Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Ths31_052_những đặc điểm tiêu biểu của thơ thời kỳ 1954 - 1964...

Tài liệu Ths31_052_những đặc điểm tiêu biểu của thơ thời kỳ 1954 - 1964

.PDF
146
25369
50

Mô tả:

1 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÊ THỊ THANH PHƯƠNG TĂNG CƯỜNG VẬN DỤNG CÁC BÀI TOÁN CÓ NỘI DUNG THỰC TIỄN VÀO DẠY HỌC MÔN TOÁN ĐẠI SỐ NÂNG CAO 10 - THPT Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học Mã Số: 60.14.10 TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC THÁI NGUYÊN - 2008 2 C«ng tr×nh ®-îc hoµn thµnh t¹i: Tr-êng ®¹i häc S¦ PH¹M Ng-êi h-íng dÉn khoa häc: TS NGUYỄN NGỌC UY Ph¶n biÖn 1:............................................................................ ............................................................................. Ph¶n biÖn 2:............................................................................ ............................................................................. LuËn v¨n sÏ ®-îc b¶o vÖ tr-íc Héi ®ång chÊm LuËn v¨n: ............................................................................................... Vµo håi: giê ngµy .... th¸ng .... n¨m 2008 Cã thÓ t×m hiÓu LuËn v¨n t¹i: Th- viÖn tr-êng §¹i häc S- ph¹m 3 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nền thơ cách mạng Việt Nam 1945 - 1975 trải qua nhiều chặng đường khác nhau, mỗi chặng đường thơ đều gắn liền với những sự kiện chính trị lớn, chi phối toàn diện đời sống xã hội và đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Nhìn lại chặng đường thơ hơn nửa thế kỷ qua, có thể nói thời kì 1954 1964 được đánh giá là giai đoạn chuyển tiếp, giai đoạn “bản lề” giữa thơ ca thời kì chống Pháp và chống Mĩ. Sau những năm kháng chiến chống Pháp, thơ viết về đất nước mở ra nhiều hướng khai thác và có nhiều sáng tạo mới mẻ. Đây là giai đoạn mà thơ ca có nhiều mùa gặt bội thu. Nhiều nhà thơ tìm được cảm hứng từ hiện thực và vẻ đẹp của con người hăng say xây dựng cuộc sống mới. Thơ ca giai đoạn này là mối duyên đầu của tấm lòng nhà thơ với chủ nghĩa xã hội. Những đổi thay tốt đẹp từng ngày trong cuộc sống cùng với những tưởng tượng về cuộc sống ngày mai tươi sáng, gần gũi đã tạo nên những tứ thơ đẹp giàu ước mơ và chân thực. Hai miền Nam Bắc tuy có những yêu cầu khác nhau nhưng cùng chung một nhiệm vụ chiến lược: đấu tranh thống nhất nước nhà. Có thể nói thơ ca thời kỳ này phát triển cao ở nhiều phương diện, từ lực lượng sáng tác đến sự ra đời của ý thức nghệ thuật mới, cảm hứng mới. Đa dạng về sự tìm tòi, về cá tính sáng tạo và định hình nhiều phong cách nghệ thuật, tạo nên sự khởi sắc cho cả một giai đoạn thơ. Hầu hết các nhà thơ đều xuất bản những tập thơ riêng có giá trị. Tố Hữu, lá cờ đầu của thơ ca cách mạng cho ra đời tập thơ Gió Lộng, Xuân Diệu giải quyết vấn đề “riêng - chung” qua ba tập thơ: Riêng chung, Mũi Cà Mau - Cầm tay, Một khối hồng. Huy Cận ngợi ca đất nước đổi mới và dựng xây bằng ba tập thơ: Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài ca 4 cuộc đời. Chế Lan Viên thể hiện sự phấn đấu vươn lên “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” trong Ánh sáng và phù sa. Tế Hanh xúc động cao độ và xót xa thương nhớ đối với Miền Nam, tin tưởng ở miền Bắc: Gửi miền Bắc, Tiếng sóng, Hai nửa yêu thương. Các nhà thơ khác như Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Hoàng Trung Thông… đều có những tập thơ của riêng mình được bạn đọc yêu thích. Thực tế sáng tác, số lượng và chất lượng thơ thời kỳ 1954 – 1964 đã tạo nên phẩm chất mới cho thơ: cảm xúc thơ phong phú, nhuần nhị, nghệ thuật thơ có nhiều tìm tòi khám phá, đội ngũ sáng tác đông, có trình độ vốn sống vững vàng. Qua tìm hiểu thơ Việt Nam 1954 - 1964 chúng tôi nhận thấy thơ ca thời kì này từ trước tới nay đã được giới chuyên môn quan tâm, nhưng nhìn chung chưa được nghiên cứu một cách toàn diện về thành tựu, chất lượng chung cả phong trào cũng như những đặc điểm nổi bật của nó. Luận văn Đặc điểm thơ Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 của chúng tôi mong muốn bổ khuyết phần nào sự thiếu hụt đó, góp phần đưa ra một cách nhìn có hệ thống và đầy đủ hơn về thơ Việt Nam thời kì 1954 - 1964. Đây cũng là thời kì có nhiều bài thơ được giảng ở trường phổ thông các cấp, các trường đại học, cao đẳng. Việc chọn đề tài này giúp cho người viết có cái nhìn sâu rộng hơn nhằm phục vụ cho việc giảng dạy của mình đồng thời cũng qua đây hy vọng đóng góp phần nào cho quá trình tiếp cận giảng dạy văn học sử trong nhà trường phổ thông. 2. Lịch sử vấn đề Thơ ca giai đoạn 1954 - 1964 là một bộ phận cấu thành nên thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau cách mạng tháng tám năm 1945 đến nay. Bởi vậy, việc nghiên cứu đặc điểm của thơ ca giai đoạn này gắn liền với việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của cả nền thơ Việt Nam sau Cách mạng 5 tháng Tám. Nhìn chung, có thể chia lịch sử nghiên cứu thơ thời kỳ 1954 1964 theo những mảng chính như sau: 2.1. Những công trình bàn trực tiếp về thơ thời kỳ 1954 - 1964 Trước hết là các công trình nghiên cứu thể hiện trong các giáo trình Đại học ngành Ngữ văn. Ngay từ năm 1961, GS. Hoàng Như Mai đã dành Chương XXI trong cuốn Văn học Việt Nam thời hiện đại (1945 - 1960) để trình bày về “Thơ ca hoà bình lập lại”. Trong khi đánh giá chung về sự phát triển và thành tựu của thơ ca trong vòng 6 năm sau ngày hoà bình (1954), Giáo sư cũng đã bước đầu chỉ ra một số đóng góp của các nhà thơ tiêu biểu như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh… Đồng thời, năm 1962 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng cho ra đời cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam tập VI (1945- 1960) của PGS Huỳnh Lý và Trần Văn Hối. Trong đó, các tác giả đã nêu ra ba đặc điểm của thơ ca giai đoạn này là: thơ đi vào hai loại đề tài là đấu tranh thống nhất nước nhà và lao động kiến thiết xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc. Những năm về sau trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả của hai trường Đại học (Sư phạm và Tổng hợp) tiếp tục có Chương, Mục đánh giá về thơ giai đoạn 1954 - 1964 như Văn học Việt Nam 1954 - 1964 của Mã Giang Lân- Lê Đắc Đô (1990). Văn học Việt Nam 1945 -1975, tập I của GS. Nguyễn Đăng Mạnh và PGS. Nguyễn Trác, PGS. Trần Hữu Tá. GS. Mã Giang Lân cho rằng: “Thơ giai đoạn này đã vượt qua những kể lể mộc mạc của giai đoạn trước, cố gắng khám phá ra vẻ đẹp bên trong của cuộc sống, khái quát tạo ra những hình tượng thơ có tính chất điển hình. Thơ không chịu nằm lỳ trong những thể loại đã định hình từ trước mà nó luôn tìm tòi sáng tạo”... Năm 1979, trong bộ sách “Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975)” viết cùng giáo sư Phan Cư Đệ, giáo sư Hà Minh Đức có nhận định về “Thơ ca những năm đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội” như sau: “Cảm hứng về đất nước anh hùng, về tổ quốc xã hội chủ nghĩa giàu đẹp vẫn là cảm hứng chủ 6 đạo trong thơ ca suốt một giai đoạn mới. Trong thơ ca có tiếng nói da diết nhớ thương về tình cảnh đất nước còn bị chia cắt hai miền. Nhưng trước hết bài ca về đất nước là bài ca thắng lợi, bài ca xây dựng”. Năm 2003, trong cuốn Văn học Việt Nam trong thời đại mới, PGS. Nguyễn Văn Long cũng đưa ra những nhận định của mình về thơ trong 10 năm hòa bình sau cuộc kháng chiến chống Pháp: “Thơ trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1964 đã có bước phát triển mới phong phú đa dạng và vững chắc, trên cơ sở những thành tựu và phương hướng mà thơ ca kháng chiến đã đạt được”. Bên cạnh những công trình khái quát về một giai đoạn thơ ca nói trên còn có nhiều bài viết đánh giá chung về tình hình phát triển của văn học qua các chặng đường. Trong đó có thành tựu của giai đoạn 1954 - 1960 hoặc1954 - 1964. Đáng chú ý có bài viết của Xuân Diệu Mười lăm năm thơ Việt Nam dân chủ cộng hoà. Đây là lời nói đầu của tập Thơ Việt Nam 1954 - 1960. Mặc dù ở điểm nhìn trong khoảng 5 năm sau chiến thắng Điện Biên Phủ nhưng Xuân Diệu đã nhận ra rằng: “…thơ của ta, những năm gần đây 1958, 1959, 1960 có một bước nhảy quan trọng về chất lượng”. Nhân kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh (1960), Hồ Tuấn Niêm có bài trên Tạp chí Nghiên cứu văn học “Mười lăm năm văn học Việt Nam dưới chế độ dân chủ cộng hoà” cũng biểu dương thành tựu của thơ ca giai đoạn sau 1954 qua một số tác giả tiêu biểu. 2.2. Những bài nghiên cứu về tác giả, tác phẩm Đánh giá thành tựu về thơ của một giai đoạn, không thể tách rời phong trào sáng tác nói chung với các đỉnh cao của nó. Rất nhiều các bài nghiên cứu, phê bình về các tập thơ, bài thơ của các tác giả ra đời trong thời kỳ 1954 1964 đã giúp người đọc có cái nhìn đầy đủ hơn diện mạo của thơ Việt Nam giai đoạn này. Có thể kể đến các bài của Hoài Thanh, Hà Xuân Trường, Bảo Định Giang, Lê Đình Kỵ viết về tập Gió Lộng (1961) của Tố Hữu. Các bài của Xuân 7 Diệu, Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức viết về tập thơ Ánh sáng và phù sa (1960) của Chế Lan Viên. Các bài của Phan Cự Đệ, Lê Nhuệ Giang, Vũ Đức Phúc viết về các tập thơ Riêng chung (1960), Một khối hồng (1964) của Xuân Diệu. Các bài của Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ, Đào Xuân Quý, Nguyễn Hoành Khung viết về các tập Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963) của Huy Cận. Các bài của Lê Đình Kỵ, Đỗ Hữu Tấn, Nguyễn Đình, Hoàng Minh Châu, Thiếu Mai viết về các tập thơ Gửi miền Bắc (1958), Tiếng sóng (1960), Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh… Nhìn chung, các bài viết về từng tập thơ thường hướng theo phân tích tác phẩm, nghiêng về khẳng định những thành công và đóng góp của tập thơ, khẳng định vị trí của tập thơ trong quá trình sáng tác của tác giả. Các ý kiến đó thường nghiêng về sự biểu dương các thành tựu của cả phong trào cũng như đặc điểm phong cách nhà văn. Tuy nhiên nó thường được nhìn nhận một cách riêng lẻ (nhất là các bài viết về từng tập thơ). Đó là chưa kể nhiều bài viết giới thiệu các nhà thơ có tác phẩm ra đời vào đầu những năm 60 của thế kỷ trước, thời điểm được mệnh danh là “mùa gặt” của văn học ta nói chung và thơ ca nói riêng. Với sự xuất hiện của tuyển tập thơ: Tiếng hát miền Nam, Sức mới (Tập thơ bạn trẻ)… cũng có những bài phê bình giới thiệu kịp thời. Trong bài Tựa tập thơ Sức mới, Chế Lan Viên khẳng định sự phát triển của phong trào thơ, thành công của một hướng đi: từ cuộc sống gắn bó với cuộc sống “nồng ấm hơi thở cuộc sống”, tuy còn hạn chế không nhỏ “còn chọn lọc cuộc sống theo một quan niệm “thi vị hoá” khá lỗi thời” “còn lên gân, nhồi nhét các chữ ầm ĩ, ồn ào trong lời văn tụng ca cuộc sống”, phải làm sao cho “ngọn lửa lí tưởng trong thơ của thế hệ trẻ bừng cháy thêm” “chất thép sắc nhọn thêm”, “mỗi ngày càng thêm có màu sắc dân tộc”. Dẫu còn sơ lược và chỉ dừng ở 8 phạm vi thơ trẻ nhưng ít nhiều bài viết của Chế Lan Viên đã mang tính chất đánh giá phong trào của một thời kỳ thơ. 2.3. Các công trình nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp của các nhà thơ, trong đó có chặng đường 1954 - 1964. Tiêu biểu là các công trình; Nhà thơ Việt Nam hiện đại [56], Thơ những gương mặt [53], Thơ những cuộc đời [46] Nghệ Tĩnh gương mặt nhà văn hiện đại [56]… Những công trình này thường tập chung giới thiệu quá trình sáng tác, những nét riêng trong phong cách, cá tính sáng tạo, sự trưởng thành trên con đường nghệ thuật của các nhà thơ tiêu biểu trong nền thơ Cách mạng như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Bính, Anh Thơ, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Thu Bồn, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật… Ở những công trình này, các bài viết chú trọng tới việc dựng chân dung tổng quát về từng nhà thơ, khẳng định phần đóng góp và vị trí của từng nhà thơ trong nền thơ dân tộc, mà không tiếp cận ở góc độ văn học sử - dựng diện mạo của giai đoạn thơ. Nhìn lại lịch sử nghiên cứu thơ 1954 - 1964 ta có thể thấy - Đây là một thời kỳ phát triển mới giàu thành tựu (xét trên nhiều phương diện từ đội ngũ sáng tác, số lượng tác phẩm, phẩm chất thơ, phong cách sáng tạo…) trong tiến trình của nền thơ Cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên việc tìm hiểu, nghiên cứu, đánh giá này còn chưa tương xứng với vị trí, thành tựu và những đóng góp của nó. Phần lớn các công trình, các bài viết, các bài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở những tác phẩm, những tác giả riêng lẻ biệt lập hoặc được nhắc tới khi nghiên cứu về cả tiến trình chung của thơ Cách mạng Việt Nam mà chưa xem xét và đặt nó như một đối tượng nghiên cứu riêng biệt, cũng chưa đi sâu vào khảo sát, nghiên cứu một cách kỹ lưỡng toàn diện. Với luận văn này, trên cơ sở tiếp thu kế thừa những giáo trình, những bài viết, những nhận định, đánh giá mà các nhà nghiên cứu đưa ra thật sự có giá trị. Đó 9 là những tư liệu định hướng, gợi ý đối với chúng tôi trong quá trình triển khai đề tài này. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu đặc điểm thơ thời kỳ 1954 1964 trong tiến trình thơ VNHĐ, từ phương diện cảm hứng và các xu hướng khám phá thể hiện. Trên cơ sở đó đánh giá, khẳng định thành tựu nổi bật của thơ thời kỳ này. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ thời kỳ 1954 - 1964, chủ yếu là phong trào sáng tác thơ của ba lực lượng: Thơ của các nhà thơ có sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám, thơ của các nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và thơ của các nhà thơ trẻ xuất hiện sau 1954. Chủ yếu khảo sát những bài thơ có giá trị về nội dung tư tưởng và nghệ thuật và một số tập thơ của các nhà thơ tiêu biểu. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là các tác phẩm thơ của các tác giả tiêu biểu từ 1954 - 1964 với trọng tâm là thơ Cách mạng, thơ kháng chiến. Luận văn chưa có điều kiện đề cập tới mảng thơ ở các đô thị miền Nam được sáng tác theo những cảm hứng nội dung tư tưởng khác. Bên cạnh đó để làm rõ các đặc điểm thơ Việt Nam thời kỳ 1954 - 1964 luận văn lấy các tác phẩm tiêu biểu trong thơ các giai đoạn khác để tiến hành so sánh. 5. Những đóng góp của luận văn Luận văn đóng góp một cách nhìn toàn diện, có hệ thống về thơ thời kỳ 1954 - 1964. Nêu lên những nhận định bước đầu, có tính chất khái quát mà trước đây chỉ mới được phác qua về những tác phẩm cụ thể, những khía cạnh riêng lẻ. Phác thảo diện mạo chung của đội ngũ, nêu lên những đường nét cơ bản về sự vận động và phát triển của lực lượng sáng tác, ý thức nghệ thuật, phong cách nghệ thuật tiêu biểu và các xu hướng vận động phát triển của thơ. 10 Mở rộng phạm vi đề tài, xu hướng khái quát, tổng hợp, triết lí, suy tưởng và xu hướng tự do hoá hình thức thơ. Qua đó nhằm góp phần khẳng định vai trò - vị trí của giai đoạn thơ 1954 - 1964 trong tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. 6. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp so sánh - lịch sử: phương pháp này nhằm so sánh tìm ra những đặc điểm tiêu biểu của thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tương quan với đặc điểm thơ các giai đoạn khác. - Phương pháp hệ thống - phân loại: phương pháp này nhằm tìm kiếm sắp xếp các yếu tố, có cùng tính chất để phân tích, đánh giá, tổng kết vấn đề. - Phương pháp phân tích tổng hợp: làm nổi lên giá trị của các tác phẩm thơ, kết cấu văn bản thơ ở từng đơn vị và trong hệ thống vận động của thể loại. 7. Cấu trúc luận văn Phần mở đầu Phần nội dung: Gồm 3 chương : - Chương 1: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại. - Chương 2: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ phương diện cảm hứng nghệ thuật. - Chương 3: Thơ thời kỳ 1954 - 1964 nhìn từ các xu hướng khám phá, thể hiện. Phần kết luận Thư mục tài liệu tham khảo 11 Chương 1 THƠ THỜI KÌ 1954 - 1964 TRONG TIẾN TRÌNH THƠ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI 1.1. ĐỘI NGŨ SÁNG TÁC VÀ SỰ TRƯỞNG THÀNH CỦA Ý THỨC NGHỆ THUẬT MỚI 1.1.1. Đội ngũ các nhà thơ Như một sự tất yếu của mỗi thời kì lịch sử, mỗi giai đoạn văn học, đều cần có một đội ngũ sáng tác văn học của mình. Hợp thành đội ngũ thơ 1954 - 1964 là ba lực lượng chính: Thế hệ các nhà thơ tiền chiến được rèn luyện thử thách và “lột xác” từ trong lò lửa của cuộc kháng chiến chín năm, những nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ ca kháng chiến chống Pháp và đáng chú ý là lớp nhà thơ mới xuất hiện, được nuôi dưỡng và trưởng thành sau hoà bình (1954). Đối với các thế hệ nhà thơ có quá trình sáng tạo nghệ thuật trước cách mạng tháng Tám: Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Anh Thơ… đội ngũ ấy bao gồm những nhà thơ đã trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ hởi đến với cách mạng “Như chờ vang tiếng sét giữa trời mây” (Chế Lan Viên), đây là giai đoạn phát triển đến đỉnh cao trên nhiều phương diện: Ý thức nghệ thuật, cá tính sáng tạo và thành tựu thơ. Đến với Tố Hữu - một thi sĩ có “tầm cỡ khai sáng cho cả nền thơ trữ tình cách mạng” [45,280], con chim đầu đàn vạch hướng cho cả một nền thơ, là người “mở đường” và tiêu biểu nhất cho nền thơ cách mạng. Ngay từ tiếng nói thơ ca đầu (trước cách mạng), Tố Hữu đã thể hiện rõ một con đường đi, một hướng sáng tạo. Bởi vậy ngay từ đầu Tố Hữu đã chín với chất sống 12 mới chất đời mới. “Ông không chịu chung quy luật chín lại với thực tế mới của một số nhà thơ lớp trước và đã vượt qua được bước sôi nổi ban đầu nhưng còn chưa vững chắc của lớp nhà thơ mới lớn lên với cách mạng tháng Tám” [22, 134]. Là người cùng thế hệ với nhiều nhà Thơ mới, Tố Hữu trước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng cũng tìm thấy ở họ những tâm trạng gần gũi với mình trong lúc đang “Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”. Nhưng con đường thơ Tố Hữu đã khác hẳn những con đường của các nhà thơ mới, vì nó gắn liền với lí tưởng cộng sản và cuộc đấu tranh cách mạng. Sau chặng đường 10 năm hoạt động sôi nổi, say mê từ giác ngộ qua thử thách đến trưởng thành của người thanh niên cách mạng qua tập thơ Từ ấy. Tập thơ Việt Bắc bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao, anh dũng và những bước đi lên của cuộc kháng chiến cho đến ngày thắng lợi. Đến Gió lộng ra đời đánh dấu bước tiến mới của thơ Tố Hữu, ghi nhận thành tựu đáng kể của thơ ông: một tâm hồn thơ lớn, một nghệ thuật biểu hiện “già dặn” và “nhuần nhị” hơn. Trong thơ ở chặng đường này đáng chú ý nhất về mặt đội ngũ tác giả là sự tự khẳng định trở lại của nhiều nhà thơ thuộc thế hệ Thơ mới. Qua mười năm đến với cách mạng, với nhân dân và kinh qua cuộc kháng chiến đầy gian lao thử thách, nhiều nhà thơ của thế hệ thơ này đã thực sự đổi mới tư tưởng và cảm xúc. Họ đã vượt qua được những khó khăn của cuộc “nhận đường”, “lột xác”, trải qua cuộc đời nô lệ của người dân mất nước, hồ hởi đến với cách mạng như từ Thung lũng đau thương đến cánh đồng vui, trải qua một cuộc đấu tranh để “…phá cô đơn - Ta hoà hợp với người” tìm ra mái ấm cho tâm hồn mình: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân tôi - Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu”. Các nhà Thơ mới đã xác định được con đường nghệ thuật mới và tìm được tiếng nói nghệ thuật của mình, phù hợp với yêu cầu của thời đại. Nhà thơ Tế Hanh đã Tâm sự : 13 Hỡi người bạn! Hãy nhập vào đại chúng Cuộc đời riêng hoà với cuộc đời chung. Như con sông dặm ngàn tìm lẽ sống Vào đại dương cho thoả chí vô cùng Ta là một, ta vừa là tất cả Nhập vào đời, ta ấy “Tôi” hơn. (Tâm sự - Tế Hanh) Sự chuyển hướng của nhà thơ lãng mạn sang thơ hiện thực, lấy sự gắn bó với cuộc sống, cuộc kháng chiến cứu nước làm cốt lõi của thơ, là đáp ứng một đòi hỏi có tính quy luật, một điều không cưỡng lại được. Con đường đi đến với cách mạng của những nhà thơ lớp trước khá vất vả, không phải là một vài năm mà hàng chục năm. Đó không chỉ là sự giác ngộ về lí trí mà quan trọng là ở sự rung động thực sự về tình cảm. Một cuộc tìm đường “trầy trật” để đến với phương hướng mới, từ một cái tôi cá nhân cô đơn luôn ước ao “vun hết là vàng để chắn nẻo xuân sang”(Chế Lan Viên). Luôn cho mình là “Ta là một, là riêng là thứ nhất”(Xuân Diệu), luôn bơ vơ rợn ngợp giữa cô đơn “Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề” đến với cái tôi công dân, cái ta chung rộng lớn của cả cộng đồng, hướng về những tình cảm những ý nguyện của cả cộng đồng, hướng vào khai thác những chất thơ của đời sống kháng chiến. Các nhà thơ của thế hệ Thơ mới phải trải qua hàng chục năm đi với cách mạng và nhân dân. Đến thời kì này thực sự tìm lại được cái “tôi” của mình trong sự hoà hợp, thống nhất với cuộc đời chung với nhân dân và xã hội, niềm hạnh phúc trong sự hoà hợp giữa cái riêng và cái chung: “Bốn mùa vây quanh, Con người ở giữa, Tôi ở giữa người”. Nhờ thế, các nhà Thơ mới bước đầu đã có những đóng góp quý vào nền thơ kháng chiến. Do vậy, xét về mặt hiệu quả nghệ thuật, quá trình đóng góp, tìm tòi để đổi mới hồn thơ của các nhà Thơ 14 mới trong kháng chiến chống Pháp còn rất hạn chế. Cái tôi trữ tình của nhà thơ thường vẫn bị khuất lấp sau hiện thực và đối tượng miêu tả. Thành quả chưa nhiều nhưng mỗi nhà thơ đều có những bài thơ ý nghĩa “đánh dấu” sự chuyển biến của nhận thức, xúc cảm và bút pháp góp phần vào thành tựu chung. Chỉ từ sau hoà bình (1954) các nhà thơ mới được rèn luyện, thử thách và “lột xác” từ trong lò lửa của cuộc kháng chiến chín năm. Giờ đây sau những ngày bám rễ vào cuộc sống thực tế, họ càng trở nên chín chắn, đồng thời lại có điều kiện đi sâu thâm nhập vào đời sống, đã “chín” lại với thực tế đời sống chiến đấu, lao động đông đảo của quần chúng - đã “chín” lại trong một quan niệm nghệ thuật mới - nghệ thuật gắn bó với đời sống phục vụ cuộc sống và con người. Các nhà thơ mới bước vào một giai đoạn sáng tác mới, với tâm thế thanh thản, tự tin, mạnh dạn tìm tòi khám phá và sáng tạo. Mảnh đất màu mỡ đã làm nảy nở những hạt giống mới một cách nhiệm màu, tâm hồn các nhà thơ như trẻ lại, tài năng như thực sự được hồi sinh họ như tìm thấy chính mình giữa cuộc đời rộng lớn, cuộc đời cách mạng, hoà nhịp đập trái tim nhiệt huyết của mình vào trong niềm vui xây dựng cuộc sống. Chặng đường thơ từ sau 1954, đã đem lại cho phong cách nghệ thuật của các nhà thơ những nét mới, những biến đổi mà nguồn gốc sâu xa là từ sự biến đổi trong tư tưởng và cảm xúc cùng với sự trải nghiệm đời sống của họ đã tạo nên cái nhìn và giọng điệu riêng của mỗi nhà thơ. Người đọc có thể nhận ra sức mạnh của cảm xúc, những cảm giác tinh tế tạo nên cách cảm nhận thế giới nghiêng về trực giác, trực cảm của Xuân Diệu qua: Riêng chung (1960), Mũi cà mau - Cầm tay (1962), Một khối hồng (1964); sức mạnh trí tuệ trong những suy tưởng triết lí qua Gửi các anh (1955), Ánh sáng và phù sa (1960) của Chế Lan Viên, liên tiếp ngợi ca đất nước Trời mỗi ngày lại sáng (1958), Đất nở hoa (1960), Bài thơ cuộc đời (1963) của Huy Cận, xúc động cao độ và thực tế nỗi xót xa, lòng thương nhớ, niềm tin 15 tưởng của miền Bắc đối với Lòng miền Nam (1956), Gửi miền Bắc (1958), Nhân dân một lòng (1960), Tiếng sóng (1960) Hai nửa yêu thương (1963) của Tế Hanh, Đồng tháp mười (1955), Gửi người vợ Miền Nam (1955), Đêm sao sáng (1962) của Nguyễn Bính… Bên cạnh đội ngũ sáng tác có tên tuổi trước cách mạng, là lớp nhà thơ trưởng thành trong phong trào thơ ca kháng chiến chống Pháp, đến đây vẫn tiếp tục phát huy tài năng của mình. Mặc dù ở họ có những thành công khác nhau, nhưng ở mỗi nhà thơ có những nét riêng với những vần thơ giản dị chân thành, hồn hậu, đậm đà tình cảm thực của quần chúng. Họ đã hợp thành khuôn mặt chung của lớp người cầm bút, khoẻ khoắn và nồng nhiệt: Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Vũ Cao, Hoàng Trung Thông, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn, Trần Hữu Thung… Những con người này họ được rèn luyện và trưởng thành từ những công tác kháng chiến, từ phong trào văn nghệ quần chúng. Thực tế lớn lao của kháng chiến, đã thôi thúc họ cầm bút, họ tạc được những nét chắc khoẻ của hình ảnh kháng chiến, dồi dào những cảm xúc tươi mới của đời sống. Nếu như chín năm kháng chiến chống Pháp đã tạo sự quyết định trong tư tưởng tình cảm của các nhà thơ, thì hiện thực những năm xây dựng hoà bình và đấu tranh thống nhất đã bồi đắp vững chắc cho tư tưởng, tình cảm và mở rộng nguồn cảm xúc. Họ đạt đến một độ “chín” thực sự xét trên cả hai phương diện: cảm hứng sáng tạo và nghệ thuật thơ, đặc biệt đạt đến sự hài hoà, nhuần nhị giữa hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng, một số nhà thơ đã xuất bản những tập thơ có giá trị riêng, tiêu biểu như: Nguyễn Đình Thi với Người chiến sĩ (1956) và Bài thơ Hắc Hải (1959), Hoàng Trung Thông với Quê hương chiến đấu (1955), Những cánh buồm (1964), Trần Hữu Thung có liên tục ba tập thơ: Đồng tháng tám (1955), Ngày thu ấy (1957), Gió nam (1962), Nguyễn Xuân Sanh hết nghe Tiếng quê ta (1955) lại Lắng nghe bước xuân 16 về (1961). Nông Quốc Chấn nhà thơ Tày, năm 1943 đã kể chuyện Việt Bắc đánh giặc nay hoà bình được hân hoan với Tiếng ca người Việt Bắc (1962) và Người núi hoa (1961)… Sự bổ sung, tiếp nối các thế hệ nhà thơ là quy luật tự nhiên, tất yếu của mỗi nền thơ. Đến giai đoạn thơ 1954 - 1964, cùng với hai lực lượng chủ đạo: các nhà thơ trước cách mạng tháng Tám và các nhà thơ xuất hiện trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã có sự bổ sung đáng quý của một lực lượng sáng tác trẻ xuất hiện từ sau hoà bình: Nguyễn Bao, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Ngô Văn Phú, Võ Văn Trực, Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân), Bùi Minh Quốc, Phạm Tiến Duật, Vân Long… Lực lượng thơ trẻ dào dạt bay bổng trong cảm hứng về cuộc sống mới, họ nói được một cách tự nhiên, đằm thắm lí tưởng mới con người mới, họ mang đến cho thơ hơi thở nồng ấm của của cuộc sống dựng xây náo nức trên miền Bắc sau hoà bình. “Họ ở trong nhiều ngành nghề, địa phương khác nhau, đứng từ nhiều góc độ khác nhau để nhìn cuộc sống. Do đó, gộp tất cả các cái nhìn riêng của họ lại, ta có một số thành không đơn điệu, một cái nhìn chung khá phong phú về cuộc đời [59,6]. Và đây, chính là đội ngũ chủ lực của thơ chống Mỹ. Thời kì này, thơ còn được tiếp sức bằng một đội ngũ các nhà thơ trực tiếp sống trong cuộc chiến đấu gian khổ ở miền Nam. Lực lượng này sẽ mang đến cho thơ những Tiếng hát miền Nam với âm hưởng riêng, đau thương nhưng vô cùng anh dũng, thuỷ chung. Sự phát triển vững chãi về lực lượng sáng tác này là cơ sở chắc chắn để tạo nên những thành tựu xuất sắc của thơ giai đoạn 1954 - 1964. 1.1.2. Sự trưởng thành của ý thức nghệ thuật mới Năm 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng đem lại sự biến đổi kì diệu cho con người. Các nhà thơ hoà nhịp đập của trái tim mình trước hiện thực cuộc sống mới. Khi mà tình cảm thẩm mĩ đã cùng nhịp đập với lí tưởng cách mạng, họ đi sâu xâm nhập vào đời sống lao động sản xuất và chiến đấu, họ đã tìm thấy cho mình một mảnh đất riêng để khám phá, để bộc lộ. 17 1.1.2.1. Trưởng thành trong nhận thức về bản chất chức năng của thơ ca Có thể nói, thơ ca thời kì 1954 - 1964 đã mang những dấu ấn đặc sắc riêng của nó khó trộn lẫn với bất cứ giai đoạn nào khác trong lịch sử thơ ca hiện đại. Trước hết, đó là sự đổi mới trong quan niệm về bản chất và chức năng thơ ca. “Thơ lúc này không còn là ngôi đền thiêng cách biệt của cái tôi cô đơn, thu về trong cái vỏ cá nhân với nỗi buồn uỷ mị chán chường mà chỉ các thi nhân bước vào mà thơ thuộc về quần chúng, về mọi người cả trong sáng tác cũng như tiếp nhận” [61] Nếu như thơ ca giai đoạn kháng chiến chống Pháp, nằm trong yêu cầu phục vụ kháng chiến đã xác định được nhiệm vụ chức năng thơ ca “Thơ ca phải thể hiện tính chiến đấu cách mạng, trở thành một vũ khí tinh thần góp phần giáo dục động viên quần chúng kháng chiến” [61,162), “Thơ ca phải phục vụ trực tiếp công cuộc cách mạng và kháng chiến, vai trò công dân - chiến sĩ - nghệ sĩ của nhà thơ, thơ phải bám chắc đời sống hiện thực, phải trả về cho quần chúng và hướng tới quần chúng”. Vì vậy, thơ ca giai đoạn chống Pháp không quan tâm nhiều đến sự tìm tòi hình thức thể hiện ngoại trừ mối quan tâm lớn là “hình thức ấy phải rộng rãi và đại chúng” [68,28]. Thơ phải nói tiếng nói đại chúng, thơ phải dễ đọc dễ nhớ, dễ thuộc, dễ phổ biến. Với quá trình tìm tòi, mò mẫm từ bước nhận đường qua chặng quá độ để đến được sự định hình khuôn mặt nền thơ ca mới, để đạt tới sự chân thực nghệ thuật. Như giáo sư Hà Minh Đức đã nhận xét: Thơ ca kháng chiến có một vẻ đẹp chân thực, giản dị, hồn nhiên, nhưng chưa phong phú, đa dạng. Phong trào thơ có chiều rộng nhưng chưa có chiều sâu, có thành tựu đáng kể nhưng chưa đều. Hình thức trong thơ nhiều lúc còn đơn giản sơ lược [22.144] Đến giai đoạn này (Giai đoạn 1954 - 1964) cùng với những chuyển đổi nội dung, các nhà thơ đã thật sự quan tâm tìm đến một hướng tìm tòi hình thức vận động nội tại của thơ. Cùng với cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thống nhất nước nhà tiến không ngừng lên 18 một mức độ cao, đặt cho thơ một nhiệm vụ lớn và sâu, đòi hỏi các thi sĩ phải làm thơ hay hơn nữa, “tức là đưa thêm cái phần lãng mạn bay bổng kết bạn khăng khít với cái phần hiện thực vững vàng…tăng cường chất thơ, chất suy nghĩ hình tượng, chất cảm xúc, chất nhạc điệu” [13.172]. “Những con ong hút nhuỵ từ những bông hoa của đời sống” [20,169] đã ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn về tính chất “chuyên nghiệp” của cả một nền thơ. “Nói cho cùng thơ là kết quả của sự nhập tâm” đời sống trí tuệ, tài năng của nhân dân, nhập tâm được bao nhiêu là nhờ ở cuộc đời của mình gắn bó được bao nhiêu với nhân dân mình. Nhập tâm từ tâm hồn, tình cảm, đến dáng đi, giọng nói, tiếng khóc, tiếng cười. Nhập tâm đến một mức độ nào đó thì thơ ấy hình thành. Có thể nói thơ chỉ tràn ra khi con tim ta cuộc sống đã thật đầy [42,439]. Có thể nói đến giai đoạn thơ này những vấn đề rất cơ bản: Tính dân tộc và hiện đại, hiện thực và lãng mạn, mối quan hệ giữa nội dung và hình thức đã được đặt ra khẩn thiết và nghiêm túc. Trên định hướng lớn về đường lối và văn nghệ mà Đại hội Đảng Việt Nam lần thứ ba (1960) đã vạch ra: “Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và tính dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nắm vững phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm phản ánh chân thật cuộc sống mới, con người mới góp phần giáo dục và động viên nhân dân đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và cho sự nghiệp thống nhất nước nhà”. Các văn nghệ sĩ đã nỗ lực không ngừng “đi lên hàng đầu của cuộc sống, học tập và sáng tạo không ngừng để có nhiều hơn nữa những tác phẩm sâu sắc về nội dung đẹp đẽ về nghệ thuật nhằm đưa mức tư tưởng của thơ cao hơn nữa” [52, 409]. Thư của ban chấp hành Trung ương gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (1957) cũng nhấn mạnh: “Giá trị của tác phẩm không phải chỉ ở nội dung tư tưởng mà còn ở phẩm chất nghệ thuật”. Đến giai đoạn này vấn đề cơ bản được đặt ra: Các văn nghệ sỹ cần chú trọng nâng cao chất lượng nghệ thuật. 19 Khi thơ mở rộng hướng cảm xúc ôm trùm mọi vấn đề trong cuộc sống hiện thực thì tất yếu phải mở rộng khả năng diễn đạt biểu hiện của thơ. Thơ phải vừa hiện thực vừa hàm súc, vừa bao quát cụ thể, vừa “thực” lại cũng phải “say”, phải huyền ảo, trữ tình. Và Chế Lan Viên đã đưa ra quan niệm về sự chuyển đổi tính chất của thơ: Thơ xưa hát mà bây giờ tập nói Chỉ nói thôi mới nói hết được đời Thơ xưa “hát” nhưng thơ nay phải “nói”, phải “nói” mới mong “nói hết được đời”. Nói như Xuân Diệu: “Nói bao nhiêu cũng còn chưa đủ, Nói mãi mãi vẫn là chưa hết, Nói đến chết cũng hãy đang còn”. Trên con đường lớn đi sâu vào hiện thực, thơ cũng trăn trở tìm một tiếng nói một giọng điệu phù hợp, đòi hỏi những cách nhìn cách nghe và những cách biểu hiện mới. Cách biểu hiện ở đây không chỉ có một cách nói, mà trái lại tìm về cuộc sống thực thơ cũng tìm ra nhiều cách nói của cuộc đời. Ở Tố Hữu, ngày càng quan tâm sâu sắc hơn đến nghệ thuật thơ. Ông đòi hỏi tình cảm trong thơ phải bộc lộ hết vẻ đẹp của nó. “Thơ là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn trước cuộc đời nhưng không phải lẽ tự nhiên”: “Thơ ta cần “say”mới thích… Tôi rất thèm trong thơ một chất lãng mạn mới, một chất men mới làm sao cho thơ bay bay”. Cái “chất mem mới” là những cảm xúc chín ngọt đủ sức để “đốt cháy hiện thực thành những vần thơ óng ánh” (Tế Hanh). Những phẩm chất trên của thơ cũng đòi hỏi một tư duy thơ ca phù hợp. Thơ vẫn đi theo đường lối văn nghệ cách mạng của Đảng “Nền văn nghệ ta là nền văn nghệ của nhân dân lao động. Văn nghệ sĩ chúng ta phải là người nói lên cuộc đời và tâm trạng của công nông, trả lời được những vấn đề của cuộc sống cách mạng đặt ra” [42.31]. Bởi, “Văn học là cuộc đời”… “Cuộc đời ấy là trái tim của mình của người nghệ sĩ”. Trái tim ấy nó gắn liền với với tiếng nói yêu thương, với lời ca tranh đấu, giàu ước mơ và khát vọng, gắn liền với lí tưởng bay bổng, 20 phần cao đẹp của tâm hồn và kết tinh lại ở những cảm xúc trong sáng, những suy nghĩ cao đẹp tích cực nhất của người nghệ sĩ. Tế Hanh cũng đã nêu cho mình phương châm sáng tạo qua suy nghĩ: “Câu thơ đẹp là câu thơ có ích - Uống tự nguồn những suối ban mai”. Câu thơ “đẹp”, những câu thơ “có ích” với cuộc sống cũng đã được đặt ra từ thời kì kháng chiến chống Pháp. Đến thời kì này thơ với cuộc sống lại được quan niệm một cách rõ ràng và sâu sắc hơn, gắn với yêu cầu hết sức lớn lao của thời đại, thơ đã được mở rộng cảm xúc theo hướng phong phú, đa dạng để có thể bao quát được từ những vấn đề chung lớn lao để hoà với những nhịp sống chung gần gặn nhất của mỗi con người. Thơ không thể không đi vào cuộc sống, sống trong cuộc sống bởi nếu tách khỏi nó thì thơ ca sẽ như “cây nhổ khỏi đất ”, “cá ra ngoài nước”. “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp. Thơ không chỉ nói lên tình cảm riêng của nhà thơ mà nhiều khi thông qua tình cảm đó nói lên… ước mơ của nhân dân, vẽ lên những nhịp đập của trái tim quần chúng”(Sóng Hồng).Các nhà thơ quan niệm thơ không chỉ là những “hầm chông giết giặc”, “những dòng thơ lửa cháy” mà thơ còn là những “dòng thơ tươi xanh” là “nhành hoa mát mặt cho đời” như “thơ giữa cuộc đời” như “hoa giữa nắng”, làm sao cho “Mỗi câu thơ che một trận tuyến tâm tình”. Nhà thơ phải làm sao cho thơ mình thật sự “mang cánh lửa” bay hoà vào cuộc sống chung. Các nhà thơ đã suy nghĩ và thể hiện một cách nghiêm túc và sâu sắc nhất về mục đích và nhiệm vụ của thơ ca thời kì này. Với suy nghĩ đó, đã khiến cho hồn thơ ảo não bậc nhất thơ mới của Huy Cận đã nhìn thấy Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời. Chế Lan Viên sau bao năm vật lộn chuyển đổi bản thân thấy Ánh sáng và phù sa kết tụ. Xuận Diệu thấy sự hài hoà Riêng chung trong nhịp đập Một khối hồng của trái tim dân tộc. Tố Hữu thênh thang trong Gió lộng với cảm xúc “Gió lộng đường khơi rộng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan