Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thông diễn mới về thiên nguyên đạo...

Tài liệu Thông diễn mới về thiên nguyên đạo

.PDF
49
139
104

Mô tả:

THÔNG DIỄN MỚI VỀ THIÊN NGUYÊN ĐẠO 原道 TRONG “VĂN TÂM ĐIÊU LONG”文心雕龍 CỦA LƯU HIỆP NCS. NGUYỄN PHÚC ANH Khoa Văn học, Trường đại học KHXH&NV Đại học Quốc gia Hà Nội Trong khoảng thời gian từ năm 1996 đến nay, ở Việt Nam, Văn tâm điêu long đã có vài bản dịch khác nhau: bản dịch của Phan Ngọc (Văn học nước ngoài, số 3, 1996, tr.143-209), bản dịch của Dương Ngọc Dũng (Dẫn nhập tư tưởng văn học Trung Quốc, Văn học, 1997, tr.57-245) và bản dịch của Trần Thanh Đạm – Phạm Thị Hảo (Văn tâm điêu long, Văn học, 2007),... Việc giới thiệu Văn tâm điêu long như vậy là tương đối đầy đủ. Bài viết của chúng tôi không nhằm cung cấp thêm một bản dịch, chúng tôi muốn bằng việc thông diễn văn bản thiên ―Nguyên đạo‖ 原道, thiên quan trọng nhất của Văn tâm điêu long 文心雕龍, nêu bật khung lí luận của Lưu Hiệp; đồng thời thông qua đây, chúng tôi tiến đến một dạng thức tiếp cận văn bản kết tập được những thành tựu chú giải học truyền thống với thành tựu lí thuyết của thông diễn học hiện đại. Văn bản thiên ―Nguyên đạo‖ mà chúng tôi sử dụng là văn bản lấy ra từ sách Văn tâm điêu long khắc in vào niên hiệu Chí Chính thứ 15 nhà Nguyên (1355) 元至正本文心雕龍 ở quận Gia Hưng 嘉興, có kết tập thành quả hiệu chỉnh văn bản của Chu Chấn Phủ1 và các nhà nghiên cứu tiền bối. 1. Luận về khái niệm “nguyên”và “nguyên đạo”của Lưu Hiệp. Chu Chấn Phủ 周振甫 chủ biên, Văn tâm điêu long từ điển 《文心雕龙》辞典, Trung Hoa thư cục 中华书局, 1996, tr.836 – 837. 1 Hai chữ ―Nguyên đạo‖ xuất hiện đầu tiên trong sách Hoài Nam Tử 淮南子 (còn gọi là Hoài Nam Hồng Liệt 淮南鴻烈) do Hoài Nam vương Lưu An 淮南王劉安, người Đông Hán 東漢, và các môn khách của ông đứng ra biên soạn. Ở đầu sách có một thiên tên là Nguyên Đạo huấn 原道訓 trình bày những ý tưởng của tác giả về Đạo. Cao Dụ 高誘chú thích cho hai chữ này: ―Chữ nguyên 原 trong ―nguyên đạo‖được sử dụng như chữ bản本nghĩa là gốc vậy. Lấy gốc ở Đạo, bắt rễ ở Chân, ôm gọn cả thiên địa để xét khắp vạn vật cho nên mới gọi là ―nguyên đạo‖, nhân đó mới lấy hai chữ ―nguyên đạo‖ để đặt tên cho thiên ―Nguyên đạo huấn‖‖2. Cá nhân Cao Dụ coi chữ nguyên 原, chữ bản 本, chữ căn 根 là những chữ dùng thông với nhau. Cụ thể ông lấy chữ bản để chú giải cho chữ nguyên, còn bản và căn là những chữ vốn có thể dùng thông trong nhiều trường hợp. Quan điểm này của ông không phải là không có sự đồng vọng. Ngô Lâm Bá cho rằng: Lí Thiện, nhà chú giải đời Đường, khi chú thích Cao Đường phú 高唐賦 của Tống Ngọc 宋玉 đã chú thích chữ nguyên 原 thành chữ bản 本3. Lần theo gợi ý này, chúng tôi kiểm tra và nhận ra có sự nhầm lẫn, thực ra không phải Cao Đường phú mà là Thần nữ phú 神女賦 (cũng của Tống Ngọc) mới xuất hiện hiện tượng này. Trong chú giải cho câu văn ―Thời dung dĩ vu động hề, chí vị khả hồ đắc nguyên 時容以微動兮, 志未可乎得原‖4, Lí Thiện đã chú: 原, 本也―nguyên, bản dã‖5. Điều này cho thấy trong khoảng từ đời Hán đến đời Đường quan điểm về sự thông giải lẫn nhau của hai Nguyên văn: 原本也,本道根真, 包裏天地, 以歷萬物. 故曰原道, 因以題篇 (Hoài Nam hồng liệt giải 淮南鴻烈解, Văn Uyên các Tứ khố toàn thư 淵閣四庫全書, quyển 1, tr.1) 3 Ngô Lâm Bá 吴林伯, Văn tâm điêu long nghĩa sớ 《文心雕龙》义疏, Vũ Hán đại học xuất bản xã 武汉大学出版社, 2002, tr.12 4 Lúc ấy trên khuôn mặt thanh thản của người thần nữ có những biến động tinh tế, khiến cho tâm chí của người đối diện không thể nào trở về như ban đầu được nữa. 2 5 Chiêu Minh thái tử Tiêu Thống 昭明太子蕭統 biên tập, Lí Thiện 李善 chú giải, Văn tuyển (60 quyển) 文選六十卷, Kim Đài Uông Lượng hiệu san bản 金臺汪諒校刊本, quyển 19, tr.10. chữ ―nguyên‖và ―bản‖được thừa nhận phổ biến vì những chú thích này thường rất ngắn gọn và viết theo cách mà những nhà chú giải cho rằng ―điều đó ai cũng biết‖. Song liệu việc chú giải cho chữ nguyên 原 có đơn giản như vậy? Vào đời Hán, khi biên soạn Thuyết văn giải tự 說文解字, Hứa Thận 許慎 cho rằng: nguyên (cổ tự của chữ nguyên (原)) là chỉ cội nguồn của dòng nước. Nguyên văn: ―nguyên, thủy bản dã‖ , 水本也6. Cũng thông qua Thuyết văn giải tự, chúng tôi thống kê được Hứa Thận còn dùng thêm khoảng 18 – 19 lần chữ nguyên 原 nữa. Ngoại trừ những trường hợp được sử dụng với mục đích để thiết âm, chỉ địa danh7 và tên người ra thì còn có hai lần chữ nguyên 原 được sử dụng với nghĩa là nguồn nước. Một lần là khi Hứa Thận dùng bốn chữ ―phát nguyên chú hải 發原注海‖(nghĩa là ―dòng nước xuất phát ra từ nguồn nước và đổ vào biển‖) để chú thích cho chữ hà 河8. Lần thứ hai là trong chú thích cho chữ tuyền 泉, Hứa Thận viết: ―tuyền, thủy nguyên dã 泉, 水原也‖nghĩa: ―suối đó là nguồn của những dòng sông‖9. Khảo sát này cho ta thấy: cách dùng chữ nguyên 原, chữ bản 本 với ý nghĩa là nguyên 源 (nguồn nước) đã xuất hiện vào thời của Hứa Thận, và rằng ta có thể chấp nhận việc dùng thông nhau ba chữ này ít nhất là từ thời kì của Hứa Thận trở đi. Hán ngữ đại từ điển 漢语大詞典 tỏ ra chưa thực sự thấu đáo khi chỉ dừng lại ở việc cho rằng chữ chữ nguyên 原 chính là cổ tự của chữ nguyên 源 và có một nghĩa là 6 Một số văn bản khác ghi là ―Nguyên: thủy tuyền bản dã : 水泉本也‖. Đoạn Ngọc Tài khi chú giải cho Thuyết văn giải tự cho rằng chữ tuyền 泉 là không đúng nên ông đã cắt bỏ không sử dụng. Về cơ bản là cắt bỏ hay không cắt bỏ không ảnh hưởng nhiều đến ý tưởng của Hứa Thận cả (Hứa Thận viết, Đoạn Ngọc Tài chú, Thuyết văn giải tự chú 說文解字注, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 上海古籍出版社, 1981, tr.569). 7 Đó chính là chỉ tên đất Bình Nguyên 平原, Thái Nguyên 太原, đất Nguyên 原地. Ta thấy bản thân trong cách gọi đã hàm một nghĩa của chữ nguyên là vùng đất cao bằng phẳng rồi. 8 Hứa Thận viết, Đoạn Ngọc Tài chú, Thuyết văn giải tự chú, sđd, tr.516. 9 Hứa Thận viết, Đoạn Ngọc Tài chú, Thuyết văn giải tự chú, sđd, tr.569 nguồn nước10. Trung Hoa đại tự điển (súc ấn bản) 縮本中華大字典11 và Hán ngữ đại tự điển 漢語大字典12 thì thừa nhận và trích dẫn Thuyết văn giải tự theo cách lí giải của Đoạn Ngọc Tài 段玉裁. Đoạn đầu tiên của Nguyên đạo huấn viết: ―Đạo cao đến mức không thể nào vươn đến được chiều cao của nó, nó sâu đến mức người ta không có cách nào lường được độ sâu của nó. Đạo ôm gọn trong mình nó cả trời và đất, vạn vật đều được sự vô hình của nó phú bẩm cho một hình hài. Những nguồn nước chảy trên mặt đất, những dòng suối vọt ra từ các khe, ban đầu tất cả đều rỗng không, sau rồi mới dần dần đầy lên, ào ạt, gấp gáp, tuôn chảy không ngừng. Cho nên đạo có thể lấp đầy khoảng giữa trời và đất, có thể đổ đầy bốn bể, lan xa đến tận cõi vô cùng mà siêu việt thời gian không hề biết thế nào là sớm là muộn‖13. Những lời này là đoạn đầu tiên của Nguyên đạo huấn. Sự hình dung về đạo của Lưu An khi viết Hoài Nam tử trong đoạn trích trên được gắn với hình ảnh của nước, vì vậy ―Nguyên đạo‖trong bản ý của Lưu An gắn nhiều hơn với cách giải thích về chữ nguyên 原 như là nguồn chứ không phải chữ nguyên 原 như là bản 本 (chữ bản đồng nghĩa với chữ căn 根 nghĩa là gốc). Khi nghĩ đến việc đặt tên cho thiên đầu tiên của Hoài Nam tử là Nguyên đạo huấn có lẽ trong tưởng tượng của Lưu An thì Nguyên đạo là một quá trình tìm về nguồn, chữ nguyên 原 phải được dùng thông với chữ nguyên 源 có nghĩa động từ nghĩa là lấy nguồn, tức lấy nguồn ở đạo (nguyên vu đạo 源于道) chứ không phải là một quá trình là bắt rễ, lấy căn bản La Trúc Phong 罗竹风 chủ biên, Hán ngữ đại từ điển, Thượng Hải từ thư xuất bản xã上海辞书出版社, 1986, tr.927. 11 Nhóm của Từ Nguyên Cáo 徐元誥, Trung Hoa đại tự điển (súc ấn bản), quyển thượng, Trung Hoa thư cục 中華書局, năm Dân Quốc thứ 5 (1915), tr.169. 12 Hán ngữ đại tự điển ủy viên hội 《汉语大字典》编委会 biên soạn, Hán ngữ đại tự điển, quyển 1, Tứ Xuyên từ thư xuất bản xã 四川辞书出版社, 1986, tr.81. 13 Nguyên văn: 高不可際, 深不可測, 包裏天地, 稟授無形. 源流泉浡, 沖而徐盈, 混混汨汨. 故植之而塞于天地. 橫之而彌于四海. 施之無窮而無所朝夕. (Hoài Nam hồng liệt giải, sđd, quyển 1, tr.12). 10 ở đạo (bản vu đạo 本于道) như cách lí giải của Cao Dụ buộc ta phải nghĩ như vậy. Lấy nguồn và lấy căn bản là hai thái độ khác nhau đối với đạo. Mặt khác như trên đã đề cập đến, cá nhân Cao Dụ coi chữ nguyên 原, chữ bản 本, chữ căn 根là những chữ thông nhau. Chúng tôi đã bỏ công ra tìm kiếm song chưa thấy được hiện tượng dùng như vậy trước Cao Dụ14. Gần ba trăm năm sau khi Cao Dụ, thông qua việc chú giải Hoài Nam tử, xác lập một nghĩa mới cho chữ nguyên 原 thì đến thời Lưu Hiệp đã song song tồn tại những cách lý giải về chữ nguyên 原 như là nguyên 源, như là bản 本 đồng thời lại như là căn 根. Lưu Hiệp hẳn đã phải chịu ảnh hưởng của Cao Dụ khi ông chọn cách lí giải là bản cho chữ nguyên 原. Trong thiên ―Tự chí‖序志 của Văn tâm điêu long 文心雕龍, Lưu Hiệp viết: ―Đại thể, việc sáng tác Văn tâm điêu long là để bàn về chuyện văn chương phải lấy căn bản nơi Đạo, phải coi các bậc thánh hiền làm thầy, phải thể nghiệm những giá trị của kinh điển và phải có được sự biến hóa khéo léo của ―Li Tao‖: 蓋《文心》之作也, 本乎道, 師乎聖, 體乎經, 酌乎緯, 變乎騷‖15. 2. 14 Chính văn thiên “Nguyên đạo”. Những dẫn chứng thường được các học giả Trung Quốc đưa ra như một minh chứng cho hiện tượng ―nguyên – bản thông nhau‖như trong sách Tuân Tử 荀子, thiên Phi thập nhị tử 非十二子: ―Tuy nhàn nhã song không vì thế mà lười biếng, tuy vất vả song không phải vì thế mà buông thả ưu tư, lúc nào cũng hướng về những chuẩn tắc ban đầu tối thượng để tùy theo đó mà ứng biến, luôn luôn đạt được sự thích đáng đến cùng, người như thế mới có thể coi là thánh nhân 佚而不惰, 勞而不優, 宗原應變, 曲得其宜, 如是然後聖人也‖(Vương Tiên Khiêm 王先謙 soạn, Thẩm Khiếu Hoàn 沈嘯寰 và Vương Tinh Hiền 王星賢 điểm hiệu, Tuân tử tập giải 荀子集解, Trung Hoa thư cục 中華書局, 1988, tr.105) thì chúng tôi đều có thể lí giải nguyên 原 như là nguyên 源không nhất thiết là chữ dùng thông của chữ bản 本 15 Khi dịch Văn tâm điêu long sang tiếng Anh, những học giả phương Tây đã hiểu về nguyên 原 như là Source. Vincent Yu-chung Shih dịch ―nguyên đạo‖thành ―On Tao, the Source‖(Vincent Yu-chung Shih, The literary mind and the Carving of Dragons, The Chinese University Press, 1983, tr.13). Còn Stephem Owen thì lại dịch là ―Its Source in the Way‖(Stephen Owen (宇文所安), Vương Bách Hoa王柏华Đào Khánh Mai陶庆梅dịch, Văn luận Trung Quốc: dịch tiếng Anh và bình luận中国文论英译与评论, Thượng Hải Xã hội khoa học viện xuất bản xã上海社会科学院出版社, 2002, tr.190, bản song ngữ Trung Anh). Như vậy dễ thấy rằng có sự thống nhất giữa hai nhà nghiên cứu coi chữ source là một chữ tương ứng trong tiếng Anh của chữ nguyên. Chữ source trong tiếng Anh vốn xuất phát từ chữ surge và tất cả chúng đều có gốc Latin là surgent hoặc surgere nghĩa là sự xuất hiện của một cái gì đó (Partridge, Eric, Origins: A Short Etymological Dictionary of Modern English 4Th Ed, London, New York Taylor & Francis Routledge, 1966, tr.642). Sau này chữ Source được sử dụng với hàm nghĩa là ―nguồn‖, là ―điểm phát xuất‖của một con sông hay một dòng nước, về mặt ý nghĩa thì rõ ràng rất tương đồng với bản nghĩa của chữ nguyên 原, song chưa chắc cách dịch này có thể diễn tả được chuẩn với những gì mà Lưu Hiệp muốn truyền đạt. Đoạn 1: 文之為德也大矣, 與天地並生者何哉? 夫玄黃色雜, 方圓體分, 日月疊璧, 以垂麗天之象;山川煥綺, 以鋪理地之形; 此蓋道之文也. 仰觀吐曜, 俯察含章, 高卑定位, 故兩儀既生矣; 惟人參之, 性靈所鍾, 是謂三才. 為五行之秀氣, 實天地之心, 心生而言立, 言立而文明, 自然之道也. Văn chi vi đức [1] dã đại hĩ, dữ thiên địa tịnh sinh giả [2] hà tai ? Phù huyền hoàng sắc tạp, phương viên thể phân [3], nhật nguyệt điệp bích, dĩ thuỳ lệ thiên chi tượng [4]; sơn xuyên hoán ỷ, dĩ phô lí địa chi hình [5]. Thử cái đạo chi văn dã [6]. Ngưỡng quan thổ diệu, phủ sát hàm chương [7], cao ti định vị, cố lưỡng nghi kí sinh hĩ [8]; duy nhân tham chi, tính linh sở chung, thị vị tam tài [9]. Vi ngũ hành chi tú khí, thực thiên địa chi tâm [10], tâm sinh nhi ngôn lập, ngôn lập nhi văn minh, tự nhiên chi đạo dã [11]. Đoạn 2: 旁及萬品, 動植皆文, 龍鳳以藻繪呈瑞, 虎豹以炳蔚凝姿; 雲霞雕色, 有踰畫工之妙; 草木賁華, 無待錦匠之奇; 夫豈外飾, 蓋自然耳. 至於林籟結響, 調如竽瑟; 泉石激韻, 和若球鍠; 故形立則章成矣, 聲發則文生矣. 夫以無識之物, 鬱然有彩, 有心之器, 其無文歟! Bàng cập vạn phẩm, động thực giai văn [12], long phượng dĩ tháo hội trình thụy, hổ báo dĩ bính uý ngưng tư[13]; vân hà điêu sắc, hữu du họa công chi diệu [14]; thảo mộc phần hoa, vô đãi cẩm tượng chi kì[15], phù khởi ngoại sức, cái tự nhiên nhĩ [16]. Chí ư lâm lại kết hưởng, điệu như vu sắt; tuyền thạch kích vận, hoà nhược cầu hoàng [17]; cố hình lập tắc chương thành hĩ, thanh phát tắc văn sinh hĩ [18]. Phù dĩ vô thức chi vật, uất nhiên hữu thái, hữu tâm chi khí, kỳ vô văn dư [19]! Đoạn 仲尼翼其終. 3: 人文之元, 肇自太極, 而乾坤兩位, 幽讚神明, 易象惟先. 獨制《文言》. 庖犧畫其始, 言之文也, 天地之心哉!若迺河圖孕乎八卦, 洛書韞乎九疇, 玉版金鏤之實, 丹文綠牒之華, 誰其尸之, 亦神理而已. Nhân văn chi nguyên, triệu tự thái cực, u tán thần minh, Dịch tượng duy tiên [20]. Bào Hi hoạ kỳ thuỷ, Trọng Ni dực kỳ chung [21]. Nhi càn khôn lưỡng vị, độc chế Văn ngôn [22]. Ngôn chi văn dã, thiên địa chi tâm tai! [23] Nhược nãi Hà đồ dựng hồ bát quái, Lạc thư uẩn hồ cửu trù [24], ngọc bản kim lũ chi thực, đan văn lục điệp chi hoa [25], thuỳ kì thi chi, diệc thần lí nhi dĩ [26] . Đoạn 4: 自鳥迹代繩, 文字始炳, 炎皞遺事, 紀在《三墳》, 而年世渺邈, 聲采靡追. 唐虞文章, 則煥乎為盛. 元首載歌, 既發吟詠之志; 益稷陳謨, 亦垂敷奏之風. 夏后氏興, 業峻鴻績, 九序惟歌, 勳德彌縟. 逮及商周, 文勝其質. 《雅》《頌》所被, 英華日新. 文王患憂, 《繇辭》炳曜, 符采複隱, 精義堅深. 重以公旦多材, 振其徽烈, 制《詩》緝《頌》, 斧藻群言. 至夫子繼聖, 獨秀前哲, 鎔鈞《六經》, 必金聲而玉振; 雕琢情性, 組織辭令, 木鐸啟而千里應, 席珍流而萬世響, 寫天地之輝光, 曉生民之耳目矣. Tự điểu tích đại thằng, văn tự thuỷ bính [27], Viêm Hạo di sự, kỉ tại Tam phần, nhi niên thế diểu mạo, thanh thái mị truy [28]. Đường Ngu văn chương, tắc hoán hồ vi thịnh [29]. Nguyên thủ tải ca, kí phát ngâm vịnh chi chí [30], Ích Tắc trần mô, diệc thuỳ phu tấu chi phong [31]. Hạ Hậu thị hưng, nghiệp tuấn hồng tích, cửu tự duy ca, huân đức di nhục [32]. Đãi cập Thương Chu, văn thắng kỳ chất [33]. Nhã Tụng sở bị, anh hoa nhật tân [34]. Văn Vương hoạn ưu, Diêu từ bính diệu, phù thái phức ẩn, tinh nghĩa kiên thâm [35]. Trùng dĩ Công Đán đa tài, chấn kỳ huy liệt [36], chế Thi tập Tụng, phủ tảo quần ngôn [37]. Chí Phu tử kế thánh, độc tú tiền triết[38], dung quân Lục kinh, tất kim thanh nhi ngọc chấn [39], điêu trác tình tính, tổ chức từ lệnh [40], mộc đạc khải nhi thiên lí ứng, tịch trân lưu nhi vạn thế hưởng [41], tả thiên địa chi huy quang, hiểu sinh dân chi nhĩ mục hĩ [42]. Đoạn 5: 爰自風姓, 暨于孔氏, 玄聖創典, 素王述訓, 莫不原道心以敷章, 研神理而設教, 察人文以成化; 取象乎《河》《洛》, 然後能經緯區宇, 問數乎蓍龜, 彌綸彝憲, 觀天文以極變, 發揮事業, 彪炳辭義. 故知道沿聖以垂文, 聖因文而明道, 旁通而無涯, 日用而不匱.《易》曰: 「鼓天下之動者存乎辭」. 辭之所以能鼓天下者, 迺道之文也. Viên tự Phong tính, kí vu Khổng thị, huyền thánh sáng điển, tố vương thuật huấn [43], mạc bất nguyên đạo tâm dĩ phu chương, nghiên thần lí nhi thiết giáo [44], thủ tượng hồ Hà Lạc, vấn số hồ thi quy, quan thiên văn dĩ cực biến, sát nhân văn dĩ thành hoá [45]; nhiên hậu năng kinh vĩ khu vũ, di luân di hiến [46], phát huy sự nghiệp, bưu bính từ nghĩa [47]. Cố tri đạo duyên thánh dĩ thuỳ văn, thánh nhân văn nhi minh đạo [48], bàng thông nhi vô nhai, nhật dụng nhi bất quĩ [49]. Dịch viết: ―Cổ thiên hạ chi động giả tồn hồ từ‖. Từ chi sở dĩ năng cổ thiên hạ giả, nãi đạo chi văn dã [50]. Đoạn 6: 贊曰: 道心惟微, 神理設教. 光采玄聖, 炳燿仁孝. 龍圖獻體, 龜書呈貌. 天文斯觀, 民胥以傚. Tán viết [51]: Đạo tâm duy vi, thần lí thiết giáo [52]. Quang thái huyền thánh, bính diệu nhân hiếu [53]. Long đồ hiến thể, quy thư trình mạo [54]. Thiên văn tư quan, dân tư dĩ hiệu [55]. 3. Thông diễn chính văn thiên “Nguyên đạo” [1] Văn chi vi đức 文之為德 là một kết cấu còn gây nhiều tranh cãi. Người ta tìm kiếm và chỉ ra trong rất nhiều trường hợp cấu trúc vi đức được sử dụng trong thư tịch Trung Quốc trước và sau Lưu Hiệp. Trước Lưu Hiệp người ta thường hay nhắc đến trường hợp tương tự trong thiên ―Ung dã‖雍也 của sách Luận ngữ 論語: ―Trung dung chi vi đức dã, kì chí hĩ hồ‖中庸之為德也, 其至矣乎!16. Rồi thiên Trung Dung 中庸 trong sách Lễ kí 禮記: ―Quỷ thần chi vi đức kì thịnh hĩ hồ‖鬼神之為德, 其盛矣乎!17. Còn một ví dụ nữa đó là trong Qua phú 瓜賦 của 16 Luận ngữ chú sớ 論語注疏 trong Thập tam kinh chú sớ chỉnh lí bản (bản chữ phồn thể ) 十三經注疏整理本, Bắc Kinh đại học xuất bản xã 北京大學出版社, 2000, tr.91 17 Lễ kí chính nghĩa 禮記正義, trong Thập tam kinh chú sớ chỉnh lí bản, sđd, tr.1675 Lục Cơ 陸機: ―Giai tai! Qua chi vi đức dã‖佳哉!瓜之為德也18. Sau Lưu Hiệp thì cụm cấu trúc X + 之為德 đã được sử dụng cực kì phổ biến theo kiểu ―Ngọc chi vi đức‖玉之為德, ―Khiêm chi vi đức‖謙之為德, ―Thu chi vi đức‖秋之為德, ―Tam công chi vi đức‖三公之為德; ―Ngũ đế chi vi đức‖五帝之為德, ―Tửu chi vi đức‖酒之為德, ―Nghiêu chi vi đức‖堯之為德, ―Quân tử chi vi đức‖君子之為德… Nghiên cứu và lí giải về câu ―văn chi vi đức‖đã chiếm nhiều giấy mực của các nhà nghiên cứu. Cung Thế Học 龚世学19 đã tiến hành tổng thuật những ý kiến này. Chúng tôi không tiến hành tổng thuật lại mà chỉ xin đưa ra luôn ý kiến cá nhân của mình. Trên bình diện ngữ pháp thì ―văn chi vi đức‖có thể được hiểu như ―văn là cái đức‖, điều đó không sai nếu câu văn được xét một cách biệt lập. Song hành ngôn văn chương cổ điển thường phải được đặt trong môi trường văn hóa diễn đạt của đương thời mới có thể hiểu được ý tưởng của tác giả muốn trình bày. Nếu hiểu ―văn là một cái đức‖như một số bản dịch trước đây thì quan điểm đó sẽ đặt vào đâu trong mạch lí luận của Nguyên đạo, và nếu như văn là một cái đức thì nó sẽ liên quan gì đến việc cùng được sinh ra với trời đất ? Trước tiên cần phải nói qua về chữ đức 德. Tự dạng tối cổ của chữ đức tượng hình một cành cây mọc ra từ một con mắt. Hứa Thận trong Thuyết văn giải tự hình dung chữ đức với nghĩa là thăng 升. Đoạn Ngọc Tài khi chú giải cho Thuyết văn giải tự ông khẳng định rằng chữ thăng cần phải hiểu như chữ đăng 登 nghĩa là một vận động từ dưới lên, là mọc (với cây cối)20. Về sau này chữ đức từ cơ sở của nghĩa gốc đã tiếp thu thêm những nội hàm mới khác. Khi được dịch sang ngôn ngữ 18 Vương Vân Ngũ 王雲五 chủ biên, Tùng thư tập thành sơ biên 叢書集成初編 – Lục sĩ hành tập phụ trát kí 陸士衡集附札記, Thương vụ ấn thư quán 商務印書館, Dân Quốc 民國 thứ 25 (1935), tr.6 19 Cung Thế Học 龚世学, ―Bình luận và phân tích các chú giải của các nhà cho ―văn chi vi đức‖của thiên Nguyên đạo‖《原道篇》―文之为德‖各家注解评析, Văn học lí luận nghiên cứu 文学理论研究 số 11, 2006, tr.85-86 20 Hứa Thận 許慎 soạn, Đoạn Ngọc Tài 段玉裁 chú, Thuyết văn giải tự chú 說文解字注, Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 上海古籍出版社1981, tr.76. phương Tây cụ thể là tiếng Anh chữ đức được dịch thành virtue nghĩa là đức hạnh, phẩm chất21, hoặc là inner power tức là năng lượng ẩn tàng22. Về ý kiến cá nhân mà nói, chúng tôi nghiêng về cách dịch của Stephen Owen hơn. Hiểu đức như một khái niệm thuộc về đạo đức hay phẩm chất, đức hạnh, luân lí là một cách hiểu chưa thực sự sâu sắc. Đức trong quan điểm của chúng tôi khi đọc Văn tâm điêu long có hàm chứa yếu tố của một nguồn năng lượng siêu hình nằm sâu trong nhân thể. Và vi đức 為德 như vậy mang hàm nghĩa gì? Chữ vi 為 là một chữ tượng hình. Cổ tự ghi chép lại cho thấy chữ vi vốn là chữ tượng hình một con chuột đang ở trong tư thế hoạt động cực kì năng động . Bởi vậy chữ vi còn có thể hiểu như là hoạt động hay một hành động có tính hướng ngoại. Chữ đức như trên đã nói là một dạng thức năng lượng ẩn bên trong. Vi đức chính là sự phát động có tính hướng ngoại của cái đức nội tại. Cũng không phải là vô tình mà Chu Hi, đại diện của Tân Nho gia (Neo-Confucian) đời Tống 宋, khi chú giải cho Trung Dung 中庸 lúc gặp phải trường hợp của câu văn ―Quỷ thần chi vi đức kì thịnh hĩ hồ‖鬼神之為德, 其盛矣乎 thì ông lại hình thành những liên tưởng về ―tính tình công hiệu‖. Nguyên văn của Chu Hi: ―Vi đức do ngôn tính tình công hiệu‖為德猶言性情功效23. Chu Hi cho rằng chữ ―vi đức‖nói đến sự phát xuất ra bên ngoài, sự thể hiện của tính tình và trong ngữ cảnh của câu văn này thì tính tình chính là cái đức của quỷ thần, cái có thể khiến cho người ta ăn chay, tẩy rửa bản thân và mặc lễ phục để thờ phụng. Cái vi đức của quỷ thần được thể hiện thông qua ảnh hưởng của nó đối với thái độ kính cẩn của người hành lễ. Và như vậy nó chính là công hiệu của cái đức, cái năng lượng bên trong của quỷ thần. Vì vậy văn chi vi đức theo quan điểm của chúng tôi đó chính là cái đức phát lộ ra của văn. [2] Dữ thiên địa tịnh sinh giả hà tai? 與天地並生者何哉? Câu văn này 21 Vincent Yu-chung Shih, The literary mind and the Carving of Dragons, sđd, tr.13. Stephen Owen viết, Vương Bách Hoa 王柏华 và Đào Khánh Mai 陶庆梅 dịch, Văn luận Trung Quốc: dịch tiếng Anh và bình luận 中国文论英译与评论, Thượng Hải xã hội khoa học viện xuất bản xã 上海社会科学院出版社, 2002, tr.191, bản song ngữ Trung Anh. 23 Chu Hi chú, Trung dung chương cú tập chú 中庸章句集注, Bắc Kinh Trung Quốc thư điếm 北京中國書店, tr.6. 22 thường được chú thích như một câu văn chịu ảnh hưởng của Tả truyện24 ―Lễ chi khả dĩ vi quốc dã, cửu hĩ, dữ thiên địa tịnh‖禮之可以為國也, 久矣, 與天地並. Thực ra không ai chắc là lễ và thiên địa ―tịnh‖(tức là ―cùng‖) này lại là ―tịnh sinh‖cả. Thậm chí và đời Đường khi làm chính nghĩa cho Xuân Thu Tả truyện thì Khổng Dĩnh Đạt 孔穎達 cũng không cho rằng lễ và trời đất cùng được sinh ra mà ông chỉ hàm ý rằng lễ là sản phẩm tất yếu sinh ra từ cái gốc lớn là trời và đất mà thôi. Lập luận của ông khẳng định điều đó: ―có trời đất sẽ có nhân dân, có nhân dân thì sẽ có phụ tử, quân thần; cha con yêu thương lẫn nhau, quân thần kính trọng lẫn nhau; yêu thương và kính trọng, đó chính là cái gốc của lễ‖是言有天地, 即有人民, 有人民, 即有父子, 君臣. 父子相愛, 君臣相敬, 敬愛為禮之本25. Quan điểm của Lưu Hiệp coi văn cùng được sinh ra với trời đất là một quan điểm rất độc đáo mà chúng tôi sẽ bàn luận ở những đoạn kế tiếp. [3] Phù huyền hoàng sắc tạp, phương viên thể phân 夫玄黃色雜, 方圓體分: Câu văn được gợi cảm hứng từ Chu dịch 周易 và từ cảm quan của người Trung Quốc cổ đại về thế giới. Chu dịch quẻ Khôn 坤, phần Văn ngôn 文言 viết: ―Phàm là sắc đen và sắc vàng lẫn vào với nhau đấy chính trạng thái của trời và đất còn ở trạng thái hỗn tạp. Trời thì có sắc đen còn đất có sắc vàng‖夫玄黃者, 天地之雜也. 天玄而地黃26. Còn ý tưởng về ―thiên viên địa phương‖天圓地方 là thuộc về vũ trụ quan nguyên thủy Trung Quốc, không nhất thiết phải là chịu ảnh hưởng từ bất kì kinh điển nào cả. Chúng ta thấy quan điểm này xuất hiện rất nhiều lần trong sách vở Trung Quốc trước Lưu Hiệp. Người ta có thể kể ra đây những trường hợp như Trang Tử 莊子, Hoài Nam Tử, Lễ kí,… [4] Nhật nguyệt điệp bích dĩ thùy lệ thiên chi tượng 日月疊璧, 24 Xuân thu tả truyện chính nghĩa 春秋左傳正義, trong Thập tam kinh chú sớ chỉnh lí bản, sđd, tr.1702 Xuân thu tả truyện chính nghĩa, sđd, tr.1703. 26 Chu dịch chính nghĩa周易正義, trong Thập tam kinh chú sớ chỉnh lí bản, sđd, tr.39 25 以垂麗天之象. Câu ―nhật nguyệt điệp bích‖日月疊璧 có nguồn gốc từ sách Trang tử 莊子 thiên ―Liệt ngự khấu‖列御寇 nghĩa là ―coi mặt trăng, mặt trời như đôi ngọc bích‖以日月為連璧27. Thời Đông Hán 東漢, Hoàn Đàm 桓譚 khi viết sách Tân luận 新論 cũng diễn đạt một ý tưởng cũng tương tự: ―Mặt trời mặt trăng như đôi ngọc bích‖日月若連璧. Còn câu ―dĩ thùy lệ thiên chi tượng‖以垂麗天之象 là ngữ ý xuất hiện trong Chu dịch hào từ của quẻ Li 離: ―Mặt trời, mặt trăng thể hiện được cái tượng của bầu trời, trăm loài thảo mộc thể hiện được cái lí của mặt đất‖日月麗乎天, 百穀草木麗乎土28. [5] Sơn xuyên hoán ỷ, dĩ phô lí địa chi hình 山川煥綺, 以鋪理地之形: “Hoán ỷ‖煥綺là từ dùng để mô tả lụa gấm đẹp đẽ, ở đây được dùng để so sánh với vẻ đẹp của núi sông. Phô lí và thùy lệ là một cặp có tính đối ngẫu. Chữ lí 理ở đây tương đương với chữ phân分trong từ ―phân bố‖. [6] Thử cái đạo chi văn dã 此蓋道之文也. Vincent Yu-chung Shih, The literary mind and the Carving of Dragons dịch câu này thành ―những biểu hiện đó tự thân chúng trên thực tế là văn của Đạo‖(There are, in fact, the wen of Dao itself). Chúng tôi nghiêng về cách dịch này. Stephen Owen, Văn luận Trung Quốc: dịch tiếng Anh và bình luận dịch thành: ―những biểu hiện đó chính là hình dáng hình thức (sự sắp đặt hay thậm chí là dạng thức vật chất) của Đạo‖(There are the pattern of the Way), cách dịch này tuy không phải là không thú vị nhưng dù thế nào đi chăng nữa thì Đạo không bao giờ là The Way và Văn không bao giờ là Pattern. [7] Ngưỡng quan thổ diệu, phủ sát hàm chương 仰觀吐曜, 俯察含章: Xuất phát từ trong Chu dịch – ―Hệ từ thượng‖繫辭上: ―ngẩng mặt mà xem xét thiên 27 Trần Cổ Ứng 陳鼓應 chú thích, Trang tử kim chú kim dịch莊子今注今譯, Trung Hoa thư cục 中華書局, 1983, tr.850. 28 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.158. văn, cúi đầu để quan sát địa lí‖仰而觀于天文, 俯以察于地理29. Ngô Lâm Bá cho biết ông bắt gặp hình ảnh ―thổ diệu‖吐曜 trong tác phẩm Thuấn Hoa phú 舜華賦 của Phó Hàm 傅咸: ―Hàm huy thổ diệu‖含暉吐曜, còn hình ảnh ―hàm chương‖含章 chính là từ ngữ của quẻ Khôn trong Chu dịch hào Lục tam 六三: ―hàm chương khả trinh‖含章可貞30. [8] Cao ti định vị có lưỡng nghi kí sinh hĩ 高卑定位, 故兩儀既生矣. Câu văn chịu ảnh hưởng của ―Hệ từ thượng‖– Chu dịch: ―thiên tôn địa ti, càn khôn định hĩ; cao ti dĩ trần, quý tiện định hĩ‖天尊地卑, 乾坤定矣; 高卑以陳, 貴賤位矣‖31 (Trời ở vị trí cao còn đất ở vị trí dưới thấp, càn khôn nhờ vậy mà được định vị; cao thấp đã có vị trí thích hợp mà vật quý vật hèn cũng có vị trí của chúng). Cũng ―Hệ từ thượng‖viết rằng: ―Thị cố Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi‖是故易有太极是生兩儀 nghĩa là: ―Vì thế mà Dịch có Thái Cực, Thái Cực sinh ra Lưỡng nghi‖32 [9] Duy nhân tham chi, tính linh sở chung, thị vị tam tài 惟人參之, 性靈所鍾, 是謂三才. Duy惟 là phát ngữ từ. Chữ tham 參 có nhiều ý kiến trái chiều nhau trong lí giải. Những người như La Lập Càn 羅立乾, Lí Chấn Hưng 李振興 cho rằng đó là ―tham dự phối hợp mà cùng với trời đất thành ba 參與, 配合而成三‖33. Quan điểm này không sai, nhưng có lẽ chưa đánh giá đúng giá trị tư tưởng của chữ tham. Một số ý kiến khác như Vương Vận Hi 王运熙, Chu Phong 周锋 lại cho rằng 29 Hệ từ thượng của Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.312. Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.34. 31 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.302. 32 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr 340. 33 La Lập Càn 羅立乾, Lí Chấn Hưng 李振興, Tân dịch Văn tâm điêu long, Đài Loan: Tam Dân thư cục 臺灣三民書局, 2004, tr.4. 30 chữ 參 chính là 三 và phải đọc thành tam nghĩa là ―số ba‖34. Cách hiểu này khiến cho việc diễn dịch câu văn trên thành ―con người cùng với trời đất tạo thành ba‖. Cách hiểu này cũng bỏ qua những yếu tố siêu hình trong lập luận của Lưu Hiệp. Ngô Lâm Bá thì lại hiểu chữ 参là ―sam tạp‖掺杂 nghĩa là pha trộn35. Chúng tôi cho rằng chữ tham 參ở đây chính là tham tán hóa dục 參贊化育. Ta có gặp trong Trung Dung 中庸 một ý tưởng về vai trò của con người (mà thánh nhân là đại diện tiêu biểu nhất) đối với sự hóa sinh của trời đất: ―Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kì tính. Năng tận kì tính tắc năng tận nhân chi tính, năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính, năng tận vật chi tính tắc khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục, khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục tắc khả dĩ dữ thiên địa tham‖唯天下至誠, 為能盡其性.能盡其性, 則能盡人之性; 能盡人之性, 則能盡物之性; 能盡物之性, 則能贊天地之化育; 能贊天地之化育, 則可以與天地參矣 (Chỉ có bậc chí thành trong thiên hạ mới có thể hiểu đến cùng cực cái tính của họ, người có thể hiểu đến cùng cực cái tính của họ thì có thể hiểu đến cùng cực cái tính của người khác, hiểu đến cùng cực cái tính của người khác thì có thể hiểu đến cùng cực cái tính của vạn vật, người có thể hiểu cùng cực cái tính của vạn vật thì có thể tán trợ cho sự hóa dục của trời đất, người có thể tán trợ cho sự hóa dục của trời đất thì có thể dự vào, sánh ngang cùng trời đất). Trong Văn tâm điêu long khái niệm Tính linh xuất hiện 5 lần trong các thiên ―Nguyên đạo‖, ―Tông kinh‖, ―Tình thái‖, và ―Tự Chí‖. Khái niệm tính linh 性靈 là một khái niệm tương đối phức tạp. Người ta vẫn quen thuộc với ―Tính linh thuyết‖性靈說 và vai trò của ―Tam Viên‖―三袁‖: Viên Tông Đạo 袁宗道, Viên Hoành Đạo 袁宏道, Viên Trung Đạo 袁中道 những học giả của Công An phái Vương Vận Hi 王运熙, Chu Phong 周锋, Văn tâm điêu long dịch chú 文心雕龙译注 Thượng Hải cổ tịch xuất bản xã 上海古籍出版社, 1998, tr.3. 35 Ngô Lâm Bá, Văn tâm điêu long nghĩa chứng, sđd, tr.15. 34 公安派 đời Minh và Viên Mai 袁枚 học giả đời Thanh36. Lã Bân 吕斌 tác giả của chuyên luận ―Ai là người đã đề xướng ra thuyết tính linh‖是谁首倡―性灵‖说37 cho rằng Lưu Hiệp là người đặt những nền móng đầu tiên cho ―Tính linh thuyết‖. Ngay sau Lưu Hiệp, từ Tính linh lại xuất hiện trong Thi phẩm 詩品 của Chung Vinh 鍾嶸. Chung Vinh khi bình luận thơ của Nguyễn Tịch 阮籍 có cho rằng: ―tác phẩm của Vịnh hoài của Nguyễn Tịch có thể hun đào lên tính linh và khởi phát được những suy tư thầm kín‖而《咏怀》之作, 可以陶性灵, 发幽思38. Ngoài ra, khái niệm Tam tài 三才(材) xuất hiện lần đầu tiên trong Chu dịch, phần ―Hệ từ hạ‖39 với nghĩa là để chỉ bộ ba Thiên, Địa, Nhân. [10] Vi ngũ hành chi tú khí, thực thiên địa chi tâm 為五行之秀氣, 實天地之心. Ngũ hành 五行 xuất hiện lần đầu tiên trong sách Thượng thư 尚书 thiên ―Hồng phạm‖洪范 chỉ năm loại nguyên tố, theo người Trung Quốc cổ, là chất liệu sáng tạo ra thế giới là: thủy水, hỏa火, mộc木, kim金, thổ土. Quan điểm về con người như cái khí tốt đẹp nhất của ngũ hành không phải là từ Lưu Hiệp. Ta đọc thấy Một số bài viết gần đây về Tính linh thuyết có thể tham khảo là: Vương Lực Kiên 王力坚, ―Tính linh, Phật giáo, Sơn thủy – Những khảo sát mới về văn học thời Nam Triều‖性灵·佛教·山水──南朝文学的新考察, Hải Nam sư phạm học viện học báo (Nhân văn xã khoa học bản) 海南师范学院学报 (人文社科学版) kì 1 năm 2000, tr.58-64; Đan Hữu Phương 单有方, ―Thuyết tính linh và thuyết đồng tâm‖性灵说与童心说, Ân Đô học san 殷都学刊, kì 2 năm 2003, tr.76-77; Lưu Vạn Lí 刘万里, ―Tâm linh và tính linh – Luận về những điểm đặc biệt của văn học Vãn Minh và Tâm học Dương Minh‖心灵与性灵— 论阳明心学与晚明文学的特质, Học thuật giao lưu 学术交流, kì 10 tháng 10 năm 2003 tr.147-150; Tôn Ái Linh 孙爱玲, ―Bàn về ý nghĩa nhân văn của thuyết Tính linh‖论―性灵说‖之人文意义, Hạ Môn giáo dục học viện học báo 厦门教育学院学报 quyển 7 kì 3 tháng 9 năm 2005, tr.14-21; Đinh Tuấn Linh 丁俊玲, ―Phát phẫn bất bình – Luận về sự khởi nguyên của ý tưởng về sinh mệnh của thuyết tính linh‖发愤不平 — 论性灵说的生命意绪, Thượng Hải đại học học báo (Xã hội khoa học bản) 上海大学学报(社会科学版), quyển 13 kì 2 tháng 3 năm 2006, tr.152-155; Vương Hồng Lôi 王红蕾, ―Duyên khởi và phát sinh của thuyết Tính linh‖性灵说的缘起与发生, Xã hội khoa học tập san 社会科学辑刊, kì 1 năm 2007, tr.216-219; Khâu Thế Hồng 邱世鸿, ―Lí học và tính linh‖理学与性灵, Nghệ thuật bách gia 艺术百家, kì 5 năm 2007, tr.178179. 37 Lã Bân吕斌, ―Ai là người đã đề xướng ra thuyết tính linh‖是谁首倡―性灵‖说 in trên Quảng Tây sự viện học báo (Triết học xã hội khoa học bản) 广西师院学报(哲学社会科学版), quyển 20 kì 4, tháng 12 năm 1999, tr.109115. 38 Lã Đức Thân 吕德申, Chung Vinh Thi phẩm hiệu thích 钟嵘《诗品》校释, Bắc Kinh đại học xuất bản xã 北京大学出版社, 1986, tr.76. 39 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.375. 36 nó trong sách Lễ kí thiên ―Lễ vận‖禮運: ―Nhân giả thiên địa chi đức, âm dương chi giao, quỷ thần chi hội, ngũ hành chi tú khí dã 人者, 其天地之德, 陰陽之交, 鬼神之會, 五行之秀氣也‖40 tức ―người, đó là cái đức của trời đất, là sản phẩm của sự giao hòa hai khí âm dương, là sự hội tụ của hình thể và tính linh, là cái khí tinh túy đẹp đẽ của ngũ hành‖. Con người và vạn vật đều được tạo nên từ sự kết hợp giữa các yếu tố của ―ngũ hành‖. Khí là điều kiện quyết định nên sự tạo tác mà kết quả là sự khai sinh ra vạn vật. Khí thiêng tinh túy tốt lành sẽ thổi hồn vào năm nguyên tố và con người được sinh ra từ sự kết hợp đó. Ý tưởng về người như là ―thiên địa chi tâm‖天地之心là một ý tưởng cũng của Lễ kí và thiên ―Lễ vận‖41. Trong thiên này viết: ―Cố nhân giả, thiên địa chi tâm dã, ngũ hạnh chi đoan dã‖故人者, 天地之心也, 五行之端也 tức là ―người là cái tâm của trời đất và là đầu mối của ngũ hạnh: nhân nghĩa lễ trí tín‖42. Trong hình dung của Khổng Dĩnh Đạt đời Đường, trời đất thì bao trùm trên dưới bốn phương, con người ở giữa vũ trụ, mọi động tĩnh của con người đều cảm ứng với những vận động của vũ trụ, cho nên trời đất có con người cũng như cơ thể con người có trái tim. Đây không chỉ là một liên tưởng so sánh tương đồng và giản đơn. Chúng tôi cho rằng khi đưa ra ý tưởng về việc con người cảm ứng với những vận động của vũ trụ, Khổng Dĩnh Đạt hiểu rất rõ về mối liên hệ siêu hình giữa tam tài: thiên, địa, nhân. [11] Tâm sinh nhi ngôn lập, ngôn lập nhi văn minh, tự nhiên chi đạo dã 心生而言立, 言立而文明, 自然之道也: Tâm được hiểu như một nơi phát sinh ra hoạt động của cả tư duy và tình cảm, và tư duy tình cảm sẽ định hình ngôn ngữ. Khi ngôn ngữ được xác lập thì văn sẽ có được một hình thức biểu hiện rõ ràng, đấy là một tiến trình tự nhiên. Câu ―tự nhiên chi đạo dã‖自然之道也 có nhiều chiều hướng 40 Lễ kí chính nghĩa, sđd, tr.803. Thực ra thì ngữ ―thiên địa chi tâm‖đã xuất hiện rất sớm trong Chu dịch. Trong ―Thoán từ‖của quẻ Phục 復 có viết rằng: ―Phục, kì kiến thiên địa chi tâm hồ‖復, 其見天地之心乎? nghĩa là ―quay ngược lại với bản nguyên, có lẽ có thể thấy được cái tâm của trời đất chăng?‖. Song chúng tôi cho rằng câu văn này vô can với ý tưởng của Lưu Hiệp. 42 Lễ kí chính nghĩa, sđd, tr.814. 41 lí giải. Quãng độ năm 1914, Hoàng Khản 黄侃 khi giảng bài trên giảng đường của Đại học Bắc Kinh 北京大學 và Cao đẳng sư phạm Võ Xương 武昌高等師範學校43 đã đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về vấn đề này. Ông dựa trên một số lần xuất hiện của khái niệm ―tự nhiên‖và ―tự nhiên chi đạo‖trong Văn tâm điêu long để nghiêng về ý tưởng đạo trong Văn tâm điêu long là ―tự nhiên chi đạo‖. Cách hiểu đó dựa trên việc nhìn nhận khái niệm đạo từ khía cạnh siêu hình của nó. Sau này có rất nhiều người chịu ảnh hưởng của ông và trích dẫn ông để lập thành một phái trong lí giải về khái niệm đạo của Văn tâm điêu long. Có người, dựa trên ý tưởng của Hoàng Khản, cố gắng chứng minh ―tự nhiên chi đạo‖vốn xuất phát từ những giải thích của Đạo gia và tìm những cội nguồn trong kinh điển của Lão tử và Trang tử cho nó44. Chúng tôi tán thành hơn với cách giải thích rất bình dị của Ngô Lâm Bá đối với câu văn này: ―tự nhiên chi đạo‖chính là ―một quy luật, quá trình tự nhiên‖45. Lí do đó là ở đây mạch văn đang bàn về một tiến trình xuất hiện và phát triển của con người và văn. Sự diễn dịch chữ đạo như một tiến trình tự nhiên của vũ trụ là có thể chấp nhận được và logic. [12] Bàng cập vạn vật, động thực giai văn 旁及萬品, 動植皆文. Chữ bàng 旁 được Hứa Thận trong Thuyết văn giải tự giải thích rằng: ―bàng nghĩa là phổ 溥 tức là rộng rãi phổ biến‖46. Chữ phẩm 品 theo như Hán ngữ đại tự điển có ý nghĩa nghĩa tương đương với chữ loại 類47 nghĩa là loài, một nhóm vật nào đó. [13] Long phượng dĩ tảo hội trình thụy, hổ báo dĩ bính úy ngưng tư 龍鳳以藻繪呈瑞, 虎豹以炳蔚凝姿. Tảo 藻 vốn dùng để chỉ một loài cây thân cỏ sống dưới nước song có vẻ đẹp. Hội 繪 nghĩa là vẽ. Thụy 瑞 nghĩa là điềm lành. Trong niềm tin của người xưa cứ khi nào rồng phượng xuất hiện thì đó là biểu hiện Hoàng Khản 黃侃, Văn tâm điêu long trát kí 文心雕龍札記, Thượng Hải Trung Hoa thư cục 上海中華書局, năm 1962. 44 Lỗ Hạp 鲁峡, ―Những tìm tòi về khái niệm Đạo trong Văn tâm điêu long‖《文心雕龙》―道‖之探微, Lạc Dương sư phạm học viện học báo 洛阳师范学院学报, kì 6 năm 2004, tr.69-70. 45 Ngô Lâm Bá, Văn tâm điêu long nghĩa sớ, sđd, tr.15. 46 Đoạn Ngọc Tài 段玉裁 chú, Thuyết văn giải tự chú, sđd, tr.2. 47 Hán ngữ đại tự điển ủy viên hội biên, Hán ngữ đại tự điển, sđd, tr.615. 43 của sự tốt lành. Bính úy 炳蔚 nghĩa là rực rỡ, huy hoàng. Ngưng 凝 nghĩa gốc vốn là để chỉ sự đóng băng của nước, trong trường hợp này sử dụng với ý nghĩa là kết thành, tạo thành, ngưng đọng thành. Tư 姿 nghĩa là tư thái, hình thái. [14] Vân hà điêu sắc, hữu du họa công chi diệu 雲霞雕色, 有踰畫工之妙. Vân hà 雲霞 nghĩa là khói mây. Đọc đến câu ―vân hà điêu sắc‖, người ta vẫn hay liên tưởng đến câu văn của Bão Chiếu 鮑照 trong bài Đăng Đại Lôi ngạn dữ muội thư 登大雷岸與妹書: ―Thượng thường tích vân hà điêu cẩm nhục‖上常積雲霞雕錦縟 nghĩa là: ―Phía bên trên thường có nhiêu mây khói tạo nên những cảnh đẹp gấm vóc rực rỡ‖. Du 踰 nghĩa là vượt qua, hơn. Họa công 畫工 là thợ vẽ. [15] Thảo mộc phần hoa, vô đãi cẩm tượng chi kì 草木賁華, 無待錦匠之奇. Chữ phần 賁 trong trường hợp này có nghĩa dẫn thân là ―nảy nở‖. Sách Thượng thư 尚書 thiên ―Thang cáo‖湯誥 có viết ―phần nhược thảo mộc‖賁若草木 nghĩa là ―khoác lên vẻ ngoài giống như loài cây cỏ‖. Trong ―Tự quái‖序卦 Chu dịch có viết rằng: ―phần giả, sức dã‖賁者, 飾也 (phần nghĩa là trang sức vậy). Chữ hoa 華 ở đây được hiểu như chữ hoa 花 trong nghĩa chỉ ―bông hoa‖. Cẩm tượng 錦匠 chỉ những người thợ dệt lụa. [16] Phù khởi ngoại sức, cái tự nhiên nhĩ 夫豈外飾, 蓋自然耳. Ngoại sức ở đây là chỉ sự sắp đặt có tính nhân tạo từ bên ngoài khoác lên vạn vật. Trong quan điểm của Lưu Hiệp thì tự nhiên là yếu tố có tính chất nội tại mà bản thân vạn vật có sẵn. Văn cũng có văn của tự nhiên không phải chỉ với ý nghĩa là văn chương như chúng ta vẫn hiểu. [17] Chí ư lâm lại kết hưởng, điệu như vu sắt; tuyền thạch kích vận, hòa nhược cầu hoàng 至於林籟結響, 調如竽瑟; 泉石激韻, 和若球鍠. Lâm lại 林籟 dịch thành ―sáo rừng‖. Sách Trang tử 莊子 thiên ―Tề vật luận‖齊物論 từng nói đến Nhân lại 人籟 tức ―sáo người‖, Thiên lại 天籟 tức ―sáo trời‖và Địa lại 地籟 tức ―sáo đất‖. Lưu Hiệp nói về Lâm lại với cách dùng tương tự, chỉ tiếng gió thổi qua cây rừng nghe như tiếng sáo của con người. Kết 結 nghĩa là tạo thành. Vu 竽 là một loại nhạc khí cổ của Trung Quốc từng lưu hành rộng rãi vào khoảng từ thời Chiến Quốc 戰國 cho đến đời Hán 漢. Còn sắt 瑟 cũng là một loại nhạc khí cổ thuộc loại đàn dây. ―Tuyền thạch kích vận‖泉石激韻 chỉ tiếng nước suối vỗ đá tạo nên những âm thanh như tiếng nhạc. ―Cầu hoàng‖球鍠 là để chỉ tiếng chuông tiếng khánh nói chung, theo Thuyết văn giải tự thì chữ ―cầu‖球 vốn chỉ tiếng khánh ngọc48 còn hoàng 鍠 là để chỉ tiếng chuông49. [18] Cố hình lập tắc chương thành hĩ, thanh phát tắc văn sinh hĩ 故形立則章成矣, 聲發則文生矣. Trong câu văn này, Lưu Hiệp có nhắc đến hai loại văn được tự nhiên thể hiện đó là hình văn và thanh văn. Hình văn tương ứng với đoạn mô tả của Lưu Hiệp về ―Long phượng dĩ tảo hội trình thụy, hổ báo dĩ bính úy ngưng tư‖còn thanh văn là tương ứng với câu ―tuyền thạch kích vận, hòa nhược cầu hoàng‖. Đây là câu văn tổng kết quan điểm của Lưu Hiệp về văn chương của tự nhiên. Đấy là thứ văn chương hình thành trong trời đất không có sự tham dự tạo tác của con người vì vậy khái niệm văn thậm chí còn rộng lớn hơn khái niệm văn hóa ngày nay. [19] Phù dĩ vô thức chi vật, úc nhiên hữu thái, hữu tâm chi khí kì vô văn dư 夫以無識之物, 鬱然有彩, 有心之器, 其無文歟. ―Vô thức chi vật‖đăng đối với ―hữu tâm chi khí‖. Điều đó cho thấy Lưu Hiệp hình dung về tâm như là nơi sản sinh 48 49 Hứa Thận soạn, Đoạn Ngọc Tài chú, Thuyết văn giải tự chú, sđd tr.12. Hứa Thận soạn, Đoạn Ngọc Tài chú, Thuyết văn giải tự chú, sđd, tr.709. ra sự thức mà nay ta có thể dịch là ―tri thức‖hay ―ý thức‖đều được. ―Hệ từ thượng‖của Chu dịch viết: ―hình nãi vị chi khí‖形乃謂之器 tức là ―cứ cái gì thành được hình thì gọi là khí‖. Bởi thế khí là để chỉ chung toàn bộ thế giới hữu hình mà con người, động thực vật, các chất vô cơ là một phần trong đó. Con người là một thứ khí được tạo nên bởi các yếu tố của ngũ hành. Câu ―hữu tâm chi khí, kì vô văn dư‖cho ta thấy rằng trong quan niệm của Lưu Hiệp thì tâm là nơi sản sinh ra văn chương. [20] Nhân văn chi nguyên, triệu tự Thái cực, u tán thần minh, Dịch tượng duy tiên 人文之元, 肇自太極, 幽讚神明, 易象惟先. Khái niệm ―nhân văn: lần đầu tiên được xuất hiện trong ―Thoán từ‖彖辭 của quẻ ―Phần‖賁 trong Chu dịch: ―Quan hồ thiên văn dĩ sát thời biến, quan hồ nhân văn dĩ hóa thành thiên hạ‖觀乎天文以察時變, 觀乎人文以化成天下50 nghĩa là ―quan sát thiên văn để có thể hiểu được sự biến hóa của tứ thời, xem xét nhân văn để thành tựu sự nghiệp giáo hóa trong thiên hạ‖. Khái niệm nhân văn được đặt trong thế song song với khái niệm thiên văn. Chú giải cho chữ nguyên 元, Chiêm Anh 詹鍈 rằng chữ nguyên 元 là để chỉ bản nguyên 本源 hoặc căn nguyên 根源51. Hán ngữ đại tự điển cho biết rằng chữ nguyên còn có các ý nghĩa sau: nghĩa gốc là thủ 首 nghĩa là cái đầu người, nghĩa thứ hai là đứng đầu, nghĩa thứ ba là mở đầu… và còn nhiều ý nghĩa khác nữa trong đó có bao hàm của ý nghĩa mà Chiêm Anh đã vạch ra52. Về cơ bản các nghĩa này gần nhau. Thái cực 太極 theo như ―Hệ từ thượng‖: ―Thị cố Dịch hữu Thái cực, thị sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, tứ tượng sinh Bát quái 是故易有太極, 是生兩儀, 兩儀生四象, 四象生八卦‖tức là: ―Dịch có Thái cực, Thái cực sinh Lưỡng nghi, Lưỡng nghi sinh Tứ tượng, và Tứ tượng sinh ra Bát quái‖53. Trong Chu dịch thì Thái cực được hiểu như một trạng thái tồn tại trước khi có sự phân tách ra 50 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.124. Chiêm Anh, Văn tâm điêu long nghĩa chứng, sđd, tr.12. 52 Hán ngữ đại tự điển ủy viên hội biên, Hán ngữ đại tự điển, sđd, tr.264. 53 Chu dịch chính nghĩa, sđd, tr.340. 51
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan

Tài liệu xem nhiều nhất