Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá theo pháp luật việt nam...

Tài liệu Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá theo pháp luật việt nam

.PDF
81
462
104

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGUYỄN THANH THẢO THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VỀ GIÁ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI – NĂM 2017 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ NGUYỄN THANH THẢO THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC VỀ GIÁ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Kinh tế Mã số: 60.38.01.07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS BÙI ANH THỦY HÀ NỘI – 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC GIÁ………………………………..6 1.1. Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại .............................................6 1.2. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam .....8 1.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá theo pháp luật Việt Nam ...............................................................................................................................12 1.4. Kinh nghiệm của một số nước về vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá ............................................................................................................24 Chƣơng 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC GIÁ Ở VIỆT NAM ............................................. 36 2.1. Nhận định về quy định của pháp luật cạnh tranh Việt Nam, các hình thức xử lý vi phạm ..............................................................................................................36 2.2. Thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá ở Việt Nam ....47 Chƣơng 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CỦA VIỆT NAM VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC GIÁ ....................................................................... 62 3.1. Phương hướng chung hoàn thiện pháp luật điều chỉnh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá .................................................................................62 3.2. Một số giải pháp cụ thể hạn chế tối đa hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá ...................................................................................................65 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 74 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CP Chính phủ HĐCT Hội đồng cạnh tranh LCT Luật Cạnh tranh NĐ Nghị định TNHH Trách nhiệm hữu hạn VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam) MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong kinh doanh, lợi nhuận luôn là vấn đề được các doanh nghiệp đặt lên hàng đầu, và trong nền kinh tế thị trường hiện nay, cạnh tranh được xem là phương thức quen thuộc và hữu hiệu để đem lại lợi nhuận cao. Vì cạnh tranh không chỉ góp phần tăng khả năng doanh thu mà còn giúp đào thải những doanh nghiệp yếu kém, không trụ vững trong tình hình kinh tế khó khăn và cạnh tranh khốc liệt. Vấn đề được đặt ra là cạnh tranh như thế nào để đem lại hiệu quả cao mà vẫn giữ được sự công bằng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển và làm cho người tiêu dùng có lợi? Đây không phải là bài toán dễ dàng giải quyết. Trong thực tế có rất nhiều phương pháp cạnh tranh không lành mạnh, chẳng những gây thiệt hại cho đối thủ mà còn gây hậu quả xấu đối với nền kinh tế - xã hội của đất nước. Những thủ đoạn biến đổi bản chất cạnh tranh lành mạnh của thị trường rất phong phú và đa dạng, trong đó tập trung nhiều nhất ở những hành vi hạn chế cạnh tranh và cạnh tranh không lành mạnh. Nếu như hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại trực tiếp đến đối thủ cạnh tranh và cho người tiêu dùng thì những hành vi hạn chế cạnh tranh lại làm ảnh hưởng đến một ngành, một lĩnh vực kinh tế hay nghiêm trọng hơn là phá vỡ cấu trúc ổn định của thị trường. Chính vì vậy, việc xây dựng pháp luật chống thỏa thuận và hạn chế cạnh tranh cũng như kiểm soát độc quyền luôn được các quốc gia trên thế giới chú trọng. Thời điểm Việt Nam ban hành luật cạnh tranh thì trên thế giới đã có khoảng 80 nước và vùng lãnh thổ có luật cạnh tranh theo thống kê của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD) và đến năm 2007, đã có 113 nước và vùng lãnh thổ đang thực thi luật cạnh tranh của riêng mình. Tốc độ phát triển nhanh như vậy đã chứng minh rằng việc nhìn nhận và thực thi luật canh tranh đã trở thành xu thế chung của các nước. Trong thực tế, các doanh nghiệp thường có xu hướng cùng nhau thỏa thuận, dàn xếp các yếu tố của thị trường để hạn chế cạnh tranh, và cách thức thường được các doanh nghiệp áp dụng nhiều nhất để nâng cao lợi nhuận,kìm hãm hay triệt tiêu năng lực cạnh tranh của đối thủ là thỏa thuận về giá hoặc các vấn đề liên quan trực tiếp đến giá của sản phẩm hay dịch vụ. 1 Những hành vi thỏa thuận đó được gọi chung là thỏa thuận ấn định giá. Luật Cạnh tranh Việt Nam năm 2004 đã có những quy định chặt chẽ để kiểm soát những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá. Cùng với xu thế hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đã mang lại những thuận lợi cho sự pháp triển của kinh tế Việt Nam nhưng song song đó chính sách cạnh tranh trong các hiệp định thương mại tự do cũng tác động đến pháp luật cạnh tranh Việt Nam và đòi hỏi nhu cầu đổi mới về luật. Với việc nghiên cứu vấn đề pháp lý về thỏa thuận ấn định giá, căn cứ xác định cũng như thực trạng áp dụng các quy định về vấn đề này trong pháp luật cạnh tranh Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực giá, góp phần xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng, lành mạnh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và xa hơn nữa là sửa đổi pháp luật cạnh tranh để phù hợp với một “sân chơi” mới về kinh tế của Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài “ Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá theo pháp luật Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp Cao học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trước khi soạn thảo và ban hành Luật Cạnh tranh 2004, đã có những nghiên cứu khoa học về pháp luật cạnh tranh, phần nhiều thiên về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, thị trường độc quyền và kiểm soát độc quyền như “Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền” của tác giả Đặng Vũ Huân đăng tải trên Thông tin Khoa học pháp lý, tháng 11 năm 1996 của Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp; “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát – ThS. Bùi Nguyên Khánh, Nxb. Công an nhân dân năm 2001; “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” sách tham khảo do PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS. Trần Đình Hảo làm chủ biên, Nxb. Công an nhân dân năm 2001; “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh” của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) năm 2002; “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách tham khảo của TS. Đặng Vũ Huân, Nxb. 2 Chính trị Quốc gia năm 2004... Ngoài ra, còn có một số bài báo khoa học được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: “Cạnh tranh và pháp luật cạnh tranh hiện nay” của GS.TS. Đào Trí Úc, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000; “Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 9 năm 2000; “Pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam: Nhu cầu, khả năng và một vài kiến nghị” của TS. Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 11 năm 2000... Sau khi ban hành Luật Cạnh tranh, thêm nhiều công trình nghiên cứu và bình luận về những quy định của Luật Cạnh tranh như “Tìm hiểu về Luật Cạnh tranh” của tác giả Trần Minh Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2005; “Bình luận khoa học Luật Cạnh tranh” của TS. Lê Hoàng Oanh, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2005; “Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và ThS.Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2006; “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam” của các tác giả TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư pháp năm 2006; “Chính sách và thực tiễn pháp luật cạnh tranh của Cộng hoà Pháp của Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2007; “Tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh bất hợp pháp của một số nước và một số bình luận về Luật Cạnh tranh của Việt Nam” của tác giả Nguyễn Văn Cương, năm 2006; “Hành vi hạn chế cạnh tranh – Một số vụ việc điển hình của Châu Âu” - tài liệu tham khảo thuộc Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MULTRAP) và Bộ Công thương Việt Nam phối hợp thực hiện năm 2009; “Chính sách cạnh tranh từ góc độ quốc gia đang phát triển” của tác giả Bùi Nguyễn Anh Tuấn, năm 2010; “Điều chỉnh pháp luật đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay” - Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Thị Nhung, năm 2011... Riêng về quy định thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh đã có nghiên cứu “ Thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” của tác giả Mai Duy Phước đi sâu vào việc phân tích các quy định pháp luật về thỏa thuận ấn định giá một cách khái quát với mức độ tương đối đầy đủ. Những công trình 3 nghiên cứu kể trên đa phần đều tiếp cận pháp luật cạnh tranh với nhiều khía cạnh khác nhau thông qua việc phân tích những quy định trong Luật Cạnh tranh 2004 và các văn bản hướng dẫn thi hành gồm Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh và Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Tuy nhiên từ sau khi ban hành Nghị định số 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh thay thế cho Nghị định số 120/2005/NĐ-CP thì chưa có nghiên cứu nào phân tích những quy định của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá theo pháp luật Việt Nam trên cơ sở Luật và những văn bản hướng dẫn thi hành được sửa đổi, bổ sung trong thời điểm hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là đi sâu phân tích những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá, căn cứ pháp lý để xác định hành vi ấn định giá và kiểm soát thỏa thuận ấn định giá, các chế tài xử lý và tham khảo kinh nghiệm pháp luật cạnh tranh của một số nước trên thế giới điều chỉnh thỏa thuận này. Để thực hiện mục đích trên nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn bao gồm: Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá, phân tích những quy định điều chỉnh thỏa thuận ấn định giá theo pháp luật Việt Nam Thứ hai, nhận định về thực trạng áp dụng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá ở Việt Nam. Thứ ba, từ việc phân tích các vấn đề lý luận, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật cạnh tranh Việt Nam, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của các nước đưa ra những nhận xét và đề xuất giải pháp để hoàn thiện pháp luật cạnh tranh của Việt Nam. 4 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Phạm vi của pháp luật cạnh tranh nhìn chung rất rộng và có liên hệ đến nhiều hệ thống pháp luật. Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp cao học và phạm vi của đề tài, tác giả chỉ đi sâu phân tích bản chất của thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh, hậu quả pháp lý và quy định về thỏa thuận ấn định giá theo pháp luật Việt Nam. Cùng với đó là tham khảo pháp luật cạnh tranh về kiểm soát thỏa thuận ấn định giá của các nước trên thế giới nhằm đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện hành 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, diễn giải, quy nạp, thống kê, v.v... để thực hiện những nội dung nghiên cứu đã đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả nghiên cứu và các đề xuất, kiến nghị của luận văn có ý nghĩa góp phần hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh và nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá theo pháp luật Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được bố cục gồm ba chương, cụ thể như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá Chương 2: Thực trạng áp dụng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá ở Việt Nam Chương 3: Phương hướng và giải pháp hướng hoàn thiện pháp luật cạnh tranh Việt Nam về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực giá 5 Chƣơng 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC GIÁ 1.1. Khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực thƣơng mại Cạnh tranh là một khái niệm rộng lớn, xuất hiện trong hầu hết các lĩnh vực trong đời sống như kinh tế, chính trị, thương mại, luật, quân sự … và có nhiều các hiểu khác nhau. Trong lĩnh vực thương mại, cạnh tranh cũng được tiếp cận ở những góc độ khác nhau tùy thuộc vào sự nhìn nhận của các nhà nghiên cứu và pháp luật của các nước [27, 11]. Dưới góc nhìn trong lĩnh vực thương mại, việc đưa ra định nghĩa “ cạnh tranh” cũng khác nhau theo quan niệm của các nước khác nhau: Theo Từ điển kinh doanh ( xuất bản ở Anh năm 1992), khái niệm “ cạnh tranh” được hiểu là “ sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình”. Từ điển tiếng Việt Bách khoa tri thức phổ thông cũng giải thích khái niệm cạnh tranh theo khía cạnh kinh tế là “ hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất”. Tuy được nhìn nhận ở nhiều góc độ và các cách giải thích khác nhau nhưng tổng hợp chung về những định nghĩa trên có thể hiểu “cạnh tranh” trong khoa học kinh tế là “sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh (nhất là giữa các doanh nghiệp) để chiếm lĩnh những ưu thế trong kinh doanh”. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người sản xuất với người tiêu dùng khi người sản xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp là chiến lược của một doanh nghiệp với các đối 6 thủ trong cùng một ngành… Mặc dù được nhìn nhận bằng nhiều cách nhìn khác nhau nhưng xét cho cùng về bản chất, cạnh tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, và có thể được mô tả thong qua những dấu hiệu riêng biệt. Dưới góc độ kinh tế học, đặc điểm của cạnh tranh được thể hiện: - Sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường để giành giật khách hàng. Các chủ thể này thường được gọi là các “ đối thủ cạnh tranh. Có thể hiểu rằng cạnh tranh chỉ diễn ra khi có sự ganh đua của ít nhất hai chủ thể trở lên và là đối thủ của nhau. Nếu không có đối thủ thì tình trạng cạnh tranh không diễn ra. - Quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ canh tranh diễn ra trên thị trường. Lý thuyết cạnh tranh xác định sự cạnh tranh tồn tại khi có sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh là đối thủ của nhau và sự ganh đua đó được thể hiện trên thị trường vì khi các chủ thể kinh doanh tham gia vào thị trường luôn cố gắng giành lấy cơ hội tốt nhất để mở rộng thị trường. Đặc điểm này còn được thấy rõ trong trường hợp để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh có xảy ra hay không bằng cách xác định chủ thể thực hiện hành vi đó hoạt động trên thị trường liên quan nào. “ Thị trường liên quan” là thị trường của tất cả các sản phẩm hay dịch vụ có thể thay thế cho nhau trong khu vực địa lý riêng biệt nhất định. (theo pháp luật của các nước trên thế giới và Luật cạnh tranh Việt Nam) - Cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế thị trường. Tính chất của cạnh tranh là sự ganh đua kinh tế của các đối thủ hoạt động trên cùng thị trường nên cạnh tranh chỉ có thể xảy ra trong cơ chế thị trường khi công dân có quyền tự do kinh doanh, tự do thành lập doanh nghiệp hay tìm cơ hội để pháp triển sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh doanh không chỉ được tự do cạnh tranh mà còn được tự do sáng tạo ra phương thức để ganh đua giành phần có lợi về phía mình. 7 1.2. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo Luật Cạnh tranh Việt Nam Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là hành vi giữa các chủ thể thống nhất ý chí để nhằm đạt được mục đích kinh doanh nhất định. Tương tự như định nghĩa cạnh tranh, khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau:  Dưới góc nhìn kinh tế học, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể hiểu là sự thống nhất của nhiều doanh nghiệp về hành động với mục đích giảm bớt hay loại bỏ sức ép về mặt cạnh tranh hay hạn chế khả năng hành động của các đối thủ  Dưới góc độ khoa học pháp lý, có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất ý chí của từ hai chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch hay cản trở cạnh tranh trên thị trường. Dựa vào các nghiên cứu trên ta có thể hiểu khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh một cách tổng quát là sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp độc lập với nhau (gọi là các thành viên) để thực hiện các hành vi nhằm mục đích thủ tiêu hoặc hạn chế sự cạnh tranh giữa chúng và qua đó ngăn cản sự tham gia thị trường của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như của các doanh nghiệp tiềm năng. Pháp luật Việt Nam chưa có một định nghĩa cụ thể về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Điều 8 Luật Canh tranh 2004: -Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. - Thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. -Thỏa thuận hạn chế kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa, dịch vụ - Thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ -Thỏa thuận áp đặt cho doanh nghệ khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán 8 hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng. -Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm ngăn không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh -Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận - Thông đồng để một hoặc các bên thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các đối thủ thiết lập ở nhiều quy trình khác nhau của quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa và nó cũng diễn ra ở các chủ thể tham gia thỏa thuận có vị trí khác nhau trong quá trình này. Dựa trên căn cứ đó, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể được chia là các loại sau đây: Thỏa thuận giữa những người bán với nhau (thỏa thuận ấn định giá, phân chia thị trường tiêu thụ); Thỏa thuận giữa những người mua (thông đồng đấu thầu); Thỏa thuận theo chiều ngang là những thỏa thuận giữa các doanh nghiệp, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau trong cùng ngành hàng (thỏa thuận giữa những người bán, giữa các doanh nghiệp); Thỏa thuận theo chiều dọc là những thỏa thuận giữa doanh nghiệp ở các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất, lưu thông hàng hóa (thỏa thuận giữa doanh nghiệp với đại lý hoặc người bán lẻ hàng hóa của doanh nghiệp); Dưới góc độ của pháp luật canh tranh, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh mang bản chất hạn chế cạnh tranh nên cần được kiểm soát. Hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có những đặc điểm sau: Thứ nhất, về chủ thể, các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là những đối thủ cạnh tranh của nhau trên thị trường. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật Canh tranh, doanh nghiệp bao gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh (gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, doanh nghiệp hoạt động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc 9 quyền nhà nước và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Việt Nam). Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ của nhau trên thị trường, có nghĩa là các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải hoạt động độc lập với nhau, hoàn toàn không phụ thuộc với nhau về tài chính và cùng trên một thị trường liên quan. Như vậy, trường hợp công ty mẹ - công ty con, tập đoàn hay các công ty trong tổng công ty có sự thỏa thuận với nhau thì không coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ hai, giữa các doanh nghiệp có thỏa thuận hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự thống nhất ý chí của các bên tham gia thỏa thuận. Đó thường là kết quả của quá trình đàm phán, thương lượng của các bên tham gia với nhau liên quan đến cùng một hoặc một vài nội dung hay yếu tố nào đó của thị trường. Sự thống nhất cùng hành động của các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai. Nội dung thỏa thuận thường là về việc ấn định giá, phân chia thị trường tiêu thụ, hạn chế nguồn cung. Pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận một thỏa thuận là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi đã có đủ bằng chứng kết luận giữa họ đã tồn tại một hợp đồng chính thức bằng văn bản (hợp đồng; bản ghi nhớ; nghị quyết, quyết định chung của Hiệp hội mà các bên là thành viên…) hay có thể bằng hình thức không thành văn bản như các cuộc họp bàn, gặp mặt… ngoài ra còn biểu hiện dưới dạng cam kết tuân thủ hay đáp ứng một số yêu cầu do một hay một số bên đặt ra. Tuy nhiên, chỉ có thể kết luận sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói chung và hành động mà không bị ảnh hưởng bởi bất cứ lý do gì Thứ ba, mục đích của thỏa thuận là nhằm hạn chế cạnh tranh Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể theo chiều ngang hay chiều dọc, với mục đích làm giảm sức ép cạnh tranh hay nói cách khác là hạn chế cạnh tranh, thông qua đó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận, các doanh nghiệp tiềm năng, ảnh hưởng đến lợi ich chính đáng của người tiêu dung và xã hội. Ngoài ra, với việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia 10 thỏa thuận có thể áp đặt những điều kiện bất lợi cho các doanh nghiệp ngoài thỏa thuận. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuậ n có thể nhằm cùng một hay nhiều mục đích khác nhau. Dù với mục đích nào thì việc các doanh nghiệp có sự thống nhất ý chí về việc cùng thực hiện một hành động nào đó đều bị coi là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Yếu tố hành vi được coi là điều kiện cơ bản bởi không thể coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thứ tư, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được biểu hiện dưới một hình thức nhất định. Hình thức biểu hiện của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không được coi là tiêu chí bắt buộc, có thể bằng miệng hoặc văn bản, chính thức hay không chính thức. Việc xác định hình thức biểu hiện của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không ảnh hưởng đến hâu quả pháp lý nhưng có khả năng ảnh hưởng đến mức độ thành công của việc chứng minh sự tồn tại của thỏa thuận. Thứ năm, hậu quả của hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch, cản trở hay triệt tiêu các hoạt động cạnh tranh bình thường trên thị trường. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ không còn cạnh tranh nữa. Hậu quả của nó ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Tuy nhiên hậu quả này có thể đã xảy ra hoặc chưa xảy ra. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ đòi hỏi yếu tố cấu thành về mặt hình thức, khi các định hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh không cần xác định hậu quả thực tế mà chỉ cần xác định hậu quả về mặt hình thức. Việc xác định hậu quả thực tế chỉ có ý nghĩa trong việc xác định trách nhiệm pháp lý hay mức phạt. Về nguyên tắc, thỏa thuận của những doanh nghiệp về hạn chế cạnh tranh trên thị trường sẽ bị cấm. Tuy nhiên, không phải tất cả mọi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều bị cấm. Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh chỉ cấm đối với những thỏa thuận khi chúng thỏa mãn những điều kiện nhất định. Các thỏa thuận tại khoản 6, 7 và 8 của Điều 8 đương nhiên bị cấm, các thỏa thuận tại khoản 1, 2, 3, 4 và 5 chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị 11 phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên và có thể được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng. Các quy định về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện (thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên) sẽ là căn cứ để cơ quan quản lý cạnh tranh có thể thực hiện điều tra, đề xuất các vi phạm, đồng thời cũng là cơ sở để các chủ thể kinh doanh có thể vận dụng nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình trong kinh doanh. 1.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực về giá theo pháp luật Việt Nam Như đã đề cập từ trước, cạnh tranh trong thị trường là vấn đề sống còn liên quan đến sự tồn tại của doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để có được lợi thế so với đối thủ. Chính vì thế có không ít doanh nghiệp đã lựa chọn con đường thỏa thuận, dàn xếp các yếu tố để đạt được lợi ích bất chính trong kinh doanh và lĩnh vực thông thường của các doanh nghiệp lựa chọn khi tham gia thỏa thuận là giá hay các vấn đề liên quan trực tiếp đến giá của sản phẩm hay dịch vụ, và những hành vi thỏa thuận này được gọi chung là thỏa thuận ấn định giá. 1.3.1. Khái niệm, vấn đề pháp lý của thỏa thuận ấn định giá nhằm hạn chế cạnh tranh Pháp luật các nước trên thế giới tuy đều có những quy định điều chỉnh hành vi thỏa thuận ấn định giá nhưng trên thực tế hầu như chưa có một định nghĩa thống nhất nào giữa các quốc gia về thỏa thuận ấn định giá. Ủy ban cạnh tranh Singapore giải thích thỏa thuận ấn định giá là việc các đối thủ cạnh tranh cùng thống nhất ấn định, kiểm soát hoặc duy trì mức giá bán của hàng hóa hay dịch vụ. Đó có thể là thỏa thuận ấn định trực tiếp giá hàng hóa dịch vụ, là việc có một thỏa thuận nhằm tăng hoặc duy trì mức giá thực tế. Nó cũng có thể là thỏa thuận không trực tiếp ấn định mức giá, ví dụ như việc các đối thủ cạnh tranh đồng ý cùng đưa ra mức chiết khấu giống nhau hoặc dành các điều khoản tín 12 dụng giống nhau cho khách hàng. Thỏa thuận ấn định giá không nhất thiết phải bằng văn bản, có khi chỉ cần là một sự thống nhất chung thông qua trao đổi miệng, ví dụ như tại một cuộc họp của Hiệp hội hay tại một sự kiện xã hội nào đó, có thể đã là đủ để minh chứng và cho thấy rằng có tồn tại một thỏa thuận ấn định giá. Vấn đề không nằm ở chỗ thỏa thuận này đạt được như thế nào, bằng hình thức nào hoặc là được thực hiện như thế nào, mà vấn đề là ở chỗ các đối thủ cạnh tranh đã cùng thống nhất với nhau. Theo Cơ quan thương mại công bằng Anh thì thỏa thuận ấn định giá là một khái niệm rộng bao gồm các dạng thỏa thuận về mặt pháp lý có thể thực hiện hoặc không thực hiện được, có thể được lập thành văn bản hoặc thỏa thuận miệng, nó bao gồm cả cái được gọi là thỏa thuận quân tử. Cũng không cần đòi hỏi các bên phải đạt được thỏa thuận thông qua gặp mặt và trao đổi trực tiếp, mà việc trao đổi thông tin qua thư tín hay điện thoại cũng đủ để nói lên thỏa thuận. Thuật ngữ “ấn định giá” cũng có thể được hiểu là từ dùng để chỉ những hành động chung của các đối thủ cạnh tranh làm ảnh hưởng đến giá cả. Tuy không có một định nghĩa thống nhất giữa các pháp luật của các quốc gia nhưng có thể hiểu một cách chung nhất “thỏa thuận ấn định giá” là một thỏa thuận bất kỳ giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm tăng, giảm, ấn định hoặc duy trì giá sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Đối với hành vi thỏa thuận ấn định giá không nhất thiết đòi hỏi các bên tham gia thỏa thuận phải bán ở cùng một mức giá giống nhau, một mức giá đồng nhất hoặc tất cả các đối thủ cạnh tranh trong một ngành nhất định cùng phải tham gia vào thỏa thuận. Luật Cạnh tranh Việt Nam cũng không định nghĩa cụ thể về thỏa thuận ấn định giá tuy nhiên theo quy định của pháp luật Việt Nam thì bản chất của thỏa thuận ấn định giá là việc thống nhất cùng hành động ấn định giá một các trực tiếp hay gián tiếp và được thực hiện dưới một trong các hinh thức được quy định tại Điều 14 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của luật cạnh tranh “Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức 13 sau đây: 1. Áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng. 2. Tăng giá hoặc giảm giá ở mức cụ thể. 3. Áp dụng công thức tính giá chung. 4. Duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan. 5. Không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất. 6. Dành hạn mức tín dụng cho khách hàng. 7. Không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thoả thuận. 8. Sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt đầu.” 1.3.2. Căn cứ để xác định hành vi ấn định giá, trường hợp miễn trừ và nhu cầu điều chỉnh của pháp luật Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 và Điều 14 Nghị định 116/2005/ NĐ-CP ngày 15/09/2005 về việc quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh, thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ là việc các doanh nghiệp thống nhất chung một mức giá hoặc một cách thức tính giá chung cho hàng hóa, dịch vụ mà các doanh nghiệp này sẽ giao dịch với khách hàng. Với khái niệm chung như vậy, cho dù thỏa thuận diễn ra dưới hình thức nào thì có thể nhận thấy những hành vi ấn định giá đều tồn tại những đặc điểm chung, chính những đặc điểm đó là căn cứ để xác định hành vi ấn định giá và hỗ trợ cho việc phát hiện những trường hợp vi phạm pháp luật cạnh tranh trong thực tế. Trong thực tế, hành vi thỏa thuận ấn định giá có thể diễn ra ở bất cứ khâu nào trong quá trình sản xuất và phân phối. Đó có thể là thỏa thuận về giá của hàng hóa thiết yếu, trung gian hay hàng hóa thành phẩm; cũng có thể là thỏa thuận về tăng giá, giảm giá, áp dụng thống nhất một mức giá với khách hàng; áp dụng công thức tính giá và những cách thức trao đổi thông tin về giá. Thỏa thuận ấn định giá buộc các thành viên tham gia thỏa thuận phải giữ nguyên một mức giá trong một thời gian nhất định để tối đa hóa lợi nhuận và làm 14 cho các đối thủ cạnh tranh trên thị trường phải nâng giá trên mức cạnh tranh hoặc giảm giá dưới mức cạnh tranh. Như vậy cũng có nghĩa là các thành viên tham gia thỏa thuận phải thống nhất với nhau một mức giá và có sự giám sát lẫn nhau nhằm tránh trường hợp có thành viên phá vỡ thỏa thuận. Việc thống nhất chung một mức giá giữa các thành viên tham gia thỏa thuận là việc không dễ thực hiện vì mỗi doanh nghiệp đều có sự khác nhau về công nghệ cũng như quy mô kinh tế nên mỗi doanh nghiệp đều mong muốn một mức giá khác nhau tùy thuộc vào chi phí đầu tư. Ngoài ra vấn đề ấn định giá còn liên quan đến giá của toàn bộ sản phẩm trong thỏa thuận hoặc các sản phẩm của các doanh nghiệp không đồng nhất thì cần có sự thỏa thuận về tỉ lệ giá giữa các doanh nghiệp. Yêu cầu chung của thỏa thuận ấn định giá là ít nhất một thành viên trong thỏa thuận nắm giữ một thị phần tương đối lớn trên thị trường để tránh trường hợp các đối thủ cạnh tranh sẽ đưa ra mức giá sản phẩm thấp hơn mức giá thỏa thuận gây ra sức ép lớn cho các thành viên tham gia thỏa thuận. Đặc điểm chung của thị trường có tỉ lệ cao hình thành thỏa thuận ấn định giá:  Tỉ lệ doanh nghiệp trên thị trường rất ít và chỉ vài doanh nghiệp nắm giữ phần lớn thị phần.  Có sự tương đồng về quy mô sản xuất và cơ cấu giá cả  Sản phẩm của các doanh nghiệp không có sự khác biệt nhiều  Hầu như không có sản phẩm thay thế  Kênh thông tin về giao dịch sản phẩm có thể đảm bảo cho sự giám sát lẫn nhau của các doanh nghiệp  Sự tiêu thụ sụt giảm không đáng kể trong một thời gian  Hình thức biểu hiện của thỏa thuận ấn định giá:  Thỏa thuận tăng giá;  Thỏa thuận về một công thức chuẩn dùng để tính giá;  Thỏa thuận về việc duy trì một tỷ lệ cố định về giá cả của những sản phẩm cạnh tranh giống nhau nhưng không đồng nhất;  Thỏa thuận để loại trừ việc chiết khấu giá hoặc thiết lập mức chiết 15 khấu đồng bộ;  Thỏa thuận về những điều khoản tín dụng dành cho khách hàng;  Thỏa thuận đưa ra thị trường những sản phẩm được chào bán ở mức giá thấp nhằm hạn chế nguồn cung và giữ giá cao;  Thỏa thuận về việc không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của cartel;  Thỏa thuận về việc tuân theo mức giá đã được công bố;  Thỏa thuận không bán, trừ khi các điều khoản về giá cả được thỏa thuận và đáp ứng;  Thỏa thuận sử dụng mức giá đồng bộ tại thời điểm khởi đầu của cuộc đàm phán (Điều 14 Nghị định 116/2005/ NĐ-CP). Đối với hành vi ấn định giá bán lại, cũng coi là một dạng của thỏa thuận về giá, nhưng lại có những dấu hiệu đặc thù. Nội dung của thỏa thuận bao gồm:  Thống nhất áp dụng giá đối với một số hay tất cả khách hàng. Thống nhất cùng tăng giá ở một mức độ cụ thể, áp dụng chung công thức tính giá  Duy trì tỉ lệ cố định về giá của các sản phẩm cạnh tranh như nhau nhưng không đồng nhất  Loại trừ trường hợp chiết khấu giá hay mức chiết khấu không đồng bộ  Duy trì tỉ lệ cố định về giá của sản phẩm liên quan  Không được giảm giá khi không thông báo cho các thành viên khác Dựa trên nội dung của thỏa thuận có thể phân chia thỏa thuận thành hai nhóm với những đặc điểm riêng: Thứ nhất, gồm các thỏa thuận trực tiếp giá mua gồm việc các doanh nghiệp thỏa thuận áp dụng thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng (tăng giá hoặc giảm giá; áp dụng công thức chung). Đặc điểm của nhóm thỏa thuận này là việc các doanh nghiệp đã tạo ra mặt bằng chung về giá bán hoặc mua hàng hóa trên thị trường. Như vậy, mức giá đó được hình thành dựa trên thỏa thuận của các doanh 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan