Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chức năng giám sát xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam tại huyện hàm ...

Tài liệu Thực hiện chức năng giám sát xã hội của mặt trận tổ quốc việt nam tại huyện hàm yên tỉnh tuyên quang

.DOC
93
1315
97

Mô tả:

Tên đề tài: THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM TẠI HUYỆN HÀM YÊN TỈNH TUYÊN QUANG MỞ ĐẦU...............................................................................................................1 Chương 1: CHỨC NĂNG GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN........................................8 1.1 Vị trí, vai trò của mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị........................8 1.2 Giám sát xã hôi và chức năng giám sát xã hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam .........................................................................................................................16 Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM Ở HUYỆN HÀM YÊN HIỆN NAY............31 2.1 Khái quát huyện Hàm Yên và Tổ chức bộ máy Mặt trận Tổ quốc huyện .........................................................................................................................31 2.2 Thực trạng hoạt động giám sát xã hội Mặt trận tổ quốc huyện Hàm Yên hiện nay...........................................................................................................41 2.3 Những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện chức năng giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Huyện...........................................................................67 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO CHỨC NĂNG GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM HUYỆN HÀM YÊN................................................................................71 3.1 Các quan điểm nhằm nâng cao hiệu quả chức năng giám sát xã hội Mặt trận Tổ quốc huyện Hàm Yên.........................................................................71 3.2 Những giải pháp chủ yếu nhằm đảm bảo thực hiện chức năng giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện Hàm Yên hiện nay......................76 KẾT LUẬN........................................................................................................86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................88 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT CNXH Chủ nghĩa xã hội HĐND Hội đồng nhân dân MTTQVN Mặt trận Tổ quốc Việt Nam UBND Ủy ban nhân dân TTND Thanh tra nhân dân 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, được thành lập ngày 18 tháng 11 năm 1930. Trải qua các thời kỳ hoạt động với những tên gọi khác nhau, Mặt trận không ngừng phát huy tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết dân tộc Việt Nam là một trong nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; tuyên truyền, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật; phản biện xã hội đối với dự thảo chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức nhà nước, tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước. Có thể nói Vấn đề giám sát và phản biện xã hội là trách nhiệm vô cùng to lớn của Mặt trận Tổ quốc với dân, với Đảng. Đồng thời, thông qua hoạt động giám sát, sẽ góp phần nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong việc xây dựng, tập hợp khối đại đoàn kết dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân… Trong thời gian qua, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN) đã đạt được một số thành tựu nhất định, như: Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của hội viên, đoàn viên, thành viên và nhân dân để kiến nghị với các cơ quan tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết những yếu kém trong xây dựng và thực thi pháp luật, những sai sót trong quản 2 lý, điều hành, thực thi nhiệm vụ của các cơ quan có thẩm quyền, gây phiền hà và thiệt hại cho dân; thực hiện giám sát thông qua Ban Thanh tra nhân dân cấp xã, từ đó phát hiện ra những sai sót, yếu kém và kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền cơ sở khắc phục những sai sót, yếu kém đó. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động giám sát của MTTQVN cũng có những hạn chế nhất định, chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận còn thấp, chưa đáp ứng mong đợi và những đòi hỏi của nhân dân. Hoạt động giám sát của Mặt trận trong thực tế còn hình thức, hiệu quả pháp lý chưa cao, chủ yếu mới thể hiện qua các phát hiện, nêu ý kiến nhẹ nhàng tại các kỳ họp, phiên họp của các cơ quan, tổ chức thuộc đối tượng giám sát, chưa có phương thức giám sát đúng nghĩa, chưa được quan tâm thực hiện thường xuyên, liên tục. Đặc biệt chức năng giám sát của MTTQ cấp huyện còn nhiều thiếu sót, dẫn tới nhiều sai lầm. Trong quá trình hội nhập ở nước ta hiện nay, hơn bao giờ hết cần phải chú trong nâng cao chức năng giám sát của MTTQ ở các cơ sở. Chính vì thế mà en xin chọn đề tài: “Thực hiện chức năng giám sát xã hôi mặt trận tổ quốc Việt Nam tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang” làm đề tài khóa luận tôt nghiệp, với mong muốn góp một phần nhỏ bé của mình vào vào việc nâng cao chất lượng hoạt động giám sát xã hội MTTQ cấp huyện nói riêng và của MTTQVN nói chung, để mặt trận thực sự là tổ chức đại diện cho quyền lợi của nhân dân lao động 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm gần đây, đã có khá nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu về các đề tài liên quan đến việc thực hiện chức năng giám sát xã hội mặt trận tổ quốc thuộc các chuyên nghành như chính trị học, luật học, triết học và dưới nhiều góc độ khác nhau giúp các nhà chính trị, nhà quản lý có cách tiếp cận cụ thể để nâng cao chức năng giám sát xã hôi mặt trận tổ quốc việt nam trong hoạt động thực tiễn. Trong thời gian vừa qua, có các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: 3 Nguyễn Hải Long (2006), “giám sát xã hội đối với quyền lực nhà nước ở Việt Nam”, luận văn thạc sỹ Luật, học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Thọ Ánh (2010), “Thực hiện chức năng giám sát và phản biện xã hội của mặt trận tổ quốc Việt Nam”, luận án tiến sĩ chính trị học, học viện chính trị - hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN là nhiệm vụ cấp bách trong quá trình xây dựng Nhà Nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta; tác giả trình bày về vị trí, vai trò của MTTQVN trong hệ thống chính trị, hoạt động giám sát và phản biện xã hội MTTQVN; thực trang, những vấn đề đặt ra và giải pháp nâng cao chất lượng giám sát và phản biện xã hội của MTTQVN Nguyễn Thị Phương (2013), “nhận thức về chức năng, nhiệm vụ của mặt trận tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới”, Tạp chí mặt trấn số 121+122, tr.5761. Nội dung tác giả hướng tới việc nghiên cứu xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ MTTQVN, tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức trong hệ thống chính trị và hành chính hóa các tổ chức quần chúng, góp phần đổi mới hệ thống chính trị của đất nước trong giai đoạn mới Nguyễn Thị Thủy (2013), “các điều kiện bảo đảm cho hoạt động giám sát và phản biện xã hội của mặt trận đạt hiệu quả”, Tạp chí mặt trận số 121+122, tr.62-65. Bài viết đề cập việc hướng việc triển khai giám sát và phản biện xã hội cần đảm bảo các điều kiện như: nâng cao nhận thức vị trí, vai trò của MTTQ trong giám sát và phản biện, xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý, nâng cao chất lượng và đổi mới tổ chức của MTTQ các cấp Nguyễn Thanh Bình (2014), “Mặt trận tổ quốc Việt Nam với công tác giám sát và tham gia giải quyết khiếu nại tố cáo trong thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Mặt trận số 123, tr.41-45. Nếu nên vai trò giám sát của Mặt trận đối việc giải 4 quyết khiếu nại tố cáo quy định còn chung chung và tác giải chỉ ra những nguyên nhân chính hạn chế vài trò giám sát xã hội của Mặt trận đối lĩnh vực này Hà Ngọc Thảnh (2014), “Phát huy trách nhiệm của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhận dân trong giám sát hoạt động của các đại biểu dân cử”, Tạp chí mặt trận số 129+130, tr.62-66. Bài viết nêu trách nhiệm MTTQVN và đoàn thanh tra nhân dân trong giám sát hoạt động các đại biểu dân cử thể hiện một số vấn đề chủ yếu như giám sát đại biểu dân cử theo nhiệm vụ chính trị, chức danh, lời hứa trước cử trị, bảo đảm và quyền lợi chính đáng của nhân dân.. từ vấn đề nêu trên bài viết đưa ra yêu cầu đối MTTQVN và các đoàn thanh tra nhân dân Đỗ Phương (2014), “Lại bàn về giám sát và phản biện” Tạp chí số 133, tr.4-7 bài viết đề cập vị trí và vai trò giám sát trong xã hội hiện nay còn nhiều hạn chế, để phát huy vai trò giám sát và phản biện cần những thay đổi cơ chế và tổ chức quản lý nêu không giám sát và phản biện xã hội chỉ là cụm từ sử dung trong tổ chức MTTQVN mà thôi Trần Ngọc Nhẫn (2014), “Vai trò mặt trận tổ quốc Việt Nam trong xây dựng chính sách, pháp luật và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật” Tạp chí mặt trận số 129+130, tr.21-24. Bài viết nêu tầm quan trọng vai trò giám sát Mặt trận trong hệ thống chính trị, nhưng đối việc xây dựng chính sách, phát luật thì quy định văn bản hạn chế, nếu có chỉ mang tính hình thức. Hiện nay, có một số quy định mới triển khai chậm, chưa hướng dẫn cụ thề dẫn khó khăn thực hiện vì vậy Quốc hội nghiên cứu sớm có quy định về cơ chế cụ thể đóng góp ý kiến các đoàn thể chính trị - xã hôi trong quá trình xây dung chính sách pháp luật và thực hiện chức năng giám sát Mặt trận. Qua các công trình nghiên cứu, các bài đăng trên các tạp chí nêu trên đã cung cấp cho chúng ta một cái nhìn tương đối về việc thực hiên hoạt động giám sát xã hôi mặt trận tổ quốc Việt Nam, đồng thời đống góp quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn đối với hoạt đông giam sát và phản biện của mặt trận, tuy 5 nhiên đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu về hoạt động giám sát xã hôi của mặt trận tổ quốc huyện Hàm yên, tỉnh Tuyên Quang. Chính vì vậy, tôi chon đề tài “ Thực hiện chức năng giám sát xã hôi mặt trận tổ quốc Việt Nam tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang” là đề tài khóa luận tốt nghiệp, với mong muốn đưa đưa đến một cái nhìn khái quát, toàn diên về thực trạng cũng như góp phần đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng hiệu quả thực hiện chức năng giám sát mặt trân tổ quốc huyên Hàm yên,tỉnh Tuyên Quang nói riêng và của mặt trân tổ quốc Việt Nam nói chung. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá đúng thực trạng hoạt động giám sát xã hội của mặt trận tổ quốc cấp cơ sở trên địa bàn huyên Hàm Yên, từ thực trạng đó đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát mặt trận tổ quốc huyện trong thời gian tới 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động giám sát mặt trận tổ quốc Việt Nam - Nghiên cứu đánh giá thực trạng và những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình thực hiện hoạt động giám sát mặt trận tổ quốc cấp huyên Hàm Yên (giai đoạn 2009 – 2014). Làm rõ nguyên nhân của những ưu điểm và hạn chế của hoạt động giám sát xã hôi Mặt trận tổ quốc huyện - Từ đó đưa ra quan điểm và các giải pháp thích hợp để phát huy, nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của mặt trận tổ quốc huyện Hàm Yên trong thực tiễn hiện nay 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1 Đối tượng Đối tương nghiên cứu của khóa luận về việc thực hiện hoạt động giám sát xã hội mặt trận tổ quốc Việt Nam tại huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang 4.2 Phạm vi nghiên cứu Khóa luận tập trung nghiên cứu hoạt động giám sát xã hội của mặt trận tổ quốc huyên Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang trong thời gian từ năm 2009 – 2014 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài 5.1 Cơ sở lý luận Khóa luận vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về kiểm soát quyền lực, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về thực thi quyền lực của nhân dân, về vai trò của nhân dân, của MTTQ và các đoàn thể chính trị xã hội trong vệc giám sát hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước 5.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: khóa luận vận dụng những nguyên tắc, phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. - Phương pháp nghiên cứu: để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu, khóa luận sử dụng tổng hợp các phương pháp như: phương pháp logic – lịch sử, phương pháp sánh, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp tra cứu tài liệu, phương pháp thu thập và xử lý thông tin… 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận - Khóa luận cung cấp cơ sở lý luận về hoạt động giám sát xã hôi của MTTQ góp phần viêc nghiên cứu, đổi mới sự lãnh đạo của đảng đối với công tác măt trận nói chung và hoạt động giám sát xã hội của mặt trận nói riêng, từ cơ sở 7 đó góp phần nâng cao chất lượng hoạt động giám sát xã hội của mặt trận trên địa bàn huyện Hàm Yên - Khóa luận góp phần nâng cao nhận thức về vai trò của MTTQ đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, đặc biệt là vai trò giám sát xã hôi của MTTQ - Khóa luận có thể dung làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy, học tập lý luận cho cán bộ của MTTQ và cấp đoàn thể, các giải pháp có thể áp dụng trong thực tiễn hoạt động giám sát MTTQ nói chung và ở cấp cơ sở huyện nói riêng. 7. Kêt Cấu của khóa luận Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương 7 tiết. 8 Chương 1 CHỨC NĂNG GIÁM SÁT XÃ HỘI CỦA MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN 1.1 Vị trí, vai trò của mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị 1.1.1. Vị trí của mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị Mặt trân Dân tộc thống nhất Việt Nam do đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, được thành lập ngày 18/11/1930. Trải qua các thời kỳ cách mạng với những tên gọi khác nhau, MTTQ Việt Nam đã không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, đã có những đóng góp to lớn vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc và cùng đảng, nhà nước hợp thành những trụ cột cơ bản trong hệ thống chính trị nước ta. Trong thực tiễn lịch sử cách mạng, ngày từ khi đảng Đảng cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) trong nội dung chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt được thông qua tại hội nghị thành lập Đảng đảng cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết cần xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân…phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phấn đấu vì mục tiêu chung: giải phóng dân tộc, xây dựng một xã hội mới hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân Nhận thưc tầm quan trọng chiến lược đó, ngày 18/11/1930, Ban thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ thị thành lập Hội phản đế Đồng Minh – hình thức đầu tiên của Mặt trân dân tộc thống nhất, một hình thức liên minh chính trị của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các lực lực lượng yêu nước khác nhằm “ Đoàn kết lực lượng cách mạng phản đế lại, để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa, mưu việc hoàn toàn độc lập cho xứ Đông Dương và bênh vực cho phong trào giải phóng ở các thuộc địa và bán thuộc địa [15, tr.10] 9 Và từ thời gian đó đến nay trong lịch sử cách mạng Việt Nam chưa bao giờ vắng bóng tổ chức Mặt trận. Khi cách mạng chưa giành được chính quyền thì Mặt trận là liên minh chính trị của công nông với các lực lượng tiến bộ trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, vận động đoàn kết nhân dân chống thực dân pháp và phong kiến giành chính quyền về tay nhân dân, trong những giai đoạn lịch sử Mặt trận còn thực hiện chức năng và nhiệm vụ của chính quyền ở vùng giải phóng .Sau khi Đảng giành được chính quyền, MTTQ trở thành thành viên của hệ thống chính trị , Mặt trận cùng với Đảng, Nhà nước là công cụ thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đặc biệt hiện nay trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa nhận thức về vị trí MTTQVN ngày càng được hoàn thiện thông qua chủ trương, đường lối của Đảng, mà còn thể hiện trong hiến pháp, trong các luật đặc biệt là luật MTTQVN và sự thừa nhận của các tầng lớp nhân dân. Trong các văn kiện quan trọng của Đảng ngày càng tiếp tục khảng định vị trí quan trong của Mặt trận trong hệ thống chính trị cụ thể: Chỉ thị 17 của Ban bí thư Trung ương Đảng khóa V, ngày 18/4/1983 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác MTTQVN trong giai đoạn mới ghi rõ: “Măt trận Tổ quốc Việt nam là tổ chức chính trị Xã hội rộng lớn vừa có liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc. Mặt trận đại diện chung cho quyền làm chủ của nhân dân lao động, là sợi dây nối liền các tằng lớp xã hội rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước” Nghị quyết 07 của Bộ chính trị khóa VII về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, ngày 18/11/1993: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là liện minh chính trị, là tổ chức liên hiệp tự nguyện của các đờn thể nhân dân và cá nhân tiểu biểu trong giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Đảng cộng sản Việt Nam vừa là thành viện vừa là người lãnh đạo Mặt trận” 10 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của đảng cũng chỉ rõ: “Mặt trận tổ quốc Việt Nam, một tổ chức liên minh chính trị, liên minh tự nguyện của các đoàn thể chính trị - xã hội và các cá nhân tiểu biểu trong các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo. Mặt trận và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi phối hợp thống nhất hành động của các tầng lớp nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; tham gia với Đảng và Nhà nước thực hiện và giám sát việc thực hiện dân chủ, chăm no bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân, bảo vệ Đảng và chính quyền thực hiện các nhiệm vụ kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, góp phần tăng cường mối liện hệ mật thiết giữa nhân dân với đảng và nhà nước..” Đại hội lần thứ XI của Đảng: “ Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức hoạt đông, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phát huy vai trò nòng cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ sở chính tri của chính quyền nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững manh;tổ chức các phòng trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế ,văn hóa, xã hội, quốc phong, an ninh, xã hôi.” Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung phát triển năm 2011): “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích của các đoàn viên, hội viên; thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành mạnh; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước; giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng, quyền và nghĩa vụ công dân, tăng cường mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước”.“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, 11 các dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên vừa là người lãnh đạo Mặt trận. Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động giữa các thành viên.” [16] Tại điều 9 Hiến pháp 1992 đã quy định “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị-xã hội, các tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài” [17] Hiến pháp năm 2013 nêu rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[18]. Điều đó khẳng định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 5 đã thông qua ngày 12 tháng 6 năm 1999, trong đó đã khẳng định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận của hệ thống chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của dân, nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các 12 thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh", (Khoản 2, Điều 1).[19] Như vậy, vị trí của MTTQVN do chính nhân dân, chính lịch sử xác định và thừa nhân, cụ thể việc pháp luật khẳng định MTTQVN “là một bộ phân của hệ thống chính trị của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” có nghĩa là pháp luật đã xã định địa vị pháp lý và chính trị của Mặt trận là một thành tố cấu thành thể chế chính trị nước ta. MTTQVN với tư cách là thành viên của hệ thống chính trị có chức năng, nhiệm vụ riêng và tồn tại, hoạt động trong mối hệ với các thành viên khác của hệ thống chính trị. Bên cạch đó địa vị này còn do yêu cầu khách quan sự nghiệp cách mạng đòi hỏi có tổ chức rộng rãi để đoàn kết tất cả lực lượng tiến bộ của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam để xây dựng bảo vệ tổ quốc Địa vị pháp lý MTTQ còn do đặc điểm, cấu trúc của hệ thống chính trị Việt Nam quy định, hệ thống đó không tổ chức vận hành theo hình thức đa nguyên, đa đảng mà Đảng cộng sản Việt Nam là người duy nhất lãnh đạo và cầm quyền, vì vậy trong hệ thống chính trị nước ta không có sự kiềm chế, đối trọng giữa các lực lượng chính trị đối lập. Do đó để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng luôn đúng đắn, bộ máy cơ quan nhà nước luôn trong sạch, thể hiện ý chí và nguyên vọng nhân dân, thể hiện đúng bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Để thực hiện đúng ban chất đó cần thiết phải có sự giam sát và phản biện từ phía nhân dân, và tổ chức đại diện cho ý chí và nguyện vọng của tầng lớp nhân dân chính là MTTQ, hoạt động giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận sẽ tao ra yếu tố kiềm chế, nhằm giới hạn quyền lực, tránh xu hướng lạm dụng quyền lực, vi phạm dân chủ trong bộ máy hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước ta. 13 Vì vậy, nhìn từ các góc độ khác nhau cả về pháp lý, cả về lịch sử và hoạt động thực tiễn đều khẳng định MTTQVN là một thiết chế quan trọng, một chủ thể không thể thiếu trong hệ thống chính trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.2 Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của nước ta hiện nay. Sự qui định này là do yêu cầu khách quan của sự nghiệp cách mạng, là xuất phát tư thể chế chính trị: nước ta là nước dân chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Đây là vấn đề lịch sử, vấn đề truyền thống. Vai trò của Mặt trận không phải tự Mặt trận đặt ra mà là do chính nhân dân, chính lịch sử thừa nhận. Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám 1945 gắn liền với sự nghiệp của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế đồng minh (1930-1936) và của Mặt trân Dân chủ Đông Dương (1936-1939).Tiếp theo Mặt trận Việt Minh là Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc tháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời đã đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hòa bình Việt Nam đoàn kết nhân dân cả nước làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang: giải phóng miền Nam bảo vệ miền Bắc, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Từ khi đất nước thống nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giữ vai trò quan trọng trong việc củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vai trò là tổ chức tập hợp, đoàn kết rộng rãi các lực lượng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các 14 giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được khẳng định vị trí ngay từ trong Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Sau mỗi lần bổ sung, sửa đổi Hiếp pháp, vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục được khẳng định và xác định rõ hơn. Hiến pháp năm 1992 đã xác định: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân..."[17] điều đó càng khẳng định Mặt trận Tổ quốcViệt nam là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống chính trị nước ta. "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể thành viên có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đaị đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc..."[17] Đó là củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo nên sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, thắt chặt mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước để thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Hiến pháp bổ sung, sửa đổi năm 2013 xác định: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài"[18] Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp sửa đổi 2013 đã hoàn thiện một bước cơ bản quy định về MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, làm nổi bật và phù hợp vị trí, vai trò của các tổ chức này trong xã hội nước ta, tạo cơ sở pháp lý phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của MTTQ và các đoàn thể nhân dân trong đời sống chính trị của đất nước trong thời kỳ mới. Đặc biệt Luật Mặt trận tổ quốc Việt 15 Nam quy định rõ vai trò của Mặt trận: “ là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của dân,nơi hiệp thương phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần dữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”[19] Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, vai trò cơ sở chính của Mặt trận thể hiện ở chỗ: - Mặt trận là nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng tập hợp xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng và bảo vệ chính quyền. - Mặt trận là nền tảng chính trị, là sức mạnh có tổ chức của toàn dân. Nhà nước phải dựa vào Mặt trận để phát huy sức mạnh của mình thông việc phát huy sức mạnh có tổ chức của nhân dân - Mặt trận cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân tham gia xây dựng và phản biện các chủ trương, chính sách pháp luật, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ công chức nhà nước, các cuộc vận động xã hội, thực hiện tốt cac chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Ngoài ra, với đặc điểm của hệ thống chính trị của nước ta, để tránh nguy cơ độc đoán, quan liêu xa dân… đòi hỏi phải phát huy vai trò của MTTQ trong hệ thống chính và đời sống xã hội thông qua việc tham chính và tham nghị, giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động cơ quan Nhà nước và mỗi cán bộ đảng viên trong hệ thống đó. 16 1.2 Giám sát xã hôi và chức năng giám sát xã hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. 1.2.1 Khái niệm giám sát và hoạt động giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam 1.2.1.1 Khái niệm giám sát Khái niệm “giám sát” hiện nay được dung rất phổ biến trong các khoa học như chính trị học, luật học, hành chính học… và trong nhiều văn bản nghị quyết của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước cũng như trong hành xử của đời sống chính trị thực tiễn. Tuy nhiên khái niệm giám sát và nội hàm của nó được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau. Trong Từ điển Hán – Việt của Đào Duy Anh chủ biên thi “giám sát là xen xét và đàn hạch” [20] Theo Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên thi “Giám sát là theo dõi và kiểm tra có thực hiện đúng những điều quy định không” [21, tr.374] Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên hiểu “giám sát là theo dõi, kiểm tra việc thực hiên nhiệm vụ” [22, tr.728] Từ điển Quản lý xã hội ghi “giám sát là kiểm tra; theo dõi nhằm mục đích kiểm tra việc chấp hành luận, nghị quyết, quyết định quản lý…” [23, tr.76] Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “giám sát là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp tích cực để buộc các đối tượng chịu sự giám sát đi theo đúng quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả đã đạt được xác định từ trước, đảm bảo luật pháp được tuân thủ nghiêm chỉnh.” [24, Tr.174] Trong cuốn Tìm hiểu một số thuật ngữ trong văn kiện Đại hội X của Đảng đã nêu rõ: “giám sát là theo dõi, kiểm tra, phát hiện, đánh giá của cá nhân, tổ chức, cộng đồng người đối cá nhân, tổ chức, cộng đồng người khác trong các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, trong việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật, 17 đường lối quan điểm của đảng, chính sách của Nhà nước, các quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, của các tổ chức chính trị - xã hội và kiến nghị phát huy, ưu điểm, thành tựu, xử lý đối với cá nhân, tổ chức có những hành vi sai trái” [25, tr.184] Tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” co ý nghĩa khác nhau nhưng chúng đều có một số đặc điểm sau: “Giám sát” luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là phải trả lời câu hỏi; ai (người hoặc tổ chức nào) có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đưa ra nhận định về một việc làm nào đó đã được thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định. Đồng thời “giám sát” luôn gắn với một đối tượng cụ thể, tưc là phải trả lời được câu hỏi: giám sát ai? Giám sát việc gì? Để có những tác động nhằm điều chỉnh đối tượng thực hiện đúng yêu cầu, quy định của chủ thể quyền lực. Giám sát mang tính chủ động (có mục đích, nội dung, quy chuẩn…) thường xuyên liên tục. Như vậy có thể quan niệm: “giám sát là quá trình theo dõi, quan sát, phân tích nhận định về hành vi của đối tượng bị giám sát xem có vi phạm những chuẩn mực của chủ thể quyền lực hay không để có những tác động điều chỉnh tương đối thực hiện đúng các yêu cầu chuẩn mực mà chủ thể quyền lực đặt ra” Trong đời sống chính trị cần phân biệt biệt khái niệm “giám sát”và khái niệm “thanh tra”. Khái niệm “thanh tra” được diễn đạt trọng Nghị quyết số 164CP ngày 31/8/1970 của hội đồng chính phủ về tăng cường công tác thanh tra và chấn chỉnh hệ thống thanh tra Nhà nước như sau: Thanh tra là một trong công tác quan trọng của công tác quản lý, nó có mục đích giúp cơ quan lãnh đạo vừa kiểm tra sự đúng đắn của bản thân sự lãnh đạo của mình và kiểm tra sựu chấp hành của cơ quan quyền lực thuộc thẩm quyền nhầm tìm ra những biền pháp chỉ đạo, cách quản lý tốt nhất, đảm bảo cho 18 những chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước được thực thi đầy đủ có hiệu lực. Như vậy, để phân biêt thanh tra và giám sát trước hết ta nhận diện một số vấn đề sau: Thanh tra là công cụ hỗ trợ hoạt động quản lý nhà nước của hệ thống cơ quan quản lý hành chính, là công cụ kiểm tra của hệ thống hành pháp, còn giám sát là hoạt động của hệ thống quyền lực lập pháp. Điểm khác biệt nữa là đối tượng của thanh tra là cơ quan, tổ chức chấp hành, thực hiện quyền lực hành pháp (thuộc quyền quản lý của cơ quan hành chính) và chủ thể giám sát không có quyền áp dụng chế tài cụ thể, trực tiếp để xử lý sai phạm còn chủ thể thanh tra có quyền đưa ra các chế tài cần thiết đối với đối tuwongjvi phạm như đình chỉ hoạt động, chuyển vụ việc sang cơ quan điều tra.. Hoạt động giám sát được thực hiện bằng hai loại chủ thể. Đó là hoạt động giám sát của cơ quan Nhà nước và hoạt động giám sát của các chủ thể xã hội (ngoài nhà nước). Hoạt động giám sát của các chủ thể ngoài nhà nước gọi là giám sát xã hội. Giám sát xã hội khác với giám sát Nhà nước như sau: chủ thể giám sát xã hội gồm các đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí, công dân. Đảng cầm quyền không được coi là chủ thể giám sát xã hội và đảng cầm quyền là chủ thể xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy và trực tiếp lãnh đạo nhà nước. Đối tượng giám sát xã hội là cơ quan quyền lực, giám sát xã hội không mang tính quyền lực Nhà nước (không thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm trực tiếp đối với các đối tượng vi phạm nhưng lại có thể gây áp lực lên chủ thể quyền lực để điểu chỉnh quyết định chính sách).Bản chất giám sát xã hội là hình thức giám sát có sự tham gia rộng rãi của toàn bộ xã hội mà nòng cốt là một số tổ chức của nhân dân, do nhân dân lập lên và ủy nhiệm. Phương thức giám sát xã hội được thực hiện trước tiên, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội rông lớn của nhân dân ( Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hôi nghề nghiệp…) bằng hình thức giám sát gián tiếp hoặc trực tiếp của mỗi công dân. Trái lại, giám sát xã hội là sự bổ xung quan trọng, khách quan cho những hình thức giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước và hệ thống
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng