ban hành Nghị 2 định số 136/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo; Đến năm 2011, nội dung khiếu nại, tố cáo được quy định trong văn bản Luật riêng: Luật Khiếu nại 2011, Luật Tố cáo 2011. Đăc biệt là năm 2013 Luật tiếp công dân năm 2013 ra đời đã quy định rõ những vấn đề cơ bản của hoạt động tiếp công dân như trách nhiệm tiếp công dân, quyền và nghĩa vụ của người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; việc tổ chức tiếp công dân tại Trụ sở tiếp công dân, địa điểm tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị và điều kiện bảo đảm cho hoạt động tiếp công dân. Đến Hiến pháp năm 2013 đã khảng định Khiếu nại, tố cáo là quyền của công dân, tại Điều 30 của Hiến pháp ghi nhận: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. 2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật ”[17]. Tiếp theo đó, ngày 26 tháng 6 năm 2014 Chính Phủ ban hành Nghị định số 64/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật tiếp công dân năm 2013. Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 06/2014/TT-TTCP ngày 31 tháng 10 năm 2014 quy định về quy trình tiếp công dân. Như vậy, những quy định của pháp luật về công tác tiếp công dân ngày càng đầy đủ, hoàn thiện, các quy định này đóng vai trò rất quan trọng, là cơ sở pháp lý giúp công dân thực hiện được các quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của mình, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong hoạt động tiếp công dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị chính đáng của người dân, thông qua công tác tiếp dân mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân ngày càng được tăng cường, củng cố, tiếp công dân là cầu nối trực tiếp, hữu hiệu nhất để người lãnh đạo chính quyền, 3 cán bộ nhà nước gần và sát dân hơn, cán bộ lãnh đạo sẽ có cơ hội nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng và những băn khoăn, trăn trở của nhân dân, giải quyết kịp thời những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của nhân dân, tạo được niềm tin trong nhân dân, góp phần nâng cao trách nhiệm của chính quyền, ổn định tình hình chính trị địa phương nói riêng và trong cả nước nói chung, tạo nên sức mạnh đoàn kết toàn dân. Tiếp công dân là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước nói chung nhưng đặc biệt quan trọng là trách nhiệm của UBND các cấp, bởi lẽ UBND các cấp là cơ quan có thẩm quyền chung, quản lý toàn diện các mặt của đời sống xã hội tại địa phương, thường xuyên có quyết định, hành vi tác động đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Trách nhiệm, hiệu quả, tính chất của hoạt động tiếp công dân phụ thuộc rất lớn vào tình hình kinh tế, xã hội, trình độ nhận thức của cán bộ và nhân dân ở mỗi địa phương. Tứ Kỳ là một huyện của tỉnh Hải Dương, dân số toàn huyện tại thời điểm điều tra dân số và nhà ở ngày 31/12/2015 là 158.992 người. Nhân dân sản xuất nông nghiệp là chính, những năm gần đây công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ bước đầu phát triển, đời sống của một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Trong những năm qua các cấp chính quyền huyện đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp nhằm thu hút các dự án đầu tư vào huyện để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Cùng với việc thu hút trên hàng chục dự án lớn, nhỏ vào huyện, được sự quan tâm của UBND tỉnh và Bộ Giao thông vận tải, huyện Tứ Kỳ đã được đầu tư nâng cấp tỉnh lộ 391, 392, đường ôtô cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, Cầu Bía, đường 191D và một số dự án khác. Chính vì vậy UBND huyện và UBND các xã, thị trấn phải liên tục tổ chức thực hiện công tác giải phóng mặt bằng để tiếp nhận các dự án giao thông, dự án thuê đất sản xuất công nghiệp, dịch vụ. Do việc thu hồi đất có tác động trực tiếp đến sản xuất và đời sống của một bộ phận nhân dân có đất bị thu hồi. Mặt khác, do tác động 4 mặt trái của cơ chế thị trường và thực hiện các chính sách an sinh xã hội ở một số địa phương thiếu công khai, dân chủ, cá biệt có nơi vi phạm chế độ chính sách. Đó là những yếu tố tác động trực tiếp đến công tác tiếp dân và giải quyết đơn thư những năm gần đây. Song với sự tập trung chỉ đạo, làm tốt công tác tiếp dân, thực hiện nghiêm quy trình trong giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, công tác tiếp dân đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần giữ vững ổn định tình hình nhân dân, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, công tác tiếp dân tại UBND các cấp trên địa bàn huyện Tứ Kỳ cũng còn nhiều hạn chế, khó khăn chủ yếu đó là: Thứ nhất, nhận thức pháp luật của một bộ phận nhân dân về các lĩnh vực chưa cao, đặc biệt là về đất đai, giải phóng mặt bằng. Thứ hai, còn tình trạng cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước chưa nhận thức đúng về trách nhiệm, vai trò của mình trong công tác tiếp công dân, coi nhẹ các đề nghị của công dân, tình trạng đùn đẩy, né tránh vẫn xảy ra. Thứ ba, tình hình kinh tế, xã hội ngày càng phát triển cùng với nó là các quan hệ xã hội diễn ra sôi động trên các phương diện, các tranh chấp giữa các tổ chức, cá nhân về quyền và nghĩa vụ ngày càng nhiều và phức tạp đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước, bên cạnh đó có cả xung đột giữa nhà nước và nhân dân liên quan đến lợi ích của người dân. Vấn đề đó dẫn đến các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trở nên phức tạp. Để khắc phục những hạn chế, khó khăn trong công tác tiếp dân trên địa bàn huyện Tứ Kỳ hiện nay, góp phần ổn định trật tự xã hội trên địa bàn huyện, cùng với điều kiện của bản thân có nhiều năm trực tiếp làm công tác tiếp công dân nên học viên chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học chuyên ngành Luật Hiến pháp và luật Hành chính. Với mong muốn góp phần làm rõ cơ sở lý luận về tiếp công dân trong hoạt động quản lý Nhà nước, đánh giá đúng đắn thực trạng địa 5 phương và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tiếp công dân của UBND các cấp tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có nhiều công trình nghiên cứu về pháp luật tiếp công dân, về thực tiễn hoạt động công tác tiếp công dân nói chung trên cả nước, làm cơ sở lý luận và nguồn tham khảo cho đề tài, cụ thể: - Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Ts. Bùi Mạnh Cường và Ts. Nguyễn Thị Tố Uyên sưu tầm và tuyển chọn, Nxb Chính trị quốc gia, 2013. Đây là cuốn sách bao gồm các bài viết, bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh được sắp xếp theo trình tự thời gian về công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo; - Quy trình tiếp công dân và xử lý đơn thư của Tạp chí Thanh tra, Thanh tra Chính phủ, Nxb Thanh niên, 2013. Cuốn sách đã nêu bật được những vấn đề chung của công tác tiếp công dân và những quy định của pháp luật hiện nay về công tác này; - Nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của Viện Khoa học Thanh tra và Trường Cán bộ Thanh tra, Tài liệu phục vụ bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra, Hà Nội 2005; - Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới, Thanh tra Chính phủ, Nxb Hà Nội, 2006. Cuốn sách trình bày một số vấn đề đặt ra đối với công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới; Kinh nghiệm thực tiễn của các ngành, các địa phương trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; - Thực hiện pháp luật về tiếp công dân của Ủy ban nhân dân các cấp từ thực tiễn thành phố Hà Nội của thạc sỹ Nguyễn Thị Hằng, 2015, làm rõ cơ sở lý luận về tiếp công dân trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung và thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND thành phố Hà Nội; - Đề tài khoa học cấp Bộ của Thạc sỹ Bùi Mạnh Cường, 2013, Ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân. Đề tài nêu rõ thực trạng về tiếp 6 công dân và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong những năm vừa qua và đưa ra những giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tiếp công dân trong thời gian tới ở nước ta; - “Quy trình tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo trong các cơ quan của Quốc hội ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Tuyết Trinh. - “Cải cách thủ tục hành chính trong tiếp dân, giải quyết KN, tố cáo” (Chủ nhiệm- đồng chí Lê Đình Đấu- Vụ trưởng vụ xét khiếu tố), mục đích là nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục hành chính trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. - “Giải quyết khiếu tố của nhân dân - thực trạng và những bài học kinh nghiệm’’ (Khoa Nhà nước và Pháp luật- Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2001) được các tác giả bàn luận theo phương thức trên cơ sở lý luận về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo để rút ra một số bài học kinh nghiệm, kiến nghị các giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. - “Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình hiện nay”, Tham luận tại hội thảo Thanh tra 7 tỉnh miền Bắc năm 2014. Các tham luận tập trung vào các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các công trình nghiên cứu trên ở các mức độ khác nhau đều có đề cập vấn đề tiếp công dân nói chung nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu cụ thể và trực tiếp đến vấn đề tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Các đề tài, bài biết, tham luận mới chỉ đề cập đến những vấn đề riêng hoặc ở một số khía cạnh nhất định, rời rạc đến pháp luật về tiếp công dân và bất cập, khó khăn trong quá trình thực hiện pháp luật về tiếp công dân của các cơ quan, đơn vị. Vì vậy, vấn đề “Thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương” là vấn đề cần được nghiên cứu. Đó cũng chính là một trong những lý do tác giả chọn vấn đề này làm đề tài luận văn cao học Luật của mình. 7 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở khoa học về tiếp công dân tại huyện Tứ Kỳ, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về tiếp công dân nói chung và nâng cao hiệu quả của hoạt động tiếp công dân Ủy ban nhân dân các cấp tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương hiện nay. Đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về tiếp công dân, kết quả hoạt động tiếp công dân, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa chính trị ảnh hưởng đến hoạt động tiếp công dân; ưu điểm, khó khăn, hạn chế và tìm nguyên nhân của những khó khăn, hạn chế trong công tác tiếp công dân; Quan điểm và giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn có các nhiệm vụ sau: - Phân tích, làm rõ khái niệm, ý nghĩa, mục đích, đặc điểm của hoạt động tiếp công dân nói chung và hoạt động tiếp công dân của huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương nói riêng. - Làm rõ những đặc thù và thực tiễn hoạt động tiếp công dân của UBND các cấp trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, đánh giá đúng đắn những kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế. - Đưa ra quan điểm và giải pháp bảo đảm thực hiện pháp Luật tiếp công dân của UBND các cấp trên địa bàn huyện từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, Hải dương. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND huyện Tứ Kỳ và UBND 27 xã, thị trấn thuộc huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 8 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động tiếp công dân của UBND huyện Tứ Kỳ, UBND các xã, thị trấn thuộc huyện Tứ Kỳ gắn liền với việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước của các cấp chính quyền địa phương trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015. Hoạt động tiếp công dân được nghiên cứu trong luận văn này được giới hạn trong việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh với UBND huyện, UBND cấp xã trong việc thực hiện chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ở huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động tiếp công dân nói chung và tiếp công dân của UBND cấp huyện, cấp xã nói riêng. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể đó là: duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, khảo sát, đánh giá thực tiễn, phân tích, tổng hợp, logic, chứng minh, so sánh, hệ thống hóa. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Là công trình nghiên cứu tổng quát về pháp luật và việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân của UBND các cấp huyện Tứ Kỳ, luận văn có những đóng góp mới sau: - Góp phần làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của hoạt động tiếp công dân trong quản lý nhà nước, từ đó nêu bật vị trí, vai trò và trách nhiệm của cán bộ, công chức trong tiếp công dân. - Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tiếp công dân tại UBND các cấp huyện Tứ Kỳ, làm rõ những kết quả đạt được, ưu điểm, những hạn chế cần khắc phục và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế trong quá trình thực hiện những quy định của pháp luật về tiếp công dân của UBND các cấp huyện Tứ Kỳ. 9 - Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về tiếp công dân nói chung và tiếp công dân trên địa bàn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương nói riêng. Trong đó, tập trung vào giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật và tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức thực hiện hoạt động tiếp công dân. Với những nội dung đạt được, kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là cơ sở, là tư liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân cũng như nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, kết cấu của luận văn gồm 03 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản của thực hiện pháp luật về tiếp công dân Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về tiếp công dân từ thực tiễn huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. 10 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ TIẾP CÔNG DÂN 1.1. Khái niệm, đặc điểm tiếp công dân 1.1.1. Khái niệm tiếp công dân Tiếp công dân là một hiện tượng khách quan phát sinh trong đời sống xã hội, một hoạt động mang tính xã hội, gắn liền với sự tồn tại của nhà nước, nhà nước thực hiện chức năng quản lý, hoạt động quản lý nhà nước chủ yếu do các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện những mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, đây là hoạt động thực thi quyền hành pháp. Bằng quyền lực nhà nước trên cơ sở quy định của pháp luật, nhà nước tác động và điều chỉnh hành vi, hoạt động của con người và các quá trình xã hội, các cơ quan, tổ chức, cá nhân thường xuyên là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp từ những quyết định hành chính hay hành vi hành chính. Chính vì vậy, trong quản lý nhà nước luôn ẩn chứa nguy cơ phát sinh những xung đột về lợi ích giữa một bên là các cơ quan nhà nước-chủ thể của quản lý nhà nước với một bên là cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự quản lýđối tượng của quản lý nhà nước. Trong một xã hội dân chủ, nhà nước không chỉ ban hành quy định buộc các đối tượng quản lý phải tuân theo mà trong quá trình quản lý nhà nước cũng luôn cần sự đóng góp ý kiến từ phía tổ chức, người dân để khắc phục những hạn chế, hoàn thiện về cơ cấu tổ chức cũng như chính sách, pháp luật. Việc quản lý đạt hiệu quả hay không được đánh giá vào mức độ đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân, do đó, việc tiếp xúc giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các cơ quan, tổ chức, cá nhân là yêu cầu khách quan. Nhà nước thực hiện việc tiếp nhận những khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh từ phía nhân dân về những quyết định, hành vi của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức nhà nước, đó là một sự phản ứng tự nhiên của con người 11 khi quyết định, hành vi quản lý của nhà nước đã được ban hành hoặc thực hiện mà người dân thấy rằng nó không phù hợp, hoặc không đúng, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của xã hội. Nhà nước có trách nhiệm tổ chức gặp gỡ, tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Đây chính là hoạt động tiếp công dân của cơ quan nhà nước, đặc biệt là cơ quan hành chính nhà nước. Hoạt động tiếp công dân là một trong những hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước. Thông qua việc tiếp công dân, Nhà nước kịp thời tiếp nhận và xử lý những vấn đề phát sinh trong quản lý nhà nước, lắng nghe được những ý kiến của dân, nhận được những thông tin kịp thời phản ánh về quá trình thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trên cơ sở đó Đảng và Nhà nước có thể điều chỉnh sửa đổi, bổ sung kịp thời các chính sách, pháp luật cho phù hợp với thực tế phát triển vận động của xã hội. Trước khi có Luật tiếp công dân năm 2013, thuật ngữ tiếp công dân đã thường xuyên xuất hiện trong đời sống hàng ngày, trong hoạt động quản lý của nhà nước và trong các văn bản pháp luật, được hiểu rằng đó là một hoạt động của quản lý nhà nước, xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong tiếp công dân, trình tự, thủ tục tiến hành tiếp công dân...Tuy nhiên chưa có một khái niệm chính thức về tiếp công dân trong bất kỳ văn bản nào. Luật tiếp công dân năm 2013 khái niệm:“Tiếp công dân là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật” [21]. Như vậy, tiếp công dân là hoạt động cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận thông tin từ người dân thông qua ba hoạt động đó là: khiếu nại; tố cáo; kiến nghị, phản ánh. 12 1.1.2. Đặc điểm của tiếp công dân Là một hoạt động trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhằm đón tiếp để lắng nghe, tiếp nhận; giải thích, hướng dẫn cho công dân về việc thực hiện khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh theo đúng quy định của pháp luật, hoạt động tiếp công dân có các đặc điểm sau: Thứ nhất, tiếp công dân là hoạt động được thực hiện bởi chủ thể mang quyền lực nhà nước, theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Chủ thể mang quyền lực nhà nước ở đây cụ thể đó là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong việc tiếp nhận những thông tin từ công dân để lắng nghe, giải quyết các yêu cầu của công dân, việc giải quyết phải theo một quy trình cụ thể do luật định. Đặc điểm này nhằm xác định trách nhiệm của nhà nước, cụ thể là trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc thực hiện nhiệm vụ tiếp công dân, đồng thời cũng nhằm hạn chế sự né tránh, đùn đẩy hay lạm quyền, tùy tiện trong công tác tiếp dân. Thứ hai, tiếp công dân là hoạt động có mục đích thể hiện bản chất của nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước thực hiện việc tiếp công dân nhằm phát huy dân chủ và đảm bảo quyền công dân được thực hiện trên thực tế đó là các quyền khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đồng thời chính từ hoạt động đó nhà nước tiếp nhận và thấy được hiệu quả của việc quản lý, là kênh thông tin quan trọng để nhà nước kiểm tra, giám sát bộ máy quản lý, phát hiện và báo động về những khiếm khuyết, trục trặc của hệ thống quản lý ở các tầng nấc, qua đó xem xét, điều chỉnh kịp thời, phản ánh sự đồng thuận của xã hội, thái độ của công dân đối với nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, chính là thước đo thái độ của công dân với chế độ chính trị. Thứ ba, tiếp công dân là hoạt động đa dạng, phức tạp: Khác với hoạt động tiếp xúc giữa công dân với cơ quan nhà nước để giải quyết các công việc cụ thể thông thường diễn ra liên tục hàng ngày liên quan đến quản lý nhà nước trên các lĩnh vực theo thủ tục nhất định. Đối với quản lý hành chính nhà nước, nhà nước và 13 công dân thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trên cơ sở các quy định về thủ tục hành chính trong từng lĩnh vực, khi công dân đáp ứng đầy đủ các yêu cầu liên quan đến hồ sơ, thủ tục thì nhà nước có nghĩa vụ thực hiện để giải quyết một công việc cụ thể cho công dân, kết quả của việc thực hiện này là người có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính. Đối với hoạt động tiếp công dân, việc tiếp xúc giữa nhà nước và công dân là để nhà nước tiếp nhận, giải quyết các khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân. Các khiếu nại, tố cáo, phản ánh, kiến nghị xuất phát từ chính hoạt động quản lý nhà nước nêu trên khi công dân cho rằng quyết định hay hành vi của người có thẩm quyền, của cán bộ, công chức nhà nước là trái quy định của pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích của công dân, của xã hội. Hoạt động tiếp công dân bao gồm tiếp công dân khiếu nại, tiếp công dân tố cáo, tiếp công dân kiến nghị, phản ánh, trong mỗi trường hợp thì việc tiếp xúc giữa nhà nước và công dân cũng được thực hiện một cách linh hoạt, đa dạng, phong phú tùy theo tính chất phức tạp của từng vụ việc, theo từng nội dung, cụ thể đó là: - Đối với khiếu nại: Khi công dân khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì công dân thực hiện quyền khiếu nại, tức là quyền đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính [20]. Do vậy, việc tiếp nhận và giải quyết khiếu nại của công dân được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, xác định về nội dung, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, thời hạn khiếu nại, đối với khiếu nại không đúng quy định thì hướng dẫn, giải thích cho công dân về các quy định của pháp luật liên quan. - Đối với tố cáo: Khi công dân nhận thấy có hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức thì 14 công dân có quyền tố cáo, tức là báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết. Việc tiếp nhận và giải quyết tố cáo của công dân được thực hiện theo quy định của Luật Tố cáo năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố cáo, trường hợp tố cáo thuộc thẩm quyền thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiến hành xác minh, giải quyết kịp thời nhằm ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật, trường hợp khẩn cấp thì cán bộ tiếp công dân phải có trách nhiệm báo cáo với cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn kịp thời hành vi nguy hiểm và có biện pháp bảo vệ người tố cáo. Trường hợp tố cáo không thuộc thẩm quyền thì cán bộ tiếp công dân hướng dẫn công dân hoặc chuyển tố cáo đến cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết [19]. - Đối với kiến nghị, phản ánh của dân: Ngoài việc công dân thực hiện quyền khiếu nại, quyền tố cáo nêu trên, công dân còn được thực hiện quyền cung cấp các thông tin, trình bày ý kiến, nguyện vọng, đề xuất giải pháp với cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền về những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội thuộc trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân đó. Những kiến nghị, phản ánh của công dân không phải là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm trước quyết định hành chính hay hành vi hành chính của cơ quan nhà nước và không phải là việc thông báo về hành vi vi phạm pháp luật. Việc kiến nghị, phản ánh của công dân chính là việc công dân trình bày nguyện vọng, tâm tư của mình hoặc phản ánh những vấn đề có liên quan đến việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, công tác quản lý trong các lĩnh vực đời sống xã hội, nội dung kiến nghị, phản ánh của công dân đa dạng về các lĩnh vực. 15 1.2. Khái niệm, đặc điểm, hình thức và nội dung thực hiện pháp luật về tiếp công dân 1.2.1. Khái niệm, đặc điểm thực hiện pháp luật về tiếp công dân 1.2.1.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân Về phương diện lý luận, thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay đang tồn tại những quan điểm sau: Theo quan điểm của Trường Đại học luật Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật”. Quan điểm của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội: “Thực hiện pháp luật là hiện tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật”. Như vậy, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong đời sống kinh tế, chính trị và xã hội, nhưng vai trò đó chỉ trở thành hiện thực khi pháp luật được mọi chủ thể tuân thủ, chấp hành, sử dụng có hiệu quả và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, các chủ thể được Nhà nước trao quyền áp dụng một cách đúng đắn pháp luật. Hay nói cách khác pháp luật đó phải được thực hiện nghiêm chỉnh trong cuộc sống. Nghiên cứu thực hiện pháp luật cho thấy, nó được thể hiện dưới các hình thức như tuân thủ, chấp hành, sử dụng và áp dụng pháp luật. Như vậy, thực hiện pháp luật tuy được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng cuối cùng nó đều là những hoạt động có mục đích, có định hướng để đưa các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống. Với cách tiếp cận này, có thể hiểu khái niệm thực hiện pháp luật như sau: Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích, có chủ định để làm cho các quy phạm pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hoạt động thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Từ khái niệm thực hiện pháp luật cũng như khái niệm và các đặc điểm của tiếp công dân như đã nêu trên làm cơ sở để tác giả nghiên cứu khái niệm thực hiện pháp luật về tiếp công dân như sau: 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan