Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố hải phòng...

Tài liệu Thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố hải phòng

.PDF
75
755
56

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN ĐÌNH THANH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG Chuyên ngành: Chính sách công Mã số : 60340402 LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị An HÀ NỘI, 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và kết quả trong luận văn là trung thực. Những ý kiến khoa học trong luận văn chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Hải Phòng, ngày tháng 7 năm 2016 TÁC GIẢ LUẬN VĂN Trần Đình Thanh MỤC LỤC MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1 Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĂN HÓA .............................................................................................................. 6 1.1.Một số khái niệm ..................................................................................... 6 1.2. Nội dung thực hiện chính sách văn hóa ................................................. 10 1.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách văn hóa ...................... 16 1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện hiệu quả các chính sách văn hóa……. ........................................................................................................ 19 1.5. Một số thách thức trong thực hiện chính sách văn hóa ở Việt Nam….. ............................................................................................... 23 Chương 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .............................................................. 27 2.1. Khái quát về thành phố Hải Phòng ........................................................ 27 2.2. Thực trạng tổ chức thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng .............................................................................. 34 2.3. Kết quả thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng ............................................................................................................. 39 Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG .................................................................................................................. 50 3.1. Quan điểm hoàn thiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng ............................................................................................................. 50 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng .............................................................................. 56 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 66 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 70 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong phần đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Trung ương đã khẳng định: sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực và đạt được nhiều kết quả quan trọng song chưa tương xứng với các thành tựu trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại và quốc phòng an ninh; chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng. Đời sống văn hóa tinh thần ở nhiều nơi còn nghèo nàn, đơn điệu...Chính từ những tồn tại, hạn chế như trên, nền văn hóa Việt Nam đang gặp nhiều vấn đề trong việc thực hiện vai trò, sứ mệnh của nó như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Để thực hiện có hiệu quả các chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước trên địa bàn thành phố Hải Phòng, Đảng bộ và chính quyền thành phố đã chủ động, sáng tạo thực hiện các Nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong đó có các chính sách về văn hóa được xác định sẽ góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu xây dựng con người Hải Phòng đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của thành phố. Nghị quyết Đại hội XIII Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ, phát triển toàn diện văn hóa, giáo dục, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân”. Thực trạng công tác văn hóa trong bối cảnh chung của đất nước và đặc thù địa phương hiện nay đang rất cần có một cái nhìn, một hướng nghiên cứu mới về thực hiện chính sách cụ thể. Từ các tiếp cận chính sách công về quá trình thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng, tác giả chọn: “Thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” làm đề tài Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Chính sách công nhằm 1 nghiên cứu và đưa ra những khuyến nghị trong thực hiện chính sách văn hóa của thành phố Hải Phòng. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đã có một số công trình nghiên cứu về chính sách văn hóa trong đời sống xã hội nói chung cũng như trong thực tiễn của thành phố Hải phòng dưới nhiều góc độ khác nhau được thể hiện dưới các hình thức như: đề tài khoa học; giáo trình; bài báo; bài đăng tạp chí... với những đánh giá chính sách văn hóa trong tổng thể phát triển. Tuy nhiên các công trình đề tài nghiên cứu đánh giá chính sách phát triển văn hóa cũng như thực hiện chính sách phát triển văn hóa chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào đề cập tới vấn đề thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng dưới giác độ tiếp cận chính sách công. Có thể khái quát một số công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề nghiên cứu như sau: Trong công trình Phát triển văn hoá Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Những vấn đề phương pháp luận (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009), Phạm Duy Đức đã bàn luận đến các vấn đề phương pháp luận nghiên cứu, thực trạng và giải pháp để phát triển văn hóa Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 theo những định hướng và nhiệm vụ được chỉ ra trong Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020. Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết TW5 khóa VIII, tác giả Nguyễn Tri Nguyên đã có bài viết: Đối mới và hoàn thiện chính sách văn hóa, Báo Nhân dân cuối tuần ngày 17/9/2013. Trong bài viết này, tác giả đã khẳng định vai trò của chính sách văn hóa đối với sự phát triển văn hóa của dân tộc. Tác giả viết: “Chính sách văn hóa hiện thực hóa được những tư tưởng cơ bản trong các nghị quyết của Đảng ta về văn hóa, thực chất là ý chí, quan điểm và định hướng, tạo điều kiện cơ bản để quản lý văn hóa của đất nước với tư cách là phương tiện hiệu quả để thiết lập cuộc sống tốt đẹp đồng thời với việc phát triển một nền sản xuất và thị trường văn hóa lành mạnh…Có thể nói, một chính sách văn hóa tốt 2 và có hiệu lực xã hội rộng lớn phải làm sao cho sự phát triển văn hóa đi từ bên ngoài vào bên trong, đi vào cấp tâm lý của con người và cơ chế tinh thần của vô thức cộng đồng. Chính sách văn hóa phải làm sao cho mỗi cá nhân riêng lẻ thân thiện hơn nữa với văn hóa. Chính sách đó phải làm cho văn hóa thấm sâu vào tâm hồn và đánh thức tiềm năng của con người như chúng ta thường nói. Muốn đạt được mục tiêu cao cả đó, chúng ta cần đổi mới tư duy văn hóa sao cho ngang tầm với đổi mới tư duy kinh tế như chúng ta đã và đang thực hiện. Đổi mới tư duy văn hóa ở đây có nghĩa phải biết đặt phát triển văn hóa ngang tầm với phát triển kinh tế. Biến văn hóa thành nguồn lực nội sinh của quá trình phát triển kinh tế và xã hội”. Về việc thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng, tác giả Hoàng Đình Thi, trong Luận văn tốt nghiệp Đại học Chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2004) với đề tài Báo chí Hải Phòng với nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đề cập đến vai trò của báo chí trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Tác giả Nguyễn Quang Linh đã có Luận văn thạc sĩ văn hóa học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2006) với đề tài Văn hóa giải trí ở thành phố Hải Phòng trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Tác giả Trịnh Minh Hiên đã có chuyên khảo bàn về Lễ hội truyền thống văn hóa tiêu biểu Hải Phòng (Nxb Hải Phòng, 2006). Trong các công trình trên, vấn đề trong thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng để hình thành môi trường văn hóa lành mạnh đáp ứng yêu cầu sự phát triển hình thành một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc của thành phố như nghị quyết Đảng bộ thành phố đã đề ra thì vẫn chưa được bàn đến một cách có hệ thống. Trong luận văn này, tác giả mong muốn được tiếp tục nghiên cứu, phân tích và đưa ra những giải pháp, khuyến nghị về thực hiện chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành 3 phố Hải Phòng góp phần đẩy mạnh công cuộc phát triển văn hóa, góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần của nhân dân thành phố. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu - Khảo sát, đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây. - Đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng trong thời gian tới. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu thực trạng xây dựng phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng những năm gần đây. - Những kết quả đạt được trong thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách văn hóa của Đảng, Nhà nước. - Tiếp thu những điểm mới của Nghị quyết Trung ương 9 (khóa XI) cùng tình hình phát triển văn hóa tại địa phương, đề ra những giải pháp nâng cao việc thực hiện chính sách văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Việc thực hiện các chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn thành phố Hải Phòng. Phạm vi nghiên cứu: thành phố Hải Phòng. Thời gian khảo sát: 2011- 2015 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Phương pháp luận Luận văn sử dụng cách tiếp cận liên ngành văn hóa học, xã hội học và chính sách công. Trong đó, cách tiếp cận chính sách công được xác định theo quy trình: từ xác định vấn đề chính sách đến thực hiện và đánh giá chính sách công có sự tham gia của chủ thể chính sách 4 5.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp thu thập thông tin: thu thập thông tin, số liệu từ các báo cáo tổng kết của Thành ủy, UBND thành phố, ngành văn hóa và các đơn vị liên quan. Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn chủ thể tham gia vào quá trình ban hành chương trình, kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện chính sách. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lý luận Bằng việc sử dụng cách tiếp cận chính là tiếp cận chính sách công, kết quả nghiên cứu làm sáng tỏ cho các lý thuyết liên quan đến chính sách công, từ đó hình thành các tiến trình đề xuất các giải pháp chính sách nhằm nâng cao hiệu quả các chính sách đã ban hành. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Các kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về thực hiện chính sách công nói chung và thực hiện chính sách phát triển văn hóa nói riêng. cung cấp cho các cấp ủy Đảng, chính quyền có thêm một nguồn tư liệu tham khảo phục vụ cho công tác sơ tổng kết và thực hiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI và các chính sách văn hóa của Nhà nước trong thời gian gần đây. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách văn hóa Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách phát triển văn hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng Chương 3: Phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách văn hóa trong giai đoạn hiện nay 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH VĂN HÓA 1.1. Một số khái niệm 1.1.1 Khái niệm Chính sách và Chính sách công - Khái niệm chính sách Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa…” Theo Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính, “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể để đạt được mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế”. Kinh tế gia Franc Ellis lại cho rằng: “Chính sách được xác định như là đường lối hành động mà Chính phủ lựa chọn đối với mọi lĩnh vực của nền kinh tế, kể cả mục tiêu mà Chính Phủ tìm kiếm và lựa chọn các phương pháp để theo đuổi các mục tiêu đó”. Theo từ điển Tiếng Việt: “Chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế mà đề ra”. Theo tác giả Vũ Cao Đàm: “Chính sách là một tập hợp biện pháp được thể chế hóa, mà một chủ thể quyền lực, hoặc chủ thể quản lý đưa ra, trong đó tạo ra sự ưu đãi một hoặc một nhóm xã hội, kích thích vào động cợ hoạt động của họ nhằm thực hiện một mục tiêu ưu tiên nào đó trong chiến lược phát triển của một hệ thống xã hội”. Theo tác giả thì khái niệm “hệ thống xã hội” được hiểu theo mốt ý nghĩa khái quát. Đó có thể là một quốc gia, một khu vực hành chính, một doanh nghiệp, một nhà trường… 6 Chính sách là chủ trương, định hướng cơ bản được cơ quan có thẩm quyền xây dựng trên cơ sở đường lối, chiến lược của nhà nước trong tưng lĩnh vực cụ thể hoặc trong quy hoạch phát triển tổng thể nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Những quan điểm trên đề cập đến phạm trù chính sách theo những khía cạnh khác nhau và theo những mục đích khác nhau. Tuy nhiên, khi đề cập đến phạm trù chính sách cần phải làm rõ: Chính sách là gì? Ai là người tạo ra nó? Nó tác động đến ai, đến cái gì? Từ yêu cầu trên có thể hiểu rằng, chính sách là công cụ, là biện pháp can thiệp của Nhà nước vào một ngành, một lĩnh vực hay toàn bộ nền kinh tế theo những mục tiêu nhất định, với những điều kiện thực hiện nhất định và trong một thời gian xác định. - Khái niệm Chính sách công Khoa học về chính sách công được nghiên cứu ở phương Tây từ những năm 1940 của thế kỷ XX. Nhưng phải đến những năm 1980, chính sách công mới phát triển nhanh chóng và được coi như một lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt với các lý thuyết và các cách tiếp cận của mình. Ở Việt Nam, chính sách công mới được nghiên cứu vào những năm cuối của thập niên 1990 và những năm đầu của thế kỷ XXI. Là một vấn đề mang bản chất xã hội - nhà nước, chính sách công được nghiên cứu, nhìn nhận từ các góc độ sau: (1) Chính sách công là sản phẩm của một quá trình thực thi quyền lực chính trị. (2) Quá trình hoạch định chính sách chủ yếu được diễn ra trong bộ máy Nhà nước. (3) Quá trình hoạch định chính sách bao hàm sự trao đổi thông tin và các nguồn lực, thảo luận, thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước. 7 (4) Quá trình hoạch định chính sách cũng bao hàm sự tương tác với các tổ chức bên ngoài nhà nước. Nội dung, sự khăng khít và thời gian của những tương tác này cũng là những chủ đề quan trọng của việc nghiên cứu chính sách công. (5) Mục đích căn bản của chính sách công là hướng tới việc làm tăng khả năng có thể xảy ra của một hiện tượng xã hội đang khao khát. (6) Các thể chế nhà nước có quyền và trách nhiệm đối với các vấn đề công cộng thường chính thống hoá các hoạt động của họ bằng cách tuyên bố rằng, những chính sách của họ là vì lợi ích chung chứ không thiên vị một nhóm, một khu vực, hoặc một cá nhân nào. TS. Đặng Ngọc Lợi trong bài viết đăng trên Tạp chí Kinh tế và dự báo (số tháng 1 năm 2012) tuy không đưa ra định nghĩa về chính sách công nhưng cho rằng chính sách công là chính sách của nhà nước, của chính phủ (do nhà nước, do chính phủ đưa ra), là một bộ phận thuộc chính sách kinh tế và chính sách nói chung của mỗi nước. So với các quan niệm trên thì điểm khác căn bản trong cách tiếp cận nhận thức về chính sách công là tính công của chính sách, tính công thể hiện trong quan niệm của TS. Đặng Ngọc Lợi là nhà nước, chính phủ khác với quan niệm của các học giả Âu Mỹ xem tính công của chính sách là công cộng (công chúng, đối tượng chịu sự điều chỉnh, tác động của chính sách); PGS.TS. Lê Chi Mai cho rằng: “Cho đến nay trên thế giới, cuộc tranh luận về định nghĩa chính sách công vẫn là một chủ đề sôi động và khó đạt được sự nhất trí rộng rãi”. Tuy vậy theo bà, chính sách công có những đặc trưng cơ bản nhất như: chủ thể ban hành chính sách công là nhà nước; chính sách công không chỉ là các quyết định (thể hiện trên văn bản) mà còn là những hành động, hành vi thực tiễn (thực hiện chính sách); chính sách công tập trung giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu xác định; chính sách công gồm nhiều quyết định chính sách có liên quan lẫn nhau. Trong bài viết của mình PGS.TS. Lê Chi Mai còn đưa ra khái niệm “chính sách tư” là chính sách do các cơ quan, tổ chức ban hành nhằm giải quyết những vấn đề thuộc về nội bộ 8 cơ quan, tổ chức, không có hiệu lực thi hành bên ngoài phạm vi cơ quan, tổ chức. Như vậy, so với các quan niệm đã nêu ta thấy có những điểm tương đồng trong quan niệm về chính sách công như: tính nhà nước, tính công cộng, tính hành động thực tiễn (coi quá trình thực hiện là một phần của chính sách công). Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan nhằm lựa chọn các mục tiêu cụ thể với giải pháp và công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu đã xác định của đảng chính trị cầm quyền. (Đỗ Phú Hải, Học viện Khoa học xã hội). Bên cạnh việc nhìn nhận một cách toàn diện các khía cạnh của khái niệm chính sách công từ nhiều góc độ, khái niệm “chính sách công” được định nghĩa một cách ngắn gọn như sau: “Chính sách công là những đường hướng ứng xử cơ bản của nhà nước với những vấn đề chính sách phát sinh trong đời sống cộng đồng bằng nhiều hình thức khác nhau nhằm thúc đẩy phát triển xã hội và quản lý xã hội” (Võ Khánh Vinh, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2013 HVKHXH); hay chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của nhà nước nhằm lưạ chọn các mục tiêu cụ thể với các giải pháp công cụ thực hiện giải quyết các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định" (Đỗ Phú Hải, chương trình đào tạo thạc sĩ chính sách công năm 2014 HVKHXH). Từ điển Giải thích thuật ngữ hành chính cũng đã có định nghĩa về chính sách công như sau: “Chính sách công là chiến lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay những mối quan tâm của Nhà nước. Chính sách công cho phép chính phủ đảm nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ gìn hạnh phúc và bảo vệ an toàn Tổ quốc”. 1.1.2. Khái niệm Chính sách văn hóa Chính sách văn hóa là những đường lối sách lược và những kế hoạch được thể chế hóa bằng pháp luật để nhằm thực hiện các mục tiêu văn hóa của quốc gia trong từng giai đoạn nhất định. Thực hiện chính sách văn hóa là một 9 khâu quan trọng trong chu trình chính sách công. Trong thực tiễn có nhiều loại chính sách khác nhau, xuất phát từ tầm quan trọng của văn hóa do đó chính sách văn hóa là một trong những chính sách quan trọng. Chính sách này nhằm phát triển văn hóa với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển xã hội và có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của mỗi quốc gia. 1.2. Nội dung thực hiện chính sách văn hóa 1.2.1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển văn hóa Bất kỳ một chính sách nào đưa vào thực hiện trong thực tiễn đều phải xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách; trong kế hoạch thực hiện yêu cầu phải xác định cụ thể các nội dung, nhiệm vụ, nguồn nhân lực, kinh phí thực hiện, cơ quan chịu trách nhiệm chính, cơ quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện… đồng thời xây dựng kế hoạch kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách. Trong những chính sách quan trọng hoặc có sự kết hợp của nhiều cơ quan phải xây dựng nội quy, quy chế tổ chức điều hành thực hiện chính sách. Nếu các kế hoạch trên được xây dựng một cách chính xác và đảm bảo tính khả thi thì quá trình thực thi chính sách sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao đồng thời trong quá trình thực hiện sẽ không phải điều chỉnh, bổ sung kế hoạch. Để xây dựng được kế hoạch thực hiện chính sách chính xác, có tính khả thi cao đòi hỏi cán bộ, công chức, viên chức có nhiệm vụ tham mưu, xây dựng kế hoạch thực hiện chính sách phải hiểu và nắm chắc mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng, quy mô, tầm quan trọng của chính sách phát triển viên chức. Trên cơ sở đó, xác định mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, các nguồn lực (nhân lực và vật lực), thời gian và các giải pháp tổ chức thực hiện. Trên cơ sở kế hoạch tổng thể thực hiện chính sách phát triển văn hóa, cần phải xây dựng các kế hoạch cụ thể để bảo đảm cho việc triển khai như: kế hoạch tổ chức, điều hành (bao gồm các dự kiến về hệ thống các chủ thể, cơ quan chủ trì, phối hợp triển khai thực hiện); kế hoạch dự kiến các nguồn lực (bao gồm dự kiến về các cơ sở vật chất, máy móc, xe cộ, phương tiện, điều kiện trang thiết bị 10 kỹ thuật, các nguồn lực tài chính, vật tư…); kế hoạch thời gian triển khai thực hiện và kế hoạch kiểm tra, đôn đốc thực thi chính sách. Đây là một khâu quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách bởi nó quyết định đến khả năng thực hiện chính sách, dự tính trước được các tình huống xảy ra và phương án xử lý, đảm bảo cho chính sách được thực hiện trong thực tiễn một cách có hiệu quả. 1.2.2. Phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển văn hóa Việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách ngày càng được coi trọng; thông qua việc phổ biến, tuyên truyền thực hiện chính sách phát triển văn hóa giúp cho viên chức hiểu rõ về mục đích, yêu cầu, nghĩa vụ và quyền hạn của viên chức để viên chức tích cực tìm kiếm các giải pháp thực hiện. Để phổ biến, tuyên truyền chính sách đạt hiệu quả cao đòi hỏi cán bộ, công chức làm công tác tuyên truyền phải am hiểu chính sách, phải nắm chính xác, đầy đủ mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, phạm vi, đối tượng của chính sách. Đồng thời, phải nhận thức được đầy đủ mục đích, yêu cầu, nội dung, nhiệm vụ của việc tuyên truyền, phổ biến chính sách phát triển văn hóa. Trên cơ sở đó, xác định lựa chọn các kỹ năng, các giải pháp phổ biến, tuyên truyền chính sách phù hợp cho từng đối tượng viên chức tại địa bàn như: mở các lớp tập huấn tập trung để quán triệt nghiên cứu các nội dung chính sách, bàn các giải pháp và phân công thực hiện chính sách; tổ chức các lớp tuyên truyền chính sách cho các cơ quan thông tấn, báo chí để họ tuyên truyền; xây dựng văn bản hướng dẫn phổ biến cụ thể việc thực hiện chính sách gửi cho các cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức để họ thực hiện chính sách. Trong xây dựng các văn bản hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách phát triển viên chức trên địa bàn cũng như các văn bản phổ biến, hướng dẫn chính sách này phải đảm bảo chính xác, đúng với các quy định trong chính sách, làm sao đơn giản, cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện; không được bổ sung các quy định mang tính chất thủ tục dườm rà, khó thực hiện và làm sai lệch chính sách. 11 1.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển văn hóa Một chính sách được triển khai thường là sự phối kết hợp của nhiều cấp, nhiều ngành; do vậy cần phải có sự phân công, phối hợp chặt chẽ để việc thực hiện được đồng bộ, hài hòa và có hiệu quả; thông qua việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách một cách khoa học, hợp lý sẽ phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách. Để việc phân công có hiệu quả cần phải xác định tổ chức, cơ quan, cá nhân chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cá nhân, tổ chức, cơ quan tham gia phối hợp trong quá trình thực hiện chính sách. Trong phân công nhiệm vụ thực hiện chính sách phát triển văn hóa cần đặc biệt chú ý đến khả năng, trình độ năng lực chuyên môn và thế mạnh của từng tổ chức, cá nhân, cơ quan, hạn chế tình trạng chồng chéo nhiệm vụ và không rõ trách nhiệm. Hiệu quả thực hiện chính sách phụ thuộc khá nhiều vào năng lực, khả năng, nhân công, phối hợp trong tổ chức thực hiện chính sách. 1.2.4. Duy trì chính sách phát triển văn hóa Duy trì chính sách phát triển văn hóa bảo đảm cho chính sách này tồn tại và phát huy được tác dụng trong môi trường thực tế. Trong quá trình thực hiện chính sách, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cần tham mưu, đề xuất các giải pháp, các biện pháp bảo đảm cho chính sách được duy trì, tồn tại và phát huy tác dụng trong môi trường thực tế. Khi thực hiện chính sách gặp những khó khăn do môi trường thực tế biến động đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách phải có năng lực hay kiến thức sử dụng hệ thống công cụ quản lý tác động nhằm tạo lập môi trường thuận lợi cho việc thực thi chính sách này trên thực tế. Đồng thời, cần chủ động tham mưu, đề xuất với chủ thể ban hành chính sách và áp dụng các giải pháp, biện pháp thực hiện chính sách phù hợp với hoàn cảnh mới. Việc duy trì chính sách phát triển viên chức có ý nghĩa vô cùng quan trọng bảo đảm cho chính sách này tồn tại và phát huy tác dụng bền vững. Nếu 12 không duy trì chính sách sẽ dẫn đến hiệu quả chính sách thấp, gây lãng phí, không đáp ứng được yêu cầu của chính sách. Việc duy trì và bảo đảm sự tồn tại và phát huy tác dụng bền vững của chính sách đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện chính sách phải am hiểu sâu sắc về chính sách, phải nắm chắc mục tiêu, nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu, đối tượng, công cụ thực hiện chính sách này. Đồng thời, phải sử dụng các công cụ quản lý khác tác động đến việc thực hiện chính sách, đề xuất các giải pháp hỗ trợ duy trì chính sách. Để thực hiện tốt việc duy trì chính sách phát triển viên chức cần bảo đảm tốt các nội dung. Thứ nhất, Cụ thể hóa nội dung triển khai thực hiện chính sách bằng các văn bản mang tính pháp lý - quy định rành mạch, hợp lý trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện chính sách này; tránh tình trạng lẫn lộn quyền hạn, trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm thực hiện chính sách. Thứ hai, tổ chức phối hợp, thống nhất, đồng bộ giữa các cơ quan tổ chức thực thi chính sách và đội ngũ cán bộ, công chức. Thứ ba: Bảo đảm các điều kiện về vật lực, nhân lực, tài lực và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ duy trì chính sách. Thứ tư: Bảo đảm kế hoạch hóa về thời gian và quy trình thủ tục thực hiện. Thứ năm: Bảo đảm thông suốt về thông tin trong quá trình thực hiện và duy trì chính sách. 1.2.5. Điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa Việc điều chỉnh chính sách phát triển văn hóa để chính sách phù hợp với yêu cầu quản lý và tình hình thực tế. Trong quá trình thực hiện chính sách nếu gặp khó khăn do môi trường thực tế thay đổi, do chính sách còn những bất cập, hạn chế, chính sách không sát và không phù hợp với thực tiễn cần có những điều chỉnh nhất định để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu và phù hợp với tình hình thực tế. Điều chỉnh các giải pháp, biện pháp, cơ chế chính sách để chính sách được thực hiện có hiệu quả nhưng không làm thay đổi mục tiêu chính sách, nếu thay đổi mục tiêu thì chính sách này coi như thất bại. Thẩm quyền điều chỉnh bổ sung chính sách phát triển viên chức thuộc thẩm quyền của các cơ quan, tổ chức ban 13 hành chính sách này nhưng việc điều chỉnh các biện pháp, các cơ chế thực hiện chính sách diễn ra linh hoạt trong quá trình thực hiện chính sách. Để điều chỉnh chính sách hợp lý đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thực thi chính sách cần phải có năng lực và kiến thức, kỹ năng đề xuất các giải pháp, biện pháp, cơ chế chính sách để chính sách được thực hiện có hiệu quả, bảo đảm mục tiêu chính sách đề ra. Cán bộ, công chức, viên chức thực thi chính sách phải am hiểu, nắm chắc các quy định, các công cụ thực hiện chính sách, đông thời phải có kiến thức, kỹ năng phân tích các hạn chế, bất cập của chính sách, các yêu cầu thực tiễn đặt ra trong thực hiện chính sách để có cơ sở khoa học đề xuất điều chỉnh các giải pháp, biện pháp và cơ chế chính sách. Đồng thời, phải để cao trách nhiệm trong tham mưu điều chỉnh biện pháp, cơ chế chính sách, phải tôn trọng nguyên tắc khi điều chỉnh chính sách. Chính sách phát triển văn hóa hiện nay có cần phải điều chỉnh hay không hoặc điều chỉnh nhiều hay ít phụ thuộc vào tính hợp lý của chính sách và các vấn đề phát sinh cần điều chỉnh trong quá trình thực hiện chính sách này trên thực tế. 1.2.6. Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa Đây là một khâu quan trọng trong thực hiện chính sách vì theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển viên chức giúp kịp thời bổ sung hoàn thiện chính sách đồng thời chấn chỉnh công tác tổ chức thực hiện chính sách, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện mục tiêu chính sách. Để theo dõi, kiểm tra, đốn đốc việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa cần phải am hiểu sâu sắc mục tiêu của chính sách này, đối tượng thụ hưởng của chính sách và các quy định, công cụ, giải pháp thực hiện chính sách. Đồng thời, nắm chắc và chính xác các quy định trong kế hoạch thực hiện chính sách, quy chế và nội quy thực hiện chính sách. Muốn theo dõi, kiểm tra, đôn đốc thực hiện chính sách phát triển văn hóa cần thu thập, cập nhật đầy đủ các nguồn thông tin, các cơ sở dữ liệu thông tin phản ánh về quá trình triển khai 14 và kết quả thực hiện chính sách từ các cơ quan, tổ chức hữu quan trong và ngoài ngành. Trên cơ sở đó, xử lý phân tích thông tin, đối chiếu so sánh với các quy định trong chính sách, các quy định trong kế hoạch, trong quy chế, nội quy thực hiện chính sách để có cơ sở phát hiện phòng ngừa và xử lý vi phạm (nếu có), phát hiện sơ hở trong quản lý, trong tổ chức thực hiện, đề xuất các giải pháp chấn chỉnh việc thực hiện, điều chỉnh các biện pháp, cơ chế chính sách góp phần hoàn thiện chính sách và nâng cao hiệu quả chính sách. 1.2.7. Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát triển văn hóa là việc làm cần thiết và là một khâu, một nhiệm vụ rất quan trọng không thể thiếu được trong quá trình thực hiện chính sách này. Đánh giá, tổng kết thực hiện chính sách là quá trình xem xét kết luận về sự chỉ đạo, điều hành tổ chức thực hiện chính sách của chủ thể thực hiện chính sách (các cơ quan, tổ chức và đội ngũ cán bộ, công chức viên chức có chức năng thực hiện chính sách) và việc chấp hành, thực hiện của người dân là đối tượng thụ hưởng chính sách. Để đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm chính chính sách một cách chính xác cần phải căn cứ vào các tiêu chuẩn, tiêu chí và các nguyên tắc nhất định. Cơ sở để xây dựng tiêu chí đánh giá công tác chỉ đạo điều hành thực thi chính sách là kế hoạch và các quy định, quy chế kèm theo. Ngoài ra, còn phải sử dụng các văn bản liên tịch giữa các cơ quan trong và ngoài ngành, các văn bản quy phạm pháp luật, các báo cáo kết quả thực hiện chính sách của các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan. Để tổng kết, đánh giá chính xác, ngoài các tiêu chí ra còn phải căn cứ vào các nguyên tắc đã được xác định, thống nhất giữa các cơ quan, tổ chức, đơn vị liên quan. Các nguyên tắc đó là toàn diện, công bằng và khách quan. Việc đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm phải chỉ ra được chính xác các ưu điểm, nhược điểm, kinh nghiệm thực hiện chính sách. 15 Cùng với việc tổng kết, đánh giá kết quả chỉ đạo, điều hành thực hiện của các cơ quan trong đơn vị sự nghiệp, hành chính và các cơ quan chủ trì thực hiện chính sách, còn phải xem xét, đánh giá kết quả thực hiện của đối tượng thụ hưởng trực tiếp của chính sách văn hóa. Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách nói chung và chính sách phát triển văn hóa nói riêng là công việc khó, phức tạp trong quá trình thực hiện chính sách. Điều đó đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong và ngoài ngành và cán bộ, công chức, viên chức tại địa bàn tham gia vào công việc này phải có trình độ năng lực, kiến thức và kỹ năng nhất định, nếu không khó có thể đánh giá được chính xác kết quả thực hiện chính sách, khó có thể rút ra được bài học kinh nghiệm trong thực hiện chính sách này. 1.3. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách văn hóa 1.3.1. Vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Tại Hội nghị lần thứ 9, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Ngày 9/6/2014 đã thông qua Nghị quyết số 33 - NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Một trong giải pháp quan trọng để thực hiện hiệu quả Nghị quyết trên là Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã định hướng “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa”. Đây là vấn đề hệ trọng cần được sự quan tâm của toàn ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, các ngành liên quan, chính quyền các cấp trong việc nhận thức, quán triệt, triển khai. Trong những chia sẻ bước đầu từ những định hướng của Nghị quyết đề ra về vấn đề cốt yếu của ngành Văn hóa, Thể thao 16 và Du lịch. Nghị quyết chỉ rõ: “Tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Đẩy nhanh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng về văn hóa. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam”. Như vậy, có thể nhận thấy hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa cần tiếp tục nhận thức về bối cảnh và tác động của nền kinh tế thị trường hiện nay, sự vận động của kinh tế thị trường (trong nước và quốc tế) thường xuyên, liên tục tác động đến bộ máy, cơ chế chính sách với những dạng thức phong phú với những nhân tố tích cực và tiêu cực đến hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. Trên tầm vĩ mô và những hoạt động cụ thể việc ý thức, nhận thức được những tác động đó của kinh tế thị trường liên quan đến đánh giá hiệu quả và giá trị của hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa. Trên bình diện lý luận cần làm rõ hơn bối cảnh tác động của kinh tế thị trường đối với hoạt động quản lý nhà nước về văn hóa có ý nghĩa đến hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; trên bình diện thực tiễn cần có tổng kết đánh giá trên tinh thần mới của Nghị quyết số 33/NQTW đã chỉ ra. Hội nhập quốc tế, sự bùng nổ công nghệ thông tin và truyền thông trong thời kỳ hiện nay vừa mang lại những giá trị văn hóa mới của dân tộc, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong quản lý nhà nước về văn hóa. Trong nhiều vấn đề quản lý nhà nước về văn hóa trước sự tác động của bối cảnh hội nhập quốc tế và thời đại công nghệ thông tin, truyền thông một vấn đề quan trọng có ý nghĩa đặt ra là nâng cao năng lực, khả năng trình độ của cán bộ công chức ngành Văn hóa một cách tương ứng để hội nhập và sử dụng công nghệ thông tin, xử lý thông tin một cách hiệu quả. Bối cảnh, tình hình trên đặt ra những vấn đề mới có ý nghĩa “thời cuộc” của đất nước nói chung và trong lĩnh 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan