Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm...

Tài liệu Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm

.PDF
120
423
122

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HÀ GIANG THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2011 1 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT NGUYỄN HÀ GIANG THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM Chuyên ngành : Luật dân sự Mã số : 60 38 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thu Hà HÀ NỘI - 2011 2 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH 7 LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM 1.1. Khái quát chung về phiên tòa dân sự sơ thẩm 7 1.2. Thủ tục hỏi và tranh luận những phần không thể thiếu của phiên toà dân sự sơ thẩm 14 1.2.1. Nhận thức chung về thủ tục hỏi tại phiên toà dân sự sơ thẩm 16 1.2.2. Nhận thức chung về thủ tục tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm 21 1.3. Các nguyên tắc của việc hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm 27 1.3.1. Các nguyên tắc xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 27 1.3.2. Các nguyên tắc không thể thiếu của thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm 30 Chương 2: 37 THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT 3 TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2004 2.1. Thủ tục hỏi tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 40 2.2. Thủ tục tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 65 Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO 83 CHẤT LƢỢNG THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM 3.1. Thực tiễn áp dụng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 83 3.1.1. Những ưu điểm và hạn chế của thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa dân sự sơ thẩm 83 3.1.1.1. Những ưu điểm của quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng 84 3.1.1.2. Những tồn tại, hạn chế của pháp luật và thực tiễn áp dụng 87 3.1.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong thực tiễn áp dụng quy định về hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm 93 3.1.2.1. Một số quy định của pháp luật chưa hợp lý và đáp ứng yêu cầu khách quan 93 3.1.2.2. Số lượng, chất lượng của đội ngũ Thẩm phán chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mới 94 3.1.2.3. Những hạn chế, bất cập trong chế định Hội thẩm nhân dân 96 3.1.2.4. Những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của ngành tòa án nhân dân 97 3.2. Những bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm 99 3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự nói chung và phiên tòa sơ thẩm dân sự nói riêng 99 3.2.2. Nâng cao trình độ nhận thức, chuyên môn nghiệp vụ của thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Luật sư 103 3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật cho quần chúng nhân dân 106 4 3.2.4. Bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt động xét xử 108 KẾT LUẬN 110 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 112 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX : Hội đồng xét xử PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TTDS : Tố tụng dân sự 5 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Trong điều kiện nền kinh tế - xã hội nước ta hiện nay, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng dân sự (TTDS) nói riêng là một nhu cầu khách quan nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc dân sự đang ngày càng gia tăng cả về số lượng cũng như tính chất phức tạp của từng loại vụ việc, nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án, bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) 2004 ra đời thay thế các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) 1989, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động 1996 là sự phát triển có tính bước ngoặt đối với ngành luật TTDS Việt Nam. Bộ luật quy định khá đầy đủ và toàn diện các nguyên tắc cơ bản trong TTDS; trình tự thủ tục khởi kiện các vụ án dân sự; trình tự thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan và người tiến hành tố tụng cũng như quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tố tụng. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị "Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" đã đánh giá về tình hình công tác tư pháp trong những năm vừa qua ở nước ta là: Công tác tư pháp đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, 6 công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới... Tuy nhiên, chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp [6]. Chính sách hình sự, chế định về pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung..., nhiệm vụ cải cách tư pháp đang đứng trước nhiều thách thức… các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động… có chiều hướng tăng về số lượng và phức tạp, đa dạng hơn [8]. Để có những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết đã đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian đến năm 2020, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: …Bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định [6]. "Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" [8]. 7 Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án nói chung, vụ án dân sự nói riêng. Một vụ án có thể tiến hành bằng một giai đoạn xét xử sơ thẩm nhưng cũng có thể phải tiến hành tiếp qua các giai đoạn xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên xét xử sơ thẩm vụ án dân sự đóng một vai trò hết sức quan trọng, bởi lẽ lần đầu tiên vụ án được đưa ra xét xử công khai, qua việc hỏi và tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là gì? điều luật nào được áp dụng? Tính hợp pháp của các chứng cứ, quá trình xác minh thu thập chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác có vi phạm thủ tục tố tụng hay không... việc tuân thủ chặt chẽ các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên toà, đặc biệt là thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm sẽ bảo đảm cho công tác xét xử được chính xác, toàn diện, khách quan, phát huy được tính phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật của công tác xét xử nói chung và của phiên toà nói riêng. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nếu Toà án ra bản án đúng pháp luật thì không phát sinh việc kháng cáo, kháng nghị, không có việc xét xử lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Điều đó tạo được tính ổn định nhanh chóng của bản án, tiết kiệm được thời gian, công sức cũng như tài sản của nhà nước và công dân. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan cũng như nguyên nhân chủ quan, hiện tượng vi phạm các quy định về thủ tục tố tụng tại phiên toà vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Việc hỏi tại phiên toà còn phiến diện, không đầy đủ, tranh luận giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác chưa thật sự dân chủ và bình đẳng. Hậu quả là có việc xét xử sai, gây thiệt hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp. Để khắc phục tình trạng nói trên, trên cơ sở quán triệt tinh thần Nghị quyết 08-NQ/TW về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời 8 gian tới" và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020"của Bộ Chính trị để thực hiện tốt công cuộc cải cách tư pháp đang được triển khai sâu rộng trên cả nước, với nhiệm vụ: Đổi mới việc tổ chức các phiên toà xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp [8]. thì việc nghiên cứu để bổ sung cho lý luận về thủ tục tố tụng tại phiên toà sơ thẩm xét xử các vụ án dân sự, góp phần khắc phục các nguyên nhân làm phát sinh các vi phạm thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm, nâng cao hiệu quả và chất lượng của phiên toà dân sự sơ thẩm là một trong những vấn đề quan trọng và cần thiết. Vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài "Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm" làm luận văn Thạc sĩ luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Đề tài này đã được một số chuyên gia nghiên cứu về luật dân sự Việt Nam, các luật gia, các thẩm phán có nhiều năm làm công tác xét xử đề cập đến như: PGS.TS Trần Văn Độ với bài: Bản chất của tranh tụng tại phiên toà, (Báo Lịch sử pháp luật, tháng 8/2008), Luật sư Nguyễn Văn Chiến với bài: Nâng cao kỹ năng tranh tụng của Luật sư Việt Nam bên thềm hội nhập, (báo Quản trị tháng 8/2008), Luận văn thạc sĩ Luật học: Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự Việt Nam, của Lê Thị Hà; Luận văn thạc sĩ Luật học: Thủ tục tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - Cơ sở lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Thị Thu Hà... Tuy nhiên những bài viết và các công trình nghiên cứu này chưa làm rõ được trình tự, thủ tục và vị trí vai trò của HĐXX, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đương sự, kiểm sát viên... trong quá trình hỏi 9 và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. Phạm vi nghiên cứu ở góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng các quy định về thủ tục này chưa có tác giả nào đề cập một cách toàn diện. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: Làm rõ chủ thể, phạm vi, trình tự, thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. Nhiệm vụ: - Làm rõ nội dung, mục đích, ý nghĩa của các nguyên tắc thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. - Nghiên cứu các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam và thực tiễn áp dụng, từ đó chỉ ra những bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. 4. Phạm vi của đề tài Đề tài này chỉ nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm và những bảo đảm nâng cao chất lượng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giải quyết các tranh chấp dân sự và cải cách tư pháp trong tình hình mới. Học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về tổ chức bộ máy nhà nước và những thành tựu của khoa học pháp lý thế giới và Việt Nam. 10 Phương pháp nghiên cứu luận văn dựa vào chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề chung về thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. Chương 2: Thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004. Chương 3: Thực tiễn áp dụng và các giải pháp nâng cao chất lượng thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên toà dân sự sơ thẩm. 11 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN TẠI PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHIÊN TÒA DÂN SỰ SƠ THẨM Trong tình hình đất nước ngày càng phát triển như hiện nay, đời sống dân sự cũng ngày càng phát triển và các mối quan hệ xã hội ngày càng đa dạng, phức tạp, giao lưu kinh tế, xã hội rộng mở tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện về mọi mặt. Nhưng đồng hành với nó là các tranh chấp dân sự, kinh doanh thương mại, hôn nhân gia đình, lao động trong đời sống xã hội ngày càng nảy sinh nhiều hơn, đa dạng hơn, phức tạp hơn nên đòi hỏi Nhà nước phải nỗ lực hơn nữa trong việc duy trì sự ổn định xã hội, giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân, cơ quan, tổ chức với nhau trong quá trình giao lưu dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ cũng như bảo vệ chính sách pháp luật của Nhà nước. Để đáp ứng được yêu cầu này đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng được một hệ thống các cơ quan tư pháp mạnh, hệ thống pháp luật phù hợp, bảo đảm sự bình đẳng, dân chủ của các cá nhân, cơ quan, tổ chức trước pháp luật. Chế định phiên tòa sơ thẩm dân sự bao gồm các quy định về trình tự, thủ tục tại phiên tòa sơ thẩm. Sau khi tòa án thụ lý đơn khởi kiện để giải quyết yêu cầu của đương sự, nếu vụ án buộc phải đưa ra xét xử thì tòa án mở phiên tòa sơ thẩm để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Tất cả các tranh chấp dân sự nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải trải qua quá trình xét xử tại phiên tòa sơ thẩm dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự có mặt đầy đủ những người tiến hành tố tụng, các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác. Các chủ thể tham gia phiên tòa có tư cách tố tụng khác nhau và có các quyền và nghĩa vụ tố tụng độc lập. HĐXX đảm bảo cho việc xét xử diễn ra theo đúng tố tụng đồng thời tiến hành hoạt động áp dụng pháp luật xác định nội dung 12 quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự cũng như giải quyết triệt để các vấn đề khác của vụ án. Các đương sự thực hiện hoạt động chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của mình, thuyết phục HĐXX đưa ra phán quyết có lợi cho họ. Những người tham gia tố tụng khác có trách nhiệm giúp cho HĐXX tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Để có một phán quyết cuối cùng công bằng và thuyết phục, mọi diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm dân sự phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ được quy định trong pháp luật TTDS. Phiên tòa sơ thẩm dân sự được xét xử công khai, mọi người đều có quyền tham dự phiên tòa trừ một số trường hợp phải xét xử kín theo luật định như trong trường hợp cần giữ bí mật nhà nước, giữ gìn thuần phong mỹ tục, bí mật đời tư, bí mật kinh doanh… nhưng phải tuyên án công khai. Từ những phân tích trên đây, có khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự như sau: Phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự là hình thức tổ chức hoạt động xét xử vụ án lần đầu của tòa án, do Tòa án có thẩm quyền thực hiện theo một trình tự, thủ tục nhất định. Hoạt động xét xử là khâu trọng yếu nhất của toàn bộ quá trình tố tụng, là hoạt động của các cơ quan và cá nhân được quyền căn cứ vào pháp luật để kết luận, đánh giá những vấn đề pháp lý và đưa ra những quyết định có tính bắt buộc. Hoạt động xét xử các vụ án dân sự là hoạt động đặc trưng của Toà án, do pháp luật quy định theo một thủ tục tố tụng đặc biệt - thủ tục TTDS. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên phụ thuộc vào phán quyết của tòa án dựa trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ, kết quả của việc hỏi và tranh luận tại phiên tòa cũng như hoạt động áp dụng pháp luật của HĐXX. Nếu trong quá trình hòa giải, tòa án chỉ giải quyết những vấn đề thuộc phạm vi tranh chấp giữa các đương sự thì việc xét xử tại phiên tòa phải xem xét toàn bộ các vấn đề của vụ án. Ngoài việc xác định nội dung quyền và nghĩa vụ dân sự cho các bên đương sự, tòa án còn giải quyết các vấn đề khác liên quan đến vụ án. 13 Xét xử là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tại giai đoạn này, HĐXX với tư cách là người tiến hành tố tụng giải quyết những vấn đề về bản chất của vụ án bao gồm: quan hệ pháp luật tranh chấp là gì? Điều luật nào được áp dụng để giải quyết? nguyên nhân của việc tranh chấp, lỗi thuộc về phía nào? Tính hợp pháp của các chứng cứ, quá trình xác minh thu thập chứng cứ và các hoạt động tố tụng khác có vi phạm thủ tục tố tụng hay không. Nghiên cứu lịch sử tố tụng dân sự nước ta, các quy định về phiên tòa dân sự sơ thẩm thì thấy tại Sắc lệnh số 13 ngày 24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán đã có những quy định đầu tiên về phiên tòa dân sự. Theo Giáo trình luật tố tụng dân sự, "Lịch sử tố tụng dân sự tại tòa bắt đầu từ ngày 24/1/1946" [12]. Đây được coi là văn bản đầu tiên chứa đựng các quy phạm TTDS của nước ta. Văn bản này đã có các quy định về người tiến hành tố tụng, nghị án và tuyên án và cách thức tổ chức một phiên tòa, chẳng hạn như Điều 10 quy định: "Tại phiên tòa Thẩm phán xét xử một mình, lục sự giữ bút ký lập biên bản từ"; Điều 10 khoản 2: "Thẩm phán sơ cấp có thể ngày nào cũng xử kiện, dù là ngày chủ nhật. lại có thể nếu cần đến mở phiên tòa ngoài trụ sở của tòa án, ở nơi cách xa tòa án". Quy định về trách nhiệm của Thẩm phán trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các đương sự: "Thẩm phán không được tự đặt ra lệ mà xử đoán" (Điều 81); "Các Thẩm phán phải làm đầy đủ bổn phận, dự đều các phiên tòa, xét xử thật nhanh chóng và thật công minh. Thanh liêm là đức tính thiêng liêng của Thẩm phán" (Điều 83). Bên cạnh các quy định tiến bộ đó, Sắc lệnh 51 ngày 17/4/1946 có quy định: "Khi ra phiên tòa… bên bị cùng bên dân sự nguyên cáo có quyền yêu cầu Tòa án thi hành phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật" (Điều 26). Điều 17 sắc lệnh số 51/ST ngày 17/4/1946 về ấn định thẩm quyền các Toà án và sự phân công giữa các nhân viên trong toà quy định: "Ông Chánh án chủ toạ những phiên toà công khai... ông có nhiệm vụ điều khiển cuộc thẩm vấn và bảo vệ trật tự phiên toà". Đến Sắc lệnh số 69 ngày 18/6/1949, quyền bào chữa cho các đương sự được mở rộng. Điều 1 Sắc lệnh này quy định: "Trước các Tòa án xử việc hộ và thương mại, trước các Tòa án thường và Tòa 14 án đặc biệt xử việc tiểu hình, đại hình, trừ Tòa án binh tại mặt trận, nguyên cáo, bị cáo và bị can có thể nhờ một công dân không phải là Luật sư bênh vực cho mình. Công dân đó phải được ông Chánh án thừa nhận". Tiếp tục xây dựng bộ máy tư pháp và pháp luật tố tụng, Sắc lệnh 85 ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng ra đời đã có những quy định mới liên quan đến phiên tòa sơ thẩm dân sự, theo đó "Ban tư pháp xã có quyền xử chung thẩm những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn từ 300 đồng trở xuống" và có quyền "xử sơ thẩm những việc đòi bồi thường hoặc bồi hoàn quá 300 đ do người bị thiệt hại thỉnh cầu trong đơn kiện hay lúc xét xử" (Điều 7) . Ngoài ra, Sắc lệnh này đã quy định Hội thẩm nhân dân tham gia việc xét xử, được nghiên cứu hồ sơ và ngang quyền với Thẩm phán khi xét xử; thành phần HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Quy định Luật sư được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi cho đương sự. Về sau các văn bản liên quan đến TTDS ngày càng trú trọng và quy định chi tiết hơn về phiên tòa dân sự sơ thẩm để việc tiến hành được thuận lợi và thống nhất như Thông tư 16-TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) lần đầu tiên đã khái quát được trình tự xét xử tại phiên tòa: Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ bảo đảm việc xét hỏi, tranh luận và giữ gìn trật tự tại phiên tòa. Hội đồng xử án có nhiệm vụ quyết định mọi vấn đề về nội dung cũng như về thủ tục tố tụng trong phiên tòa. Đối với những vấn đề đơn giản không cần phải thảo luận lâu thì Hội đồng xử án trao đổi và quyết định ngay tại phiên tòa, nhưng nếu việc trao đổi đòi hỏi mất nhiều thời gian, hoặc trao đổi để nghị án thì Hội đồng xử án phải vào phòng nghị án [31]. Tiếp đó là Bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo Thông tư số 96 ngày 8/2/1977 của TANDTC rồi đến văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn và được áp dụng trong một thời gian dài là Pháp lệnh PLTTGQCVADS, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh 15 thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động và các văn bản hướng dẫn của TANDTC… và hiện nay là BLTTDS năm 2004 - Bộ luật đầu tiên về TTDS của nước ta. Nghiên cứu PLTTGQCVADS ta thấy các quy định về phiên tòa sơ thẩm đã phát triển thành một chế định độc lập và là bộ phận quan trọng của một văn bản pháp luật chuyên ngành có tính ổn định cao. Các quy định này là cơ sở pháp lý giúp cho hoạt động xét xử của tòa án đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, chế định phiên tòa sơ thẩm nói chung còn bộc lộ những hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp, sơ sài về nội dung điều luật: Chỉ bao hàm được các quy định chung nhất vừa cô đọng, vừa chưa điều chỉnh hết được những hoạt động trong tố tụng dân sự cụ thể, nhất là vào thời kỳ hiện nay, khi mà đời sống dân sự đã thực sự có những chuyển động đa dạng, phức tạp do ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường [34, tr. 45] Văn bản này còn thể hiện nhiều hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của đòi hỏi xã hội, cũng như trình độ pháp lý trong giai đoạn này. Nó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình giải quyết các tranh chấp dân sự, cũng như thể hiện mô hình tố tụng thẩm vấn một cách đậm nét mà ở đó Tòa án đóng vai trò là cơ quan điều tra trong TTDS, yếu tố tranh tụng rất mờ nhạt, sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ tố tụng không rõ nét . Sự ra đời của Nghị quyết 08NQ/TW với những quan điểm chỉ đạo có tính đột phá về cải cách tư pháp đã mở đường cho việc sửa đổi bổ sung chế định phiên tòa nói chung, phiên toà sơ thẩm dân sự nói riêng theo hướng ngày càng hoàn thiện và tiến bộ hơn đặc biệt là đề cao yếu tố tranh tụng trong tất cả các phiên tòa, coi đây là khâu đột phá trong hoạt động của Tòa án. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới đã đánh giá về tình hình công tác tư pháp trong những năm vừa qua ở nước ta là: 16 ... Chất lượng công tác tư pháp nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân, còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và các cơ quan tư pháp... [6]. Để có những chuyển biến mạnh mẽ trong công tác tư pháp, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị quyết 08-NQ/TW đã đề ra bốn quan điểm chỉ đạo sau: 1- Công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 2-Công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân. 3-Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp. 4-Xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước [6]. 17 Bộ Chính trị đã đưa ra một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó đặc biệt nhấn mạnh: ... Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác... Khi xét xử, các Tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định... [6 ]. Một trong những nội dung xuyên suốt các nhiệm vụ mà Bộ Chính trị đã đề ra đó là cần mở rộng tranh tụng để nâng cao chất lượng xét xử nhằm từng bước nâng cao chất lượng giải quyết các loại vụ án từ đó đưa hoạt động của Toà án nói riêng, các cơ quan tư pháp nói chung ngày càng có hiệu quả. Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật về TTDS đặc biệt là BLTTDS năm 2004 có thể thấy xét xử vụ án dân sự chia làm nhiều giai đoạn khác nhau trong đó giai đoạn hỏi và tranh luận tại phiên toà đóng vai trò hết sức quan trọng. Tại đây, mọi tình tiết của vụ án đều được trình bày, kiểm tra, đánh giá một cách công khai, những người tham gia tố tụng được công khai tranh tụng, đưa ra lý lẽ, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bác bỏ những lý lẽ, lập luận, chứng cứ của người khác. Việc hỏi và tranh luận tại phiên toà được tiến hành theo một trình tự, thủ tục nhất định và phải bảo đảm thực hiện đúng những nguyên tắc mà BLTTDS đã quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm dân sự, thứ tự hỏi và trình tự phát biểu khi tranh luận đề cao vai trò, vị trí của các bên đương sự. Kiểm sát viên tham gia phiên 18 tòa dân sự (nếu có) không có vai trò như trong phiên tòa hình sự, họ chỉ tham gia với tư cách là người giám sát hoạt động xét xử của tòa án mà không can thiệp vào nội dung tranh chấp của các đương sự. Vị trí, vai trò của các đương sự tại phiên tòa thể hiện xu hướng dân chủ trong hoạt động tư pháp, tôn trọng quyền yêu cầu và tự định đoạt của họ trong quá trình xét xử. Ý chí và sự tự nguyện của các đương sự luôn được tôn trọng và xem xét trước tiên. Quyết định tại phiên tòa là sự phán xét của tòa án nhưng có thể đơn giản là ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự không nhất thiết phải bằng một bản án được tuyên tại phiên tòa. Nếu như phiên tòa xét xử vụ án hình sự luôn kết thúc bằng bản án của tòa án kết án một người phạm một tội cụ thể và hình phạt kèm theo (trừ trường hợp được miễn hình phạt) hoặc tuyên bố người đó vô tội thì diễn biến và kết quả của phiên tòa sơ thẩm dân sự còn tùy thuộc vào quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong quá trình diễn ra phiên tòa. Phiên tòa sơ thẩm có thể kết thúc bằng một bản án hoặc cũng có thể kết thúc bằng một quyết định ngay sau khi đương sự rút yêu cầu hoặc thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. 1.2. THỦ TỤC HỎI VÀ TRANH LUẬN NHỮNG PHẦN KHÔNG THỂ THIẾU CỦA PHIÊN TOÀ DÂN SỰ SƠ THẨM Phiên tòa sơ thẩm dân sự là nơi tập trung kết quả các hoạt động của các giai đoạn tố tụng trước đó. Mọi hoạt động của các giai đoạn thụ lý, hòa giải trong quá trình chuẩn bị xét xử nhằm thực hiện các thủ tục cần thiết hoặc chỉ tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản, làm cơ sở để giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án được tiến hành tại phiên tòa sơ thẩm.. Các chủ thể tham gia phiên tòa "cùng nhau tạo lập bức tranh toàn cảnh về quan hệ pháp luật dân sự một cách trung thực, khách quan, toàn diện" [11, tr. 12]. Các tài liệu, chứng cứ được đưa ra xem xét, đánh giá thông qua phần trình bày và tranh luận giữa các bên. Thông qua các hoạt động này tòa án sẽ ra các phán quyết 19 nhằm giải quyết toàn bộ nội dung của vụ án, từ việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự cho đến vấn đề án phí, các quyết định phải thi hành ngay (nếu có) và quyền kháng cáo đối với bản án. Bởi lẽ thông qua đó, HĐXX được nghe các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác trình bầy về toàn bộ các tình tiết của nội dung vụ án cũng như thể hiện quan điểm của họ trong việc giải quyết vụ án và bảo vệ quyền lợi cho mình một cách toàn diện nhất. Chính vì vậy, đối với HĐXX nói chung và đối với mỗi thành viên HĐXX nói riêng, qua hỏi và tranh luận tại phiên tòa giúp họ có cách nhìn toàn diện, phân tích và đánh giá các tình tiết của vụ án một cách chính xác và đúng đắn cũng như kiểm tra, đánh giá toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Không ít trường hợp sau khi nghe những người tham gia tố tụng trình bầy trong phần hỏi và tranh luận, HĐXX đã xác định được các tình tiết thật sự, bản chất của vụ án mà trong các giai đoạn tố tụng trước đó, cũng như khi nghiên cứu hồ sơ vụ án HĐXX không nắm được hoặc có nhận thức không đúng. Thực tiễn cho thấy do xuất phát từ các lợi ích khác nhau, do tư cách tham gia tố tụng khác nhau cho nên các bên đương sự và những người tham gia tố tụng khác khi trình bầy, đánh giá chứng cứ, nhận thức pháp luật và đưa ra các đề nghị về hướng giải quyết vụ án cũng rất khác nhau. Thông qua việc trình bầy, phân tích, đánh giá nhiều chiều về các chứng cứ cũng như tình tiết của vụ án, đề xuất pháp luật nội dung cần áp dụng của các bên đương sự, HĐXX có điều kiện xem xét, quyết định về vụ án một cách toàn diện, đầy đủ, khách quan tránh phiến diện, định kiến, không được xem nhẹ bất cứ một chứng cứ, tình tiết nào đã được thu thập và thẩm tra tại phiên tòa Như vậy thông qua thủ tục hỏi và tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét, đánh giá chứng cứ một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện HĐXX đưa ra được phán quyết của mình về việc giải quyết vụ án. HĐXX căn cứ vào các quy định của pháp luật để chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan