1
Luận văn
Thực hiện pháp luật về thi hành
án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Hiện
tượng này trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đang
trở thành hiện tượng ngày càng phổ biến. Điều đó đã được Hiến pháp năm 1992
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: "Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi
công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng
ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật. Mọi hành động
xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và công
dân đều bị xử lý theo pháp luật" (Điều 12). Trong khoa học pháp lý chuyên
ngành lý luận chung về nhà nước và pháp luật từ lâu đã coi hiện tượng thực hiện
pháp luật là một trong những đối tượng nghiên cứu của mình.
Thực hiện pháp luật nói chung đã trở thành một phạm trù pháp lý cơ
bản. Những vấn đề thực hiện pháp luật dường như đã được giải quyết như:
khái niệm thực hiện pháp luật, các dạng thực hiện pháp luật, khái niệm áp
dụng pháp luật và quy trình các bước áp dụng pháp luật. Song thực hiện pháp
luật nói chung cần được cụ thể hoá ở từng lĩnh vực khác nhau của đời sống
pháp luật trong điều kiện đổi mới ở nước ta. Thực hiện pháp luật về thi hành
án dân sự là một trong những lĩnh vực cụ thể. Hay nói một cách khác thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự là một lĩnh vực thực hiện pháp luật. Nó
có khái niệm, đặc điểm riêng biệt cần được định nghĩa, bổ sung, cụ thể hoá lý
luận chung và soi rọi vào thực tiễn thực hiện pháp luật. Từ đó, đối chiếu đánh
giá thực tiễn thi hành án dân sự. Làm cơ sở để đưa ra các giải pháp nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự.
Trong tổ chức bộ máy nhà nước ta, thi hành án dân sự là lĩnh vực hoạt
động được chú trọng và là một nhiệm vụ của ngành Tư pháp. Pháp luật về thi
hành án dân sự đã hình thành như: Hiến pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự,
3
Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự..., đặc biệt là Pháp lệnh Thi
hành án dân sự sửa đổi năm 2004; Chỉ thị số 20/2001/CT-TTg ngày 11 tháng
9 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và nâng cao hiệu quả
công tác thi hành án dân sự. Những văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý cho việc
đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự; xác định rõ
hơn địa vị pháp lý của các chủ thể pháp luật đối với việc thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự. Trên cơ sở đó, nhận thức của các chủ thể về thực hiện
pháp luật thi hành án dân sự được nâng lên. Nhiều bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật của Toà án (quyết định dân sự trong bản án hình sự; bản án,
quyết định dân sự, hành chính) đã được các cơ quan thi hành án dân sự kịp
thời đưa ra thi hành theo quy định của pháp luật đạt kết quả tương đối cao.
Điều này, đã đảm bảo tính hiệu lực của các bản án, quyết định của tòa án, bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công
dân; thể hiện tính nghiêm minh của các bản án, quyết định của tòa án nhân
danh Nhà nước, tạo lòng tin của nhân dân đối với Đảng với Nhà nước, góp
phần đảm bảo an ninh trật tự xã hội, giữ gìn kỷ cương, phép nước, thực hiện
dân chủ, công bằng xã hội, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thanh Hóa là một tỉnh đất rộng, người đông, số lượng án bàn giao và
thụ lý hàng năm tương đối lớn. Trong những năm qua, công tác thi hành án
dân sự ở Thanh Hóa đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận; nhiều vụ việc
phức tạp, tồn đọng lâu năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số án lớn,
tính chất phức tạp, ảnh hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng đã
được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản
ánh sự cố gắng, nỗ lực của toàn ngành tư pháp nói chung, cũng như đội ngũ
cán bộ thi hành án dân sự nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của các cấp
ủy đảng, chính quyền địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các ngành hữu
quan trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều tỉnh
trên cả nước, thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở Thanh Hóa
4
vẫn còn nhiều bức xúc, bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua các năm còn lớn.
Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được
tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khác như: pháp luật
thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu tính khả thi, nhiều điểm còn chưa rõ
ràng, bất cập; một số chấp hành viên, cán bộ thi hành án thiếu trách nhiệm,
thiếu tận tụy trong công việc khiến cho quần chúng nhân dân kêu ca phàn
nàn; ở một số nơi cấp ủy, chính quyền các cấp chưa nhận thức đầy đủ trách
nhiệm của mình trong việc thực hiện tổ chức, chỉ đạo thi hành án dân sự theo
quy định của pháp luật; Ban chỉ đạo thi hành án dân sự hoạt động còn hình
thức, chưa hiệu quả; công tác phối hợp thi hành án của các cơ quan chức năng
theo qui định của pháp luật còn nhiều bất cập; nhận thức và tạo điều kiện của
các tổ chức, cá nhân về công tác thi hành án dân sự còn chưa đầy đủ. Thực tế
đó, đòi hỏi nâng cao việc thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự, đảm bảo
cho các các quyết định và bản án dân sự có hiệu lực pháp luật được thi hành
trong thực tế ở Thanh Hoá trở nên cấp thiết.
Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Thực hiện pháp luật về thi hành
án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa” làm luận văn thạc sĩ Luật chuyên ngành Lý
luận lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta trong những năm gần đây, vấn đề thực hiện pháp luật đang
được đặt ra và là nhiệm vụ cấp bách của các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ
chức xã hội và mọi công dân. Thực hiện pháp luật đã được các học viện,
các trường đại học nghiên cứu trong các giáo trình như: Giáo trình Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1993; Giáo trình
Lý luận nhà nước và pháp luật, Đại học Luật Hà Nội, 2004; Tài liệu học tập
và nghiên cứu môn học lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Nhà nước và pháp luật, 2004; Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật, Học viện Hành chính Quốc gia, 2001.
5
Nghiên cứu về thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực cụ thể có các đề
tài: "Thực hiện pháp luật hoà giải ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Bình Thuận hiện
nay - thực trạng và giải pháp", (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004) của tác giả Lê Trung Quân; "Thực hiện pháp
luật về giáo dục và đào tạo ở tỉnh Bình Định hiện nay", (Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005) của tác giả Võ Thành
Long; "Thực hiện pháp luật đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử hình
sự sơ thẩm ở Việt Nam hiện nay", (Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2005) của tác giả Nguyễn Tiến Long...
Nghiên cứu về thi hành án dân sự đã có một số đề tài: "Luận cứ khoa
học của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai
đoạn mới" đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước do Bộ Tư pháp chủ trì;
Cục Quản lý Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án"; tác
giả Nguyễn Quang Thái có công trình: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi
hành án dân sự ở Việt Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003); Tác giả Nguyễn Công Long có công trình:
"Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự", (Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội); tác giả Nguyễn Thanh Thủy có công trình:
"Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", (Luận văn thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001); Luận văn thạc sỹ luật học "Một số vấn
đề về tổ chức và thi hành án dân sự Việt Nam", của tác giả Trần Văn Quảng;
tác giả Lê Xuân Hồng có công trình: "Xã hội hóa một số nội dung thi hành án
dân sự", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2002); tác
giả Lê Anh Tuấn có công trình: "Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt
Nam", (Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004); tác
giả Nguyễn Đức Nghĩa có công trình: "Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục
án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay", (Luận văn thạc
6
sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005); tác giả Hoàng
Thế Anh có công trình "Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay"
(Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2005).
Những công trình nghiên cứu nói trên đã nghiên cứu những vấn đề
chung của thực hiện pháp luật; thực hiện pháp luật trên một số lĩnh vực của
đời sống xã hội và những công trình nghiên cứu về vấn đề mang tính tổng thể
hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của thi hành án dân sự.
Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào dưới góc độ lý luận và
thực trạng thực hiện pháp luật, lý giải các nguyên nhân ảnh hưởng đến chất
lượng thực hiện pháp luật, đề ra các giải pháp đảm bảo thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự nói chung và ở tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các công trình nghiên cứu, các
bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và những hiểu biết của mình,
tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội dung thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa, đưa ra nhóm giải pháp đảm bảo hiệu lực các văn bản pháp luật đã ban
hành trong lĩnh vực thi hành án dân sự, đáp ứng vấn đề cấp bách của thực tiễn
công tác thi hành án dân sự ở địa phương mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật
thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong
tác này, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay;
7
- Xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu qủa thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hoá trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Thực hiện pháp luật là hiện tượng rất rộng được nghiên cứu ở nhiều
lĩnh vực khác nhau. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, tác giả tập
trung nghiên cứu thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa,
thực trạng và giải pháp. Phạm vi nghiên cứu được giới hạn dưới góc độ lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, thông qua thực tiễn và số liệu của cơ
quan Thi hành án dân sự tỉnh và các cơ quan liên quan đến thi hành án dân sự
ở Thanh Hoá từ năm 2003 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; bám sát đường lối, chủ
trương của Đảng về thực hiện pháp luật, về công tác thi hành án dân sự và
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu của luận văn là phương pháp duy vật biện
chứng của triết học Mác - Lênin theo quan điểm phát triển, toàn diện, lịch sử,
cụ thể. Ngoài ra luận văn còn kết hợp các phương pháp như: lôgíc, phân tích,
tổng hợp, thống kê, khảo sát thực tiễn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Đây là công trình đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ
luận văn thạc sĩ Luật, nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực hiện pháp luật thi
hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa. Có thể xem những nội dung sau đây là
những đóng góp mới về khoa học của luận văn:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật thi hành án
dân sự ở Việt Nam nói chung và Thanh Hóa nói riêng.
8
- Đánh giá đúng thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở
tỉnh Thanh Hóa, trong đó làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế
trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự và nguyên nhân của chúng.
- Đưa ra một số quan điểm và đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao
nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hóa.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Thông qua việc làm rõ thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân
sự tỉnh Thanh Hoá - kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập, luận văn
góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp
luật thi hành án dân sự, từ đó nâng cao nhận thức của xã hội đối với việc thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự ở tỉnh Thanh Hoá.
Khẳng định, củng cố nhận thức về vị trí, vai trò và ý nghĩa của thực
hiện pháp luật về thi hành án dân sự trong việc phát huy tính tích cực, chủ
động trong thực hiện pháp luật thi hành án dân sự của các cơ quan bảo vệ
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của các tổ chức và công dân
đối với công tác thi hành án dân sự.
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm một số
vấn đề lý luận của việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự, do đó làm
phong phú thêm lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Luận văn có thể là
tài liệu tham khảo cho cấp ủy và chính quyền của tỉnh Thanh Hoá trong việc
lãnh đạo, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự. Luận văn cũng có thể là tài liệu
tham khảo của Sở Tư pháp, Thi hành án dân sự tỉnh trong việc nghiên cứu và
chỉ đạo các hoạt động về thi hành án dân sự. Đối với các cơ quan có liên quan
đến thi hành án dân sự, luận văn có thể là tài liệu tham khảo trong việc thực
hiện trách nhiệm của mình theo qui định của pháp luật, trong việc phối hợp
phối hợp hoạt động thi hành án dân sự.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo; luận văn
gồm 3 chương, 7 tiết.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUAN HỆ
PHÁP LUẬT THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1.1. Khái niệm pháp luật thi hành án dân sự
Học thuyết Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật lần đầu tiên trong
lịch sử đã lý giải một cách đúng đắn, khoa học về bản chất của pháp luật và
những mối quan hệ của nó với các hiện tượng xã hội khác nhau trong xã hội
có giai cấp, pháp luật chỉ phát sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội có giai
cấp. Pháp luật:
Là hệ thống các quy tắc xử sự chung (quy phạm pháp luật) do
nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp thống
trị, được nhà nước bảo đảm thức hiện, kể cả bằng biện pháp cưỡng
chế, để điều chỉnh các quan hệ xã hội, duy trì xã hội trong một trật
tự có lợi cho giai cấp thống trị [32, tr.139].
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui
phạm pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí
của nhân dân, được Nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện trên cơ sở giáo
dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội theo định hướng xã hội
chủ nghĩa [32, tr.143].
Pháp luật thi hành án dân sự là một bộ phận cấu thành của hệ thống
pháp luật nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Để làm sáng tỏ khái
niệm pháp luật thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ một số khái niệm có
liên quan đến khái niệm pháp luật thi hành án dân sự như: khái niệm thi hành,
khái niệm tư pháp, khái niệm thi hành án và khái niệm thi hành án dân sự.
10
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thi hành là "Thực hiện điều đã chính thức
quyết định" [27, tr.1559]. Theo từ điển Luật học thì thi hành án là "giai đoạn kết
thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm
cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [57, tr.464].
Như vậy, thi hành án có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định
của Tòa án trên thực tế. Bản án, quyết định của Tòa án được hiểu là là văn
bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về
các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính. Việc thực hiện bản án, quyết định của Tòa án có hiệu quả, một
mặt bảo đảm thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của
xã hội và công dân đối với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là
Tòa án, mặt khác nó là biện pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân bị xâm hại.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa rộng, là một hệ thống các thiết chế,
các tổ chức bảo vệ pháp luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội,
trong đó hoạt động xét xử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là Tòa án giữ
vai trò, vị trí quan trọng, là khâu trung tâm. Vì vậy, khi nói tới Tòa án là nói
tới biểu tượng điển hình của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, là nơi biểu
hiện rực rỡ nhất bản chất của pháp luật.
Khái niệm tư pháp hiểu theo nghĩa hẹp, đó là hoạt động xét xử của Tòa
án, thông qua những thủ tục tố tụng nhất định, đối với những vụ việc vi phạm
pháp luật, tranh chấp của các chủ thể trong đời sống xã hội, nhằm bảo vệ pháp
luật, duy trì, bảo đảm công lý, công bằng xã hội. Vì vậy, toàn bộ các hoạt
động điều tra, truy tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp (Giám định, Luật sư,
Công chứng, Hộ tịch, Tư vấn pháp luật...) đều nhằm phục vụ cho quá trình
làm sáng tỏ chân lý, tìm ra sự thật của các vụ việc đã diễn ra trên thực tế, để
trên cơ sở đó, Tòa án đưa ra phán quyết theo qui định của pháp luật. Kết thúc
giai đoạn xét xử, Tòa án quyết định những vấn đề thuộc về nội dung vụ án,
11
xác định trách nhiệm pháp lý và chế tài thích hợp cho từng đối tượng cụ thể,
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, cơ quan, tổ chức và của
công dân. Các bản án và quyết định xét xử của Tòa án không những nhân
danh Nhà nước mà còn thể hiện quyền lực tối cao của pháp quyền có hiệu lực
thi hành, chính vì vậy, Điều 136 của Hiến pháp 1992 đã nêu rõ: "Các bản án
và quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân tôn trọng,
những người và đơn vị hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành". Tuy nhiên,
các bản án và quyết định của Tòa án muốn trở thành hiện thực trong cuộc
sống thì phải thông qua hoạt động thi hành án.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án như sau: thi
hành án là hoạt động tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến
hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định
của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của pháp luật, được thực
hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Dưới góc độ lý luận, thi hành án dân sự hiện nay còn có hai quan điểm
khác nhau về nghĩa hẹp và nghĩa rộng của khái niệm "dân sự"
Quan điểm thứ nhất cho rằng, khái niệm "dân sự" trong thi hành án dân
sự được hiểu là những bản án, quyết định liên quan đến quan hệ tài sản và
nhân thân phi tài sản như bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đối với
các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và một số loại án khác có tính
chất dân sự. Quan điểm thứ hai cho rằng, khái niệm "dân sự" ở đây phải được
hiểu theo nghĩa rộng, đó không chỉ bao gồm các bản án, quyết định về giải
quyết tranh chấp đối với các loại hợp đồng dân sự, hôn nhân và gia đình và
một số loại án khác có tính chất dân sự của Tòa án, mà còn bao gồm các bản
án, quyết định khác do pháp luật qui định.
12
Chúng tôi đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ, theo quy định của pháp
luật hiện hành, nhiều vụ việc có tính chất khác nhau, được giải quyết theo các
trình tự khác nhau nhưng đến giai đoạn thi hành án đều được áp dụng theo
trình tự, thủ tục thi hành án dân sự như đã nêu.
Vì vậy, phạm vi của thi hành án dân sự phải được hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm: bản án, quyết định về dân sự, kinh tế, lao động, hôn nhân và gia
đình; quyết định về tài sản trong bản án, quyết định hình sự về bồi thường
thiệt hại; quyết định về tài sản và quyền tài sản trong bản án, quyết định hành
chính; bản án, quyết định dân sự của Tòa án nước ngoài, quyết định của trọng
tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận và cho thi hành ở Việt Nam.
Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới: việc tổ chức thi hành các bản án có nguồn gốc pháp luật về nội dung là
luật tư (luật dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động), được thực hiện theo
một thủ tục chung mà không có sự tách bạch căn bản việc thi hành án dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh tế, thương mại hay lao động.
Từ sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm thi hành án dân sự như
sau: Thi hành án dân sự là hoạt động tư pháp do cơ quan thi hành án, chấp
hành viên tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật qui định để đưa bản
án, quyết định dân sự của Tòa án hoặc các quyết định khác theo qui định của
pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Để điều chỉnh hoạt động thi hành án dân sự, hay nói cách khác các
quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự cần có pháp luật điều
chỉnh. Pháp luật thi hành án dân sự được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tổng
thể các văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước có thầm quyền
ban hành có chứa đựng các quy phạm pháp luật thi hành án dân sự từ Hiến
pháp 1992, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Tố tụng hình
13
sự 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, đến các văn bản pháp luật chuyên
ngành về thi hành án dân sự như Pháp lệnh Thi hành án dân sự 2004, Nghị
định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành
án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi
hành án dân sự, Thông tư 06/2007/TT-BTP của Bộ Tư pháp về việc hướng
dẫn thực hiện một số thủ tục hành chính trong hoạt động thi hành án dân sự...
đều được coi là pháp luật thi hành án dân sự.
Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật thi hành án dân sự tuy
còn những tồn tại nhất định, nhưng pháp luật thi hành án dân sự đã chuyển
hoá được vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực của chính quyền, ý chí của nhân
dân và đồng thuận của xã hội để tạo ra những chuyển biến tích cực về thi
hành án dân sự.
Hệ thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự, cùng với pháp luật
nói chung đã xây dựng được cơ chế quản lý thống nhất về thi hành án dân sự,
hệ thống cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự độc
lập với cơ quan xét xử để có điều kiện tập trung cho việc thi hành các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo trình tự, thủ tục thi hành án dân sự.
Cơ quan thi hành án dân sự không chỉ được giao nhiệm vụ thi hành bản án,
quyết định của Toà án, mà còn thi hành quyết định của cơ quan, tổ chức khác,
như Trọng tài kinh tế Nhà nước các cấp, Trọng tài thương mại.
Hiện nay, Bộ luật Thi hành án dân sự đang được gấp rút soạn thảo để
trình cơ quan có thẩm quyền ban hành nhằm khắc phục những bất hợp lý,
tháo gỡ khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong công tác thi hành án dân sự...
Bộ luật Thi hành án dân sự xây dựng trên cơ sở quán triệt quan điểm chỉ đạo
điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực về thi hành án, tạo cơ chế bảo đảm nhiệm
vụ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự tập trung vào một đầu mối là Bộ
Tư pháp nhưng không tách rời sự quản lý, chỉ đạo của cấp uỷ đảng và chính
quyền địa phương, đồng thời xã hội hoá một phần công tác thi hành án là cơ
14
sở pháp lý để tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác
thi hành án nói riêng và ngành Tư pháp nói chung.
Như vậy có thể rút ra khái niệm pháp luật thi hành án dân sự như sau:
Pháp luật thi hành án dân sự là hệ thống các quy tắc xử sự chung (qui phạm
pháp luật) thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của
nhân dân, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành và bảo đảm
thực hiện trên cơ sở giáo dục, thuyết phục, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự
1.1.2. Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự
Thực hiện pháp luật thực chất là việc các chủ thể quan hệ pháp luật
thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình, vì vậy nghiên cứu thực
hiện pháp luật thi hành án dân sự cần tiếp cận quan hệ pháp luật thi hành án
dân sự. Khoa học pháp lý về nhà nước và pháp luật đã khẳng định "quan hệ
pháp luật là những quan hệ xã hội nảy sinh do sự tác động hữu cơ giữa quy
phạm pháp luật và sự kiện pháp lý tương ứng làm xuất hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ đó" [32, tr.255]. Từ đó có
thể hiểu Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là những quan hệ xã hội phát
sinh trong lĩnh vực thi hành án dân sự do các quy phạm pháp luật thi hành án
dân sự điều chỉnh trong đó các chủ thể có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và
được Nhà nước bảo đảm thực hiện.
Ngoài những đặc điểm vốn có của một quan hệ pháp luật nói chung thì
quan hệ pháp luật thi hành án dân sự có các đặc điểm riêng sau đây:
Thứ nhất: Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự là sự tiếp nối của quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự. Khác với các quan hệ pháp luật dân sự thông thường
quan hệ pháp luật thi hành án dân sự phát sinh ngay tại thời điểm bản án, quyết
định dân sự của Tòa án có hiệu lực pháp luật hoặc những bản án, quyết định dân
sự của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay, ví dụ: bản
án, quyết định về trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa, phạt tiền, tịch thu tài sản, quyết
15
định về án phí; bản án quyết định về tiêu hủy tang vật và các quyết định khẩn
cấp tạm thời thì quan hệ pháp luật thi hành án hình thành ngay.
Sau khi giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án ra bản án, quyết định
công nhận các quan hệ pháp lý, các sự kiện có ý nghĩa pháp lý hoặc buộc
người phải thi hành án có nghĩa vụ phải làm một việc hoặc không được làm
một việc vì lợi ích của người được thi hành án. Tuy nhiên, đối với từng loại
bản án, quyết định, từng giai đoạn thi hành án có khác nhau; đối với loại bản
án, quyết định về trả lại tài sản xã hội chủ nghĩa, bản án, quyết định về phạt
tiền, bản án, quyết định về tịch thu tài sản, bản án quyết định về án phí, bản án
quyết định về tiêu hủy tang vật, các quyết định khẩn cấp tạm thời thì quan hệ
pháp luật về thi hành án hình thành ngay, cơ quan thi hành án dân sự, chấp
hành viên phải chủ động ra quyết định thi hành án, đôn đốc, chịu trách nhiệm
đến cùng về kết quả thi hành án. Đối với loại bản án, quyết định, chỉ hình
thành quan hệ pháp luật thi hành án khi có đơn yêu cầu của người được thi
hành án sau khi đã thụ lý thi hành án. Trong quan hệ pháp luật thi hành án, có
lúc chấp hành viên chỉ giữ vai trò "chứng kiến", giải thích, hướng dẫn các bên
(được thi hành án và phải thi hành án) tự thi hành án. Nhưng khi người phải
thi hành án bất chấp kỷ cương, pháp luật, coi thường lợi ích của người được
thi hành án, cố ý không thực hiện nghĩa vụ của mình, thì cơ quan thi hành án,
chấp hành viên áp dụng các biện pháp cưỡng chế bắt buộc người phải thi hành
án phải thực hiện nghĩa vụ tài sản vì quyền lợi hợp pháp của bên có quyền.
Thứ hai: Quan hệ thi hành án dân sự không phải là một quá trình tự
phát mà theo một cơ chế chặt chẽ do pháp luật về thi hành án dân sự qui định.
Trong quan hệ thi hành án dân sự, Nhà nước sử dụng quyền lực công
để đảm bảo thi hành án, nhưng Nhà nước cũng không cho phép Cơ quan thi
hành dân sự, chấp hành viên lạm dụng quyền lực. Nhà nước quy định hệ
thống văn bản pháp luật về thi hành án dân sự một cách chi tiết, cụ thể, khoa
học, chặt chẽ bao gồm các nguyên tắc, trình tự thủ tục trong thi hành án dân
sự nhằm tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan thi hành án, chấp hành viên thực hiện
16
nhiệm vụ thực thi các bản án, quyết định của Tòa án trên thực tế. Trình tự, thủ
tục thi hành án dân sự không được qui định hoặc qui định không rõ ràng,
không khoa học sẽ dẫn đến việc áp dụng không đúng pháp luật, làm phức tạp
quá trình thi hành án, gây tốn kém kinh phí, không kịp thời hoặc không bảo
đảm được lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, dẫn
đến khiếu kiện bức xúc, kéo dài. Mặt khác, do cơ quan thi hành án là một bộ
phận trong bộ máy nhà nước nên hoạt động thi hành án trong một quá trình
thi hành án đều phải tuân theo nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung và điều đó chứng tỏ sự diễn biến và phát triển của hoạt
động thi hành án dân sự luôn chịu sự tác động, điều chỉnh trực tiếp của pháp
luật về thi hành án dân sự và rộng hơn là của cả hệ thống pháp luật.
Thứ ba: Quan hệ pháp luật thi hành án dân sự bảo đảm nguyên tắc hoà
giải và quyền tự định đoạt của bên được thi hành án dân sự
Pháp luật thi hành án dân sự công nhận sự thỏa thuận, tự nguyện của
người được thi hành án và của người phải thi hành án về việc chấp hành bản
án, quyết định của Tòa án, nếu sự thỏa thuận đó không vi phạm lợi ích của
Nhà nước, của xã hội. Điều đó có nghĩa sau khi tranh chấp đã được phân xử,
các bên vẫn có quyền tiếp tục thể hiện ý chí của mình trong quá trình thi hành
án. Đây là điểm khác nhau cơ bản của thi hành án dân sự so với thi hành hình
sự, thi hành án hành chính.
Bên cạnh cơ chế thi hành án theo yêu cầu của người được thi hành án, pháp
luật thi hành án dân sự của nước ta còn quy định cơ chế chủ động thi hành án,
không phụ thuộc vào ý chí của người được thi hành án và người phải thi hành án.
Quy định này xuất phát từ yêu cầu bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tính nghiêm
minh và tính kịp thời của thi hành án dân sự trong việc bảo đảm lợi ích của đương
sự, bảo đảm hiệu quả hoạt động của Tòa án và cơ quan thi hành án.
Thứ tư: Cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên là chủ thể đặc biệt
trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự.
17
Những phán quyết về dân sự của Tòa án nhân danh quyền lực nhà nước
được chấp hành viên bảo đảm thực thi trên thực tế, công lý xã hội được thực
hiện nhưng không phải vì lợi ích của chính bản thân mình, mà vì lợi ích mà
pháp luật bảo vệ, vì bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
phải được các đương sự nghiêm chỉnh chấp hành, các cơ quan nhà nước, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân tôn trọng.
Để chấp hành viên có cơ sở pháp lý hoạt động, pháp luật qui định cho chấp
hành viên những quyền hạn nhất định, như trong trường hợp bản án, quyết
định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, hai bên đương sự tự nguyện
bàn bạc và thỏa thuận với nhau việc thực hiện quyền và nghĩa vụ theo nội
dung và quyết định của bản án, thì chấp hành viên đóng vai trò là người "xác
nhận" việc tự nguyện và thỏa thuận đó và làm các thủ tục theo qui định của
pháp luật thi hành án dân sự. Trường hợp một bên là chủ thể của quan hệ
pháp luật thi hành án dân sự cố ý không tôn trọng bản án, quyết định của Tòa
án, không tự nguyện thực hiện nghĩa vụ của mình mà có biểu hiện chây ỳ, coi
thường pháp luật mặc dù đã được chấp hành viên cơ quan thi hành án phân
tích, giải thích, giáo dục, thì chấp hành viên phải áp dụng biện pháp cưỡng
chế, buộc người phải thi hành án phải thực hiện nghĩa vụ theo phán quyết mà
Tòa án đã tuyên. Trường hợp áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án không
những thể hiện quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện bản chất dân chủ của chế
độ xã hội chủ nghĩa cũng như trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Trong quan hệ pháp luật thi hành án dân sự luôn tồn tại ba chủ thể với
địa vị pháp lý khác nhau, đó là cơ quan thi hành án, chấp hành viên với người
phải thi hành án và người được thi hành án. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, giữ gìn trật tự, kỷ cương trong thi hành án dân sự là trách
nhiệm của Nhà nước, không phải là việc riêng của công dân. Cơ quan thi
hành án, chấp hành viên tham gia quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự
không phải vì lợi ích của chính mình, mà nhân danh cơ quan nhà nước, thực
18
hiện quyền lực nhà nước, thực hiện trên thực tế những phán quyết về dân sự
của Tòa án, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của
các công dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
1.2. KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ có
thể phát huy được vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì trật tự
và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó được tôn trọng và thực hiện trong
cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể thiếu.
Xây dựng những quy phạm pháp luật nhà nước nhằm mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Mục
đích đó chỉ có thể đạt được khi pháp luật được các chủ thể nghiêm chỉnh thực
hiện trong đời sống xã hội. Pháp luật với tầm quan trọng của nó không chỉ
dừng lại bằng các đạo luật, vì đó chỉ là pháp luật ở trạng thái "tĩnh", vấn đề
quan trọng là "pháp luật phải trở thành chế độ pháp chế, được thực hiện thông
qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân; trở
thành phương thức quản lý xã hội, cho tổ chức đời sống xã hội" [61, tr.225].
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý. Quá
trình hoạt động thực hiện pháp luật được diễn ra đồng thời và tiếp nối với quá
trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước. Thực hiện pháp luật là
trách nhiệm, nghĩa vụ của mọi tổ chức (kể cả các cơ quan nhà nước) và mọi
công dân Việt Nam và các tổ chức, công dân nước ngoài làm việc, sinh sống
trên đất Việt Nam. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và có trách nhiệm
thực hiện pháp luật đúng với nguyên tắc do Hiến pháp quy định (Điều 12
Hiến pháp năm 1992):
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
19
Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành
hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội
phạm, các vi phạm hiến pháp và pháp luật [41].
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tập thể và công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Hiện nay đang có nhiều cách định nghĩa mô tả về thực hiện pháp luật.
Theo tài liệu học tập và nghiên cứu môn Lý luận chung về Nhà nước và pháp
luật của Khoa Nhà nước và Pháp luật thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh nay là Viện Nhà nước - Pháp luật thuộc Học viện Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh thì thực hiện pháp luật được hiểu là “quá trình
hoạt động có mục đích làm cho những qui định của pháp luật trở thành hiện
thực trong cuộc sống, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động thực tế của các chủ thể
pháp luật” [32, tr.270].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Khoa
Luật của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội “Thực hiện pháp luật là hiện
tượng, quá trình có mục đích làm cho những quy định của pháp luật trở thành
hoạt động thực tế của các chủ thể pháp luật ” [26, tr.369].
Theo giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật của trường Đại học
Luật Hà Nội “Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích
làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những
hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật ”[23, tr.463].
Theo giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật của Học viện
Hành chính Quốc gia “Thực hiện pháp luật là hoạt động, là quá trình làm cho
những quy tắc của pháp luật trở thành hoạt động thực tế của các chủ thể pháp
luật” [33, tr.344].
Chúng ta thấy rằng, các định nghĩa trên đều có quan niệm tương đối
đồng nhất về những nội dung cơ bản, đó là: thực hiện pháp luật là hoạt động
20
có mục đích nhằm thực hiện những yêu cầu của pháp luật, thực hiện pháp luật
là hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật làm cho những quy
định của pháp luật trở thành hiện thực trong cuộc sống. Tuy nhiên, cũng có sự
khác nhau trong các định nghĩa trên. Có định nghĩa nêu thực hiện pháp luật là
một quá trình hoạt động, các định nghĩa khác lại chỉ nêu thực hiện pháp luật
là hiện tượng, quá trình.
Theo chúng tôi, hiện tượng, quá trình hay quá trình hoạt động đều là
những phạm trù có nội hàm riêng của nó nhưng có cùng mục đích là thực hiện
những quy định của pháp luật, làm cho những quy định ấy trở thành những hành
vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật, đáp ứng yêu cầu đặt ra của pháp
luật trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, hoạt động thực hiện
pháp luật không chỉ là những hành vi đơn lẻ, độc lập, cắt khúc mà nó luôn luôn
là một quá trình. Vì vậy, về khái niệm thực hiện pháp luật chúng tôi đồng ý với
nội dung cơ bản trong các định nghĩa nêu trên và sắp xếp lại như sau:
Thực hiện pháp luật là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các
qui định của pháp luật trở thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các
chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống.
Thực hiện pháp luật thi hành án dân sự là thực hiện pháp luật về một
lĩnh vực trong xã hội mà cụ thể, đó là thi hành án dân sự. Việc điều tra, hòa
giải, xét xử vụ án là những giai đoạn đầu của quá trình bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự, trong đó mới chỉ giải quyết nội dung vụ án, xác
định được quyền và nghĩa vụ của các đương sự, còn phán quyết của Tòa án có
trở thành hiện thực hay không còn tùy thuộc vào quá trình thực thi nó trong
cuộc sống. Thông qua giai đoạn thi hành án, bản án, quyết định của Tòa án
mới có hiệu lực trên thực tế, công lý mới được thực hiện. Mặt khác, thi hành
án còn là giai đoạn kiểm nghiệm qua thực tiễn những phán quyết của Tòa án,
phản ánh trung thực chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử. Từ việc
- Xem thêm -