Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễ...

Tài liệu Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố bắc ninh, tỉnh bắc ninh

.PDF
79
326
75

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRƯƠNG KHẮC DƯƠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số : 60.38.01.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phùng Thế Vắc HÀ NỘI, 2017 HÀ NỘI - năm LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học Viện Khoa học xã hội. Vậy tôi xin viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật – Học Viện Khoa học xã hội xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƯỜI CAM ĐOAN TRƯƠNG KHẮC DƯƠNG MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1 Chương 1: LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ............................................................................................................. 7 1.1 . Khái niệm quyền công tố ........................................................................................... 7 1.2 . Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ......................................................... 16 1.3. Các yếu tố bảo đảm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ............................................................................................................................... 17 Chương 2: THỰC TIỄN THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH .................................................................................... 27 2.1 . Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình tội phạm trên địa bàn thành phố Bắc Ninh ........................................................................................................... 27 2.2. Thực trạng thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh.............................................................. 31 2.3. Những hạn chế vướng mắc thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh .............................. 38 2.4. Đánh giá ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân của các tồn tại từ thực tiễn áp dụng pháp luật ................................................................................................................... 40 Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................... 44 3.1. Quan điểm về quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh .................................................................... 44 3.2. Nguyên nhân của kết quả đạt được và những hạn chế trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh ............................................................................................................................ 45 3.3. Giải pháp..................................................................................................................... 50 3.4. Kiến nghị .......................................................................................................... 66 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 70 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 72 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTHS : Bộ Luật tố tụng hình sự BLHS : Bộ Luật hình sự CQĐT : Cơ quan điều tra KSĐT : Kiểm sát điều tra QCT : Quyền công tố THQCT : Thực hành quyền công tố VKS : Viện kiểm sát VKSND : Viện kiểm sát nhân dân XXST : Xét xử sơ thẩm MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, công bằng và nghiêm minh, với xu hướng đề cao bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và chống làm oan người vô tội góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Vì thế, trong những năm qua cùng với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh đổi mới về tổ chức và hoạt động đối với hệ thống các cơ quan tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân. Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 thì Viện kiểm sát (VKS) có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự, do vậy hoạt động của VKS là một quy trình xuyên suốt từ hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trong tố tụng hình sự Viện kiểm sát có chức năng đặc biệt quan trọng bởi lẽ quyết định truy tố của VKS (bản cáo trạng) là cơ sở pháp lý để Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm. Hầu hết các vụ án bị tuyên oan, sai, bỏ lọt tội đều có nguyên nhân từ việc không làm tốt chức năng, nhiệm vụ hoặc do nghiệp vụ còn non yếu của KSV hoặc do KSV chưa bảo đảm đúng quy trình trong xét xử sơ thẩm. Vì thế hoạt động thực hành quyền công tố trong xét xử sơ thẩm của Viện kiểm sát theo đúng quy định của pháp luật sẽ giúp cho Toà án nhân dân tuyên một bản án khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và có tính thuyết phục cao, góp phần quan trọng vào công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm và tội phạm, đồng thời hạn chế việc kháng cáo, kháng nghị lên cấp trên. Quá trình KSV căn cứ vào các quy định của pháp luật để đề nghị Toà án Nhân dân tuyên bị cáo đúng tội danh, đề nghị mức án có căn cứ pháp luật, phù hợp với hành vi mà bị cáo đã gây ra, đó chính là việc Kiểm sát viên thực hành tốt quyền công tố trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 1 Thêm vào đó, Theo quy định của Bộ luật hình sự (BLHS) và Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) Việt Nam thì xét xử là một trong những hoạt động tư pháp quan trọng của Nhà nước nhằm đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật có tính chất nguy hiểm cho xã hội có dấu hiệu tội phạm phải được đưa ra xử lý trước pháp luật. Tuy nhiên, dư luận nhân dân còn chưa hài lòng với một số phiên toà xét xử mà ở đó, Kiểm sát viên còn yếu kém về trình độ và năng lực, không nắm vững các quy định của pháp luật, thiếu tinh thần trách nhiệm nên đã xảy ra tình trạng bỏ lọt tôi phạm, đề nghị truy tố không đúng tội danh, không đúng khung hình phạt, áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không đúng pháp luật; do đó dẫn đến đề nghị mức hình phạt chưa phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo; số lượng án bị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm còn nhiều. Hậu quả của những yếu kém trên là phải cải sửa án sơ thẩm, phải huỷ án sơ thẩm để điều tra lại, xét xử lại, làm ảnh hưởng đến quyền lợi ích hợp pháp của công dân, của các tổ chức, cơ quan có liên quan, chưa làm tròn nhiệm vụ ổn định tình hình chính trị tại địa phương, cũng như ảnh hưởng đến uy tín, hoạt động của toàn ngành Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật tại Học viện khoa học xã hội, chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề quyền công tố và thực hành quyền công tố đã được đề cập ở một số sách báo và các công trình nghiên cứu như Tiến sĩ khoa học Lê Cảm có bài “Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố” (nhìn nhận từ góc độ nhà nước pháp quyền) (tạp chí chuyên ngành), Hà Nội, 2001; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học; Hà Nội, 2002; - “Tranh luận tại phiên toà sơ thẩm”, của Dương Thanh Biểu, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2007. - “Quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, TS. Lê Hữu Thể làm chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2008. 2 - Luận văn Thạc sĩ Luật học của Phạm Thị Bình (2008): “ Cơ sở lý luận và thực tiễn về THQCT của VKSND trong XX các vụ án hình sự tỉnh Thanh Hóa. - Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Thị Đông (2008): “ Chất lượng THQCT trong giai đoạn XX sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tỉnh Hà Nam”. - Luận văn Thạc sĩ Luật học của Trần Quốc Hoàn (2009): “ Ap dụng pháp luật THQCT trong giai đoạn XX sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND tinhr Nam Định”. - “Chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Giang”, Luận văn thạc sĩ Luật của Hoàng Tùng, năm 2009. - “Năng lực áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Quận Hà Đông- Thành phố hà Nội”, Luận văn thạc sĩ Luật của Nguyễn Thị Tuyết Mai, năm 2011. Ngoài các tác giả nêu trên còn có rất nhiều công trình khoa học, các bài viết của nhiều tác giả khác tập chung nghiên cứu liên quan đến các vấn đề: áp dụng pháp luật trong XX các vụ án hình sự, nâng cao chất lượng THQCT các vụ án hình sự; nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong XX và KSXX các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp… Có thể kể ra một số công trình, bài viết đó là: - Bàn về việc tranh luận của KSV tại phiên toà hình sự sơ thẩm (2007), TS. Dương Thanh Biểu, Tạp chí kiểm sát; - Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động THQCT của KSV (2007), ThS. Trần Văn Quý, Tạp chí nghiên cứu lập pháp. - Phương hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS về XX sơ thẩm các vụ án hình sự (2011), TS Đinh Văn Quế, Tạp chí Tóa án nhân dân. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Trình bày cơ sở lý luận về đánh giá đúng thực trang cũng như đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức một cách thống nhất và đầy đủ trong việc áp dụng thực hành QCT trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở thành phố Bắc Ninh, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, góp phần cùng với 3 các cơ quan tư pháp trong tỉnh bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế XHCN. 3.2. Nhiệm vụ Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: - Nghiên cứu cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Trong đó, tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò, quy trình và các yếu tố đảm bảo việc áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. - Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Kết quả đạt được (ưu điểm) và hạn chế, tìm ra những nguyên nhân hạn chế, dẫn đến những tồn tại, hạn chế của công tác này. - Đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm việc thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân tthành phố Bắc Ninh trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Nghiên cứu về hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử các vụ án sơ thẩm của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh từ năm 2012 đến năm 2016. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phương pháp phân tích, tổng hợp được tác giả sử dụng để phân tích khái quát các vấn đề lý luận cũng như đánh giá thực trạng, đề xuất giải pháp trong thực hành 4 quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, xem xét vấn đề nghiên cứu trong mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn, các quy định của pháp trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân và thực tế áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Phương pháp lịch sử đòi hỏi nghiên cứu hoạt động trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh phải đặt trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Thực trạng thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh chỉ được xem xét một cách toàn diện, đầy đủ khi đặt chúng trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Phương pháp thống kê: được sử dụng khi đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả cũng sử dụng phương pháp so sánh, phương pháp khảo sát thực tế. 6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh. Luận văn đã góp phần nghiên cứu những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận của lĩnh vực này. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các Trường Đại học chuyên ngành luật và không chuyên ngành luật, hệ thống các trường chính trị của Đảng. Kết quả nghiên cứu luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các Điều tra viên, Kiểm sát viên trong Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhất là những Kiểm sát viên trực tiếp làm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự để nâng cao trình độ lý luận và thao tác chuyên môn. 5 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo Luận văn gồm 3 chương Chương 1. Lý luận và pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân Chương 2. Thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh Chương 3. Quan điểm và một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng thực hiện quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. 6 Chương 1 LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ TRONG GIAI ĐOẠN XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN 1.1. Khái niệm quyền công tố Quyền công tố cũng như các chế định pháp luật khác, là một phạm trù lịch sử, là sản phẩm của xã hội loài người phát triển đến một giai đoạn nhất định, nó xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước. Trên thế giới, do có sự khác biệt về mặt thể chế chính trị, điều kiện lịch sử, truyền thống văn hoá…nên chế định quyền công tố cũng có sự khác biệt trong cơ chế vận hành, nhưng quá trình diễn biến của nó đều thể hiện rõ quy luật tất yếu chung của sự phát triển lịch sử. Đó là, quyền công tố luôn gắn liền với bản chất của Nhà nước, là một bộ phận cấu thành và không tách rời khỏi công quyền. "Công tố" theo Đại từ điển tiếng Việt, "công" có nghĩa là "thuộc về Nhà nước, tập thể, trái với tư", còn "tố" có nghĩa là "nói về những sai phạm tội lỗi của người khác một cách công khai trước người có thẩm quyền hoặc trước nhiều người", "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Toà án" [17, tr.453, 459, 1663]. Như vậy, công tố có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự. Bất kỳ Nhà nước nào cũng hết sức quan tâm đến lĩnh vực hình sự, khi một hành vi bị coi là tội phạm được thực hiện sẽ làm phát sinh một quan hệ pháp luật giữa một bên là Nhà nước và bên kia là người phạm tội. Trong mối quan hệ này, Nhà nước là chủ thể quyền lực (quyền lực công), là người thực hiện sự buộc tội, đối tượng bị Nhà nước cáo buộc là người đã thực hiện hành vi tội phạm. Công tố, vì thế được hiểu hành vi bị coi là tội phạm trước Toà án. Ở Việt Nam, quyền công tố và thực hành quyền công tố được nhắc đến nhiều khi đề cập đến chức năng của Viện Kiểm sát các cấp. Thuật ngữ "thực hành quyền công tố" được đưa ra trong Hiến pháp 2013 (Điều 138 Hiến pháp 2013) và được nhắc lại ở Điều 1, Điều 3 Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân, bên cạnh khái niệm truyền thống "kiểm sát việc tuân theo pháp luật" đã xuất hiện khái niệm "quyền công tố" và 7 "thực hành quyền công tố". Có nhiều quan điểm khác nhau về nội dung, lĩnh vực, phạm vi chủ thể tham gia thực hành quyền công tố. Nhưng về nội dung và phạm vi thực hành quyền công tố là những yếu tố không thể thay đổi ở bất kỳ quốc gia nào. Có thể khái quát một số quan điểm chính sau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, "Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho Viện kiểm sát truy tố người phạm tội ra Toà án, thực hiện sự buộc tội tại phiên toà (thực hiện quyền công tố)" [38]. Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật bao gồm vi phạm hành chính, vi phạm pháp luật dân sự, luật kinh tế, luật hình sự và là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó. Quan điểm thứ ba cho rằng, "quyền công tố là quyền Nhà nước giao cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội" [30, tr.380]. Quan điểm thứ tư cho rằng, "quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa các vụ việc vi phạm pháp luật ra Toà án để xét xử nhằm bảo vệ lợi ích nhà nước, xã hội, công dân, bảo vệ trật tự pháp luật" [40, tr.84-87]. Quan điểm thứ năm cho rằng, "quyền công tố là quyền của Nhà nước, được Nhà nươc giao cho một cơ quan (ở Việt Nam là cơ quan Viện kiểm sát) thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Để làm được điều này, cơ quan công tố có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng từ để xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó truy tố bị can ra trước Toà án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toàn" [38, tr.40]. Theo quan điểm này, quyền công tố là quyền buộc tội nhân danh nhà nước đối với người phạm tội. Quyền công tố chỉ được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật đã gắn liền không thể tách với việc nhân danh nhà nước chống lại hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm), đó là lĩnh vực tố tụng hình sự. Do vậy, quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự mà không có trong các lĩnh vực khác. Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có nhiều quan điểm khác nhau, mỗi quan điểm trong đó có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng bộc lộ những bất cập nhất định, hạn chế là không phân định rõ ràng khái niệm, bản chất, nội dung, 8 phạm vi quyền công tố, hoạt động thực hành quyền công tố và hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nên coi quyền công tố chỉ là quyền năng của Viện kiểm sát trong kiểm sát việc tuân theo pháp luật, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyền công tố là một hoạt động độc lập nhân danh quyền lực công. Với nhận thức của mình, tác giả ủng hộ quan điểm thứ năm nêu trên về khái niệm quyền công tố, bởi các lý do sau đây: Thứ nhất, tác giả nhận thấy quan điểm này đã khẳng định được quyền công tố là quyền của Nhà nước, nhân danh nhà nước để buộc tội đối với người có hành vi vi phạm mà pháp luật hình sự coi là tội phạm xâm hại trật tự chung của xã hội và nó chỉ có trong lĩnh vực hình sự. Quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm truyền thống nghiên cứu của lịch sử nhà nước và pháp luật về quyền công tố. Thứ hai, quan điểm này cũng thừa nhận quyền công tố gắn liền với quyền tài phán của toà án. Đó là quyền truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra toà và bảo vệ sự buộc tội trước phiên toà. Tuy nhiên, cũng cần nhận thức rằng, không có nghĩa cứ phải đưa được người phạm tội ra toà mới là thực hành quyền công tố. Trên thực tế, quyền công tố có thể bị triệt tiêu bất cứ lúc nào khi sự việc là đối tượng tác động của quyền công tố có đủ căn cứ để triệt tiêu. Thứ ba, quan điểm cũng thừa nhận quyền công tố chỉ có thể do một cơ quan thực hiện và độc lập với cơ quan tài phán (ở Việt Nam thực hiện quyền này là Viện kiểm sát). Thứ tư, quan điểm này cũng phù hợp với quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Từ những phân tích như trên tác giả xin đưa ra khái niệm quyền công tố: Quyền công tố là quyền của nhà nước giao cho Viện kiểm sát thực hiện các quyền năng theo quy định của pháp luật để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội, trên cơ sở bảo đảm việc thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội. Hiến pháp năm 2013, điều 109 cũng nói thêm “Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.” 9 1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Khi nghiên cứu chức năng của VKS chúng ta hay đề cập đến khái niệm thực hành quyền công tố. Có quan điểm cho rằng: "Thực hành quyền công tố là việc thực hiện các hoạt động tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó". - Quyền công tố là quyền lực công, xuất hiện và gắn liền với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật. - Công tố là quyền lực thuộc về Nhà nước, là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm. - Bản chất của tố tụng hình sự là hoạt động của các cơ tiến hành tố tụng trong việc phát hiện, xác định và xử lý chủ thể thực hiện hành vi phạm tội được thể hiện ở ba chức năng chính là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa (gỡ tội) và chức năng xét xử. Như vậy: "THQCT là hoạt động của VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, khởi tố và trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử". 1.1.2. Khái niệm thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân Hiện nay, vấn đề QCT và THQCT còn có nhiều quan điểm của các nhà khoa học khác nhau, các quan điểm đó cũng đều có những hạt nhân hợp lý. Ngay cả những người đang tiến hàng tố tụng cũng còn nhiều nhầm lẫn giữa QCT và THQCT cho rằng là một, nhưng đây là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau nhưng có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Trong khoa học luật, việc xác định QCT và THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất quan trọng. Điều đó giúp cho việc chính xác vai trò, vị trí của VKS trong hệ thống cơ quan Nhà nước nói chung và trong các cơ quan tư pháp nói riêng; xác định rõ chức năng của VKS để từ đó có những quyết định đúng đắn về tổ chức VKSND các cấp. Điều này đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi nước ta 10 đang đẩy mạnh thực hiện các Nghị quyết của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói riêng. Như đã trình bày ở phần trên, tác giả luận văn tán thành với quan điểm cho rằng QCT là quyền của Nhà nước giao cho VKS thực hiện nhằm truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Đây là quyền chỉ có trong lĩnh vực TTHS, bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật hoặc khi có quyết định đình chỉ vụ án theo quy định của pháp luật. Theo đó, Nhà nước đã xây dựng các thiết chế, các cơ chế để đảm bảo thực hiện QCT, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT. Như vậy, có thể thấy QCT là quyền lực Nhà nước, còn THQCT là cách thức Nhà nước tổ chức thực hiện quyền lực ấy. Việc tổ chức THQCT được quy định rất khác nhau ở mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử, tuỳ thuộc vào bản chất chế độ chính trị, điều kiện và hoàn cảnh của từng nước. Song thực tế ở nước ta, theo quy định của pháp luật hiện hành và chủ trương của Đảng, Nhà nước về cải cách tư pháp, chức năng THQCT chính thức được giao cho hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, đó là VKSND - Cơ quan duy nhất THQCT. Tuy vậy, việc phát động QCT cũng có cả ở cơ quan điều tra nhưng chỉ có hiệu lực khi các quyết định khởi tố của cơ quan điều tra được VKS phê chuẩn. Nếu các quyết định của cơ quan điều tra không có căn cứ hoặc trái pháp luật thì VKS có quyền hủy bỏ các quyết định này. Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm hoặc người phạm tội mới thì Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố vụ án hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự nhưng quyết định đó phải được gửi cho VKS xem xét, nếu không có căn cứ thì VKS sẽ kháng nghị lên cơ quan cấp trên. Theo đó, về mặt pháp lý chỉ có VKS là cơ quan có quyền độc lập phát động QCT mà không phải chịu sự can thiệp của bất cứ cơ quan nhà nước nào và THQCT là chức năng Hiến định mà không cơ quan nhà nước nào làm thay VKS, cố Tổng Bí thư Trường Chinh đã khẳng định: “Không có cơ quan nhà nước nào thay thế ngành Kiểm sát để sử dụng QCT. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là VKS phải trông nom, bảo đảm làm tốt [42, tr.38] 11 Từ những phân tích trên, có thể đi đến khái niệm THQCT trong giai đoạn xét xử là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung QCT của VKS để truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Phạm vi: Công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử bắt đầu từ khi Viện kiểm sát ra bản cáo trạng, quyết định truy tố (với vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn) đến khi có Bản án, quyết định của Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội thì kháng nghị cấp trên. Ý nghĩa: Quyền năng này được thể hiện qua các hình thức: văn bản pháp luật cá biệt có tính “mệnh lệnh” - quyết định; biên bản; công văn; hành vi và lời nói của Kiểm sát viên. Ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền hiện nay, đòi hỏi phải đề cao vai trò của hoạt động áp dụng pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp. Việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn sẽ tạo ra cơ chế đồng bộ bảo đảm trật tự kỷ cương, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội. Thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân là hoạt động phức tạp. Trên cơ sở những quyền năng pháp lý mà pháp luật trao cho ngành kiểm sát nói chung và những vụ án thuộc thẩm quyền truy tố, xét xử của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố nói riêng để thực hành quyền công tố các vụ án thuộc thẩm quyền. Việc ban hành các văn bản áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, thành phố khi thực hành quyền công tố các vụ án thuộc thẩm quyền có giá trị bắt buộc thi hành không chỉ đối với người tham gia tố tụng và đối với cả những người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất có quyền luận tội bị cáo tại phiên toà, đề xuất hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Vì vậy, việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo đảm cho hoạt động 12 truy tố và xét xử các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền xét xử sơ thẩm được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. THQCT ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự là một dạng hoạt động áp dụng pháp luật nói chung. Vì vậy, nó cũng tuân theo các quy trình chung và được thực hiện qua những giai đoạn sau: - Giai đoạn thứ nhất: Nghiên cứu hồ sơ vụ án, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý do cơ quan có thẩm quyền ở giai đoạn điều tra, truy tố cung cấp. Đây là khâu đầu tiên, có ý nghĩa rất quan trọng đến quá trình thực hành quyền công tố ở giai đoạn XXST các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của Kiểm sát viên khi được phân công thực hành quyền công tố vụ án hình sự. Chỉ có nghiên cứu hồ sơ, nắm vững nội dung vụ án để đưa ra các Yêu cầu điều tra chính xác, đầy đủ cho Điều tra viên thì Kiểm sát viên mới có đầy đủ căn cứ để thể hoàn thành việc buộc tội bị cáo tại phiên toà. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá các tình tiết cụ thể của nó để xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do đối tượng đã gây ra như: Có hành vi phạm tội hay không? Hành vi đó ở mức độ nào (đủ điều kiện để khởi tố chưa)? Năng lực chịu trách nhiệm hình sự (đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự chưa)? Xảy ra ở đâu? Khi nào? Ai là người thực hiện? Công cụ phương tiện phạm tội? Nhân thân? Trình tự, thủ tục thu thập tài liệu chứng cứ; Các chứng cứ buộc tội, các chứng cứ gỡ tội, những vấn đề còn mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án; Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo; Vật chứng của vụ án cần xử lý… Khi nghiên cứu hồ sơ vụ án nói chung và nhất là các vụ án xét xử sơ thẩm ở cấp thành phố nói riêng cũng có nhiều vụ án phức tạp, khung hình phạt cao, có khi có nhiều bị cáo, Kiểm sát viên phải trích cứu những tài liệu quan trọng được sử dụng làm chứng cứ buộc tội, nhất là bản tường trình, biên bản ghi lời khai của bị can, bị cáo, người bị hại, người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác. Việc trích cứu này giúp Kiểm sát viên nắm chắc thêm quá trình diễn biến của vụ án và làm cơ sở khi đấu tranh với bị cáo trong trường hợp bị cáo có thái độ khai báo quanh co, chối tội tại phiên toà. Tài liệu cần phải sắp xếp khoa học theo từng tập, có viện dẫn bút lục trong 13 hồ sơ để dễ tra cứu khi cần thiết. Tránh tình trạng lười ghi chép, chỉ photocoppy lại các biên bản lời khai, không chịu nghiên cứu. Làm như vậy, tất yếu sẽ dẫn đến thiếu chủ động, lúng túng, nhất là khi gặp trường hợp tại phiên tòa bị cáo hoặc người bào chữa đưa ra những lý lẽ trái ngược với lời buộc tội của Kiểm sát viên. Đối với những chứng cứ quan trọng, như biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định… cần phải sao chụp để sử dụng tại phiên toà. Khi nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị cho việc tham gia xét xử vụ án hình sự, Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án cần đi phúc cung đối với bị cáo còn đối với những vụ án có diễn biến phức tạp… thì Kiểm sát viên cần báo cáo lãnh đạo có thể hỏi lại người bị hại, nhân chứng để cúng cố chứng cứ đảm bảo việc buộc tội bị cáo chắc chắn, để đảm bảo Kiểm sát viên cũng cần chủ động xem xét tận nơi xảy ra vụ án (hiện trường) hoặc xem lại vật chứng, dấu vết. Nếu không nắm vững hồ sơ, thì đề cương xét hỏi tại phiên toà sẽ không chuẩn xác, không có cơ sở để tranh luận; chất lượng tham gia xét hỏi của Kiểm sát viên sẽ không đạt yêu cầu dẫn đến việc đề nghị áp dụng pháp luật về đường lối giải quyết và đưa ra bản luận tội của vụ án sẽ không chính xác. Ngoài việc nghiên cứu các chứng cứ buộc tội thì Kiểm sát viên thụ lý vụ án đó phải nghiên cứu các chứng cứ gỡ tội cho bị cáo, xem xét các chứng cứ buộc tội thu thập có đảm bảo đúng theo các quy định của pháp luật hay không? Như vậy, việc nghiên cứu hồ sơ chuẩn bị thực hành quyền công tố tại phiên toà là giai đoạn khởi đầu hết sức quan trọng của quá trình giải quyết vụ án, nó có ý nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ của Kiểm sát viên tại phiên toà. Nếu chuẩn bị tốt ở giai đoạn này, Kiểm sát viên có điều kiện chủ động, tự tin tiến hành hoạt động tố tụng tiếp theo. Việc nghiên cứu hồ sơ ở mỗi vụ án có đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào từng vụ án cụ thể mà Kiểm sát viên có phương pháp nghiên cứu phù hợp. Từ kết quả nghiên cứu định hướng cho Kiểm sát viên có những quyết định nhạy bén và đúng đắn tại phiên tòa. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án ban đầu có một ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo cho việc ra quyết định áp dụng pháp luật của Viện kiểm sát đảm bảo đúng pháp luật, việc giải quyết vụ án hình sự được tuân thỉ theo đúng quy định của pháp luật. 14 - Giai đoạn thứ hai: Xem xét, dẫn nguồn, lựa chọn các quy phạm pháp luật để áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố giai đoạn XXST các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân. Giai đoạn này được thực hiện dựa trên ý thức pháp luật, trình độ hiểu biết, kiến thức pháp luật của Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND. Kiểm sát viên có thẩm quyền áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân cần phải xem xét, đánh giá đầy đủ sự kiện pháp lý đã xảy ra, những công việc đã xử lý ở giai đoạn điều tra, đề xuất của Cơ quan điều tra về quan điểm áp dụng pháp luật để xử lý vụ án, quyết định truy tố người phạm tội để xét xử ở Toà án có đúng thẩm quyền hay không, đồng thời phải nghiên cứu, xem xét các quy định pháp luật áp dụng để xử lý vụ án. Để từ đó xác định nội dung quy phạm được áp dụng, phạm vi quy phạm pháp luật được áp dụng trong hoạt động thực hành quyền công tố xét xử các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Muốn làm được điều đó, đòi hỏi Kiểm sát viên áp dụng pháp luật phải tiến hành giải thích quy phạm pháp luật; phải làm sáng tỏ tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của quy phạm pháp luật được lựa chọn. Lựa chọn quy phạm pháp luật đúng là yêu cầu quan trọng để quyết định áp dụng pháp luật sẽ chính xác. Tóm lại, giai đoạn áp dụng pháp luật này cần đòi hỏi phải lựa chọn đúng quy phạm pháp luật được trù tính cho trường hợp đó; quy phạm pháp luật áp dụng phải là quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và không mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật khác; xác định tính chân chính của văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng quy phạm này; nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng của quy phạm pháp luật. - Giai đoạn thứ ba : Ban hành quyết định áp dụng pháp luật. Ban hành quyết định áp dụng pháp luật trong giai đoạn này là việc Viện kiểm sát nhân dân ra các quyết định về đường lối giải quyết vụ án, đề nghị Toà án quyết định tội phạm và hình phạt cụ thể đối với từng bị cáo và bảo vệ cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát. Đây là giai đoạn quan trọng nhất của cả quá trình áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của VKSND. Tuy nhiên, đây là dạng ADPL đặc thù nên quyết định ADPL của Viện kiểm 15 sát nhân dân trong giai đoạn này thường là trực tiếp bằng lời nói trong bản luận tội đối với bị cáo tại phiên toà. Quyết định về đường lối giải quyết vụ án như tội phạm, hình phạt, xử lý vật chứng, bồi thường thiệt hại,…. được công bố sau khi đã xem xét, đối chiếu một cách thận trọng, khách quan với toàn bộ những tài liệu, chứng cứ đã được thu thập trong hồ sơ vụ án; các tình tiết, chứng cứ đã được điều tra công khai tại phiên toà, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đây là giai đoạn trọng tâm của hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân, hội tụ kết quả của các giai đoạn trước đó, là kết quả áp dụng các quy định của pháp luật vào vụ án, bị cáo cụ thể để đề ra các quyết định chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. - Giai đoạn thứ tư: Tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật. Việc tổ chức thực hiện quyết định áp dụng pháp luật là giai đoạn cuối cùng của quá trình áp dụng pháp luật. Khác với các quyết định áp dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước khác, quyết định áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân được thi hành ngay mà mặc nhiên không phải triển khai các biện pháp tổ chức thi hành. Chẳng hạn khi Viện kiểm sát rút toàn bộ cáo trạng trước khi mở phiên toà thì vụ án phải đình chỉ theo quy định tại Điều 108 Bộ luật tố tụng hình sự, Thẩm phán ra quyết định đình chỉ vụ án khi Viện kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà. 1.2. Những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự - Trước khi mở phiên tòa sơ thẩm Sau khi kết thúc điều tra, nếu xác định có tội phạm và cần phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Cơ quan điều tra phải làm bản kết luận điều tra. Trường hợp vụ án giải quyết theo thủ tục rút gọn, khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra (quyết định đề nghị truy tố) cùng toàn bộ hồ sơ vụ án phải được chuyển sang VKS để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền (Điều 162 BLTTHS 2003). Trong thời hạn không quá hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu vừa đăng