Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ phạm tiến duật nhìn từ góc độ thi pháp học...

Tài liệu Thơ phạm tiến duật nhìn từ góc độ thi pháp học

.PDF
17
76
111

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------- NGUYỄN PHƢƠNG DUNG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lý luận Văn học Hà Nội – 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN NGUYỄN PHƢƠNG DUNG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT NHÌN TỪ GÓC ĐỘ THI PHÁP HỌC Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận Văn học Mã số: 60220120 Người hướng dẫn khoa học: TS. Diêu Thị Lan Phƣơng Hà Nội - 2014 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1 2. Lịch sử nghiên cứu ..................................................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 4 4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5 5. Mục đích của luận văn ............................................................................... 5 6. Cấu trúc của Luận văn ............................................................................... 5 Chƣơng 1. KHÁI LƢỢC VỀ THI PHÁP HỌC VÀ SÁNG TÁC CỦA NHÀ THƠ PHẠM TIẾN DUẬT ............................................................... 6 1.1. Khái niệm về thi pháp học ...................................................................... 6 1.2. Phạm Tiến Duật trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam ............................. 9 1.2.1 Nhà thơ Phạm Tiến Duật ................................................................... 9 1.2.2. Thơ ca Việt Nam hiện đại ............... Error! Bookmark not defined. TIỂU KẾT .................................................... Error! Bookmark not defined. Chƣơng 2. HỆ THỐNG HÌNH TƢỢNG VÀ KHÔNG GIAN - THỜI GIAN NGHỆ THUẬT ........................................... Error! Bookmark not defined. 2.1. Hệ thống hình tượng ............................ Error! Bookmark not defined. 2.1.1. Hình tượng cái tôi - chủ thể trữ tìnhError! Bookmark not defined. 2.1.1.1. Cái tôi trữ tình trẻ trung, tinh nghịch và hóm hỉnhError! Bookmark not 2.1.1.2. Thông minh, sắc sảo - đặc điểm nổi bật của cái tôi trữ tình trong thơ Phạm Tiến Duật ................................ Error! Bookmark not defined. 2.1.1.3. Cái tôi trữ tình sử thi ................... Error! Bookmark not defined. 2.1.1.4. Cái tôi trữ tình đời thường ưu tư, trăn trởError! Bookmark not defined 2.1.2. Hình tượng người lính .................... Error! Bookmark not defined. 2.1.3. Hình tượng người thanh niên xung phongError! Bookmark not defined. 2.2. Không gian và thời gian nghệ thuật ...... Error! Bookmark not defined. 2.2.1. Thời gian nghệ thuật....................... Error! Bookmark not defined. 2.2.2. Không gian nghệ thuật ................... Error! Bookmark not defined. TIỂU KẾT .................................................... Error! Bookmark not defined. Chƣơng 3. PHƢƠNG THỨC BIỂU HIỆN .. Error! Bookmark not defined. 3.1. Cấu tứ trong thơ Phạm Tiến Duật ......... Error! Bookmark not defined. 3.2. Ngôn ngữ và giọng điệu ........................ Error! Bookmark not defined. 3.2.1 Ngôn ngữ ......................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.1.1 Ngôn ngữ giản dị đời thường, tự nhiênError! Bookmark not defined. 3.2.1.2. Ngôn ngữ sáng tạo, tài hoa ......... Error! Bookmark not defined. 3.2.2 Giọng điệu ....................................... Error! Bookmark not defined. 3.2.2.1. Giọng điệu hóm hỉnh, ngang tàngError! Bookmark not defined. 3.2.2.2. Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào ... Error! Bookmark not defined. 3.2.2.3. Giọng điệu triết lí, suy tư ............. Error! Bookmark not defined. TIỂU KẾT .................................................... Error! Bookmark not defined. KẾT LUẬN ..................................................... Error! Bookmark not defined. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................. 11 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Tên tuổi Phạm Tiến Duật xuất hiện trên thi đàn Việt Nam từ năm 1969 gắn liền với Bài thơ tiểu đội xe không kính - tác phẩm giành giải nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ. Sau đó, ông dần trở thành một trong những nhà thơ cách mạng tiêu biểu của thơ ca chống Mỹ cứu nước. Trong điếu văn đọc tại lễ truy điệu nhà thơ Phạm Tiến Duật, nhà thơ Hữu Thỉnh viết: “Cảm ơn Phạm Tiến Duật đã để lại cho chúng ta niềm kiêu hãnh sống, niềm kiêu hãnh sáng tạo và dâng hiến. Ngọn lửa tài năng và trí tuệ của Anh đã thắp sáng trên văn đàn, đã cầm trong tay trong cuộc chạy đường trường suốt nhiều năm tháng qua sẽ còn sáng mãi. Những gì anh để lại cho chúng ta sẽ được Đảng và nhân dân gìn giữ mãi mãi, sẽ được chúng tôi những người đồng đội, đồng chí của anh gìn giữ mãi mãi”. Sự nghiệp văn chương của Phạm Tiến Duật khởi sự từ tuyến đường mòn vận tải Trường Sơn 559 và ông vươn lên trở thành một gương mặt độc đáo của văn học Việt Nam 1945 - 1975. Phạm Tiến Duật đã góp phần sáng tạo một thứ ngôn ngữ thơ thô nhám, gân guốc và được đánh giá là một tác giả tiêu biểu của nền thơ chống Mỹ. Phạm Tiến Duật cũng là một trong những nhà thơ Việt Nam được chọn lọc đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông. Nhiều bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Trường Sơn đã để lại như: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong... có lẽ sẽ còn in đậm trong ký ức lịch sử; bồi đắp cho thế hệ sau lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Thơ Phạm Tiến Duật làm chúng ta như sống lại không khí của những năm tháng hào hùng, gian khổ nhưng hết sức lạc quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ ông gieo vào lòng người đọc niềm tin tưởng ở những phẩm chất tốt đẹp, vững bền của con người Việt Nam trước những thử thách lịch sử. Đồng thời, thơ ông còn là tiếng nói của một thế hệ, của một thời 1 đại lịch sử. Đó là thế hệ anh hùng "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" đã làm nên một thời đại hào hùng, chói lọi trong lịch sử Việt Nam. Vì vậy mà chúng tôi chọn đề tài “Thơ Phạm Tiến Duật nhìn từ góc độ thi pháp học” để làm luận văn nghiên cứu của mình. Luận văn muốn khẳng định những giá trị thẩm mỹ cao cả và lâu bền của thơ trữ tình cách mạng nói chung và thơ Phạm Tiến Duật nói riêng một cách cụ thể trong quá trình đổi mới văn học. 2. Lịch sử nghiên cứu Phạm Tiến Duật có thơ đăng báo từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX, nhưng thơ ông lúc này vẫn còn lẫn trong thơ nhiều người. Phải đến cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 -1970, ông mới thực sự ghi được tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Chùm thơ đoạt giải nhất của ông gây được ấn tượng mạnh mẽ với độc giả về một phong cách thơ độc đáo. Bắt đầu từ đây, nhiều cây bút, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan tâm đánh giá thơ ông. Một trong những bài viết đầu tiên về thơ Phạm Tiến Duật là Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ. Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn bài của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong cách thơ "rất lạ", lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu. Ông chỉ ra rằng, đây là một hồn thơ "được nuôi dưỡng bằng chất liệu sống thực, tươi trẻ thở hết không khí mặt trận dữ dội và tự tin, có thời gian ngẫm nghĩ về cuộc chiến đấu quyết liệt, dũng cảm"[1]. Nhị Ca cũng rất quan tâm đến việc tạo dựng câu thơ, một trong những yếu tố làm nên sự mới mẻ của Phạm Tiến Duật so với các nhà thơ khác là "dáng dấp xốc vác, xô bồ, cứng cáp hơn, như hạt gạo đỏ đồng chiêm vừa chắc dạ, vừa béo ngọt". Bên cạnh đó, Nhị Ca đã có ý kiến nhận xét khá xác đáng về những thành công cũng như hạn chế qua việc phân tích một số bài thơ tiêu biểu của tập Vầng trăng quầng lửa. Nhà văn Nguyễn Minh Châu có bài Người viết trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: "Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã làm xôn xao đời sống thơ ca 2 vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật đã cổ vũ cho cuộc chiến đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía". Dưới quan điểm văn nghệ phục vụ chính trị như vậy, nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật đã khẳng định: "hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật"[39]. Ông cho rằng, thơ Phạm Tiến Duật "là tiếng nói khoẻ khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào hùng của dân tộc"[39]. Và từ góc nhìn vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần Phương trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội vào nền thơ Việt Nam đã chỉ ra sự kế thừa những kinh nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật. Theo Vũ Quần Phương, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật "đầy rẫy những chi tiết đời sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng...". Năm năm sau, năm 1985, Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1985 với tư cách là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ tình cách mạng. Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với nhan đề Một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật in trên Tạp chí Văn học, số 4, năm 1986 đã đánh giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm Tiến Duật. Nhà văn đã khẳng định vai trò của thực tiễn chiến tranh đối với sáng tác của Phạm Tiến Duật Một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về thơ Phạm Tiến Duật là của Trần Đăng Suyền trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập III (Nxb Đại học Sư phạm I, 2002). Tác giả công trình đã giới thiệu tiểu sử, con người nhà thơ. Ông cho rằng "Vùng thẩm mĩ" của thơ Phạm Tiến Duật là rừng Trường Sơn. Tác giả đặc biệt quan tâm đến phong cách thơ Phạm Tiến Duật là tính chất trẻ trung, giọng thơ ngang tàng, sự xô bồ, rậm rạp mà khái quát của chi tiết, ngôn ngữ sinh hoạt ùa vào trong thơ. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu 3 khác, tác giả Trần Đăng Xuyền vẫn mong đợi một sự đổi mới của Phạm Tiến Duật để thơ ông có thể đến được, hoà nhập với cuộc sống mới. Bài nghiên cứu của Vũ Văn Sỹ, in trước ngày mất của Phạm Tiến Duật với nhan đề Phạm Tiến Duật, người "chứa được Trường Sơn nhiều nhất"... trong Tạp chí Nhà văn, số 12, năm 2007. Vũ Văn Sỹ đánh giá cao vị trí của Phạm Tiến Duật trong hành trình thơ trữ tình cách mạng. Ông cho rằng "Thơ Phạm Tiến Duật đã lưu lại trong lịch sử văn học dấu mốc của thơ trữ tình Việt Nam trên hành trình đi tìm cái đẹp trên các sự kiện và biến cố in đậm chất sử thi của một thế kỉ đầy biến động."[38]. Bên cạnh đó có thể kể đến các bài của Thiếu Mai, Mai Hương, Hồ Phương, Hoàng Kim Ngọc... đăng tải trên các báo và tạp chí. Phạm Tiến Duật cũng từng được nhắc đến và giới thiệu trong các công trình tiểu luận và nghiên cứu như Dọc đường văn học (Nxb Văn học, H, 1996); Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, tập III (Nxb Hội nhà văn, H, 2000); Từ điển tác giả văn học Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Hội nhà văn,H, 2003). Hầu hết các cuốn sách đều tập trung phân tích, nghiên cứu những giá trị mới mẻ mà thơ Phạm Tiến Duật đưa lại. Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu về Phạm Tiến Duật đều cho rằng, đó là một hiện tượng lạ của thơ ca Việt Nam. Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật trên thi đàn đã làm cho thơ ca của thế hệ trẻ thời chống Mỹ có vị trí và có cá tính. Trong công trình này, chúng tôi kế thừa các ý kiến gợi ý của những người đi trước, tập trung phân tích thi pháp thơ Phạm Tiến Duật một cách có hệ thống, có tính thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng và phương thức nghệ thuật nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của Phạm Tiến Duật. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thơ của Phạm Tiến Duật dưới góc độ thi pháp học. Luận văn chủ yếu xuay quanh các vấn đề liên quan đến Thi pháp như ngôn ngữ, nhịp điệu, hiệp vần, hình tượng, điểm nhìn... 4 Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ thơ Phạm Tiến Duật nói riêng và thơ của một số nhà thơ cách mạng nói chung. 4. Phƣơng pháp nghiên cứu - Phương pháp lý luận như: Phương pháp tiếp cận thi pháp học, phương pháp văn hóa học, phương pháp lịch sử - xã hội - Trong luận văn, chúng tôi vận dụng các thao tác liên ngành như thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh và đối chiếu. 5. Mục đích của luận văn Nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học đã đề cập đến các khía cạnh thi pháp thơ Phạm Tiến Duật, nhưng chúng tôi hi vọng rằng đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu thi pháp thơ Phạm Tiến Duật một cách đầy đủ và hệ thống. 6. Cấu trúc của Luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm có 3 chương: Chương 1. Khái lược về thi pháp học và sáng tác của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Chương 2. Hệ thống hình tượng và không gian, thời gian nghệ thuật Chương 3. Phương thức biểu hiện 5 Chƣơng 1. KHÁI LƢỢC VỀ THI PHÁP HỌC VÀ SÁNG TÁC CỦA NHÀ THƠ PHẠM TIẾN DUẬT 1.1. Khái niệm về thi pháp học Thi pháp học là bộ phận quan trọng nhất trong khoa nghiên cứu văn học. Nó nghiên cứu cấu trúc tác phẩm và những hợp thể của các cấu trúc đó: các tác phẩm của một nhà văn, các khuynh hướng văn học, các thời đại văn học. Thi pháp học đã xuất hiện ở Hy Lạp từ thời cổ đại với tác phẩm Poetica (Nghệ thuật thơ ca) của Aristote nhưng Thi pháp học với tư cách là một bộ môn khoa học, một phương pháp nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học thì mới hình thành vào đầu thế kỷ XX ở Nga rồi dịch chuyển sang Mỹ và phổ biến khắp thế giới. Các công trình, tiểu luận về thi pháp học hoặc nghiên cứu văn học theo hướng thi pháp học đều khẳng định thuật ngữ thi pháp xuất hiện từ thời cổ đại, trong công trình “kinh điển” của Aristote Nghệ thuật thơ ca (cách đây hơn 2300 năm). Thuật ngữ thi pháp (poetics, póetique) có nội hàm khởi thủy là cách, biện pháp, phương thức mô phỏng, bắt chước để sáng tạo văn học. Nội hàm này được Aristote đề xuất: “Sử thi, bi kịch thì cũng như hài kịch và thơ ca tụng tửu thần, đại bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền – tất cả những cái đó, nói chung đều là những nghệ thuật mô phỏng, giữa chúng có ba điểm khác nhau; hoặc thực hiện sự mô phỏng bằng cái gì hoặc mô phỏng cái gì; hoặc mô phỏng như thế nào - cho nên không phải lúc nào cũng giống nhau”. Về sau, các nhà nghiên cứu thường dịch là nghệ thuật thơ ca, phép làm thơ. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên hiểu thi pháp là phương pháp, qui tắc làm thơ [tr.95]; Sổ tay từ Hán Việt do Phan Văn Các, Lại Cao Nguyên biên soạn năm 1989 hiểu thi pháp có hai nghĩa: 1. Phép làm thơ, 2. Nghệ thuật thơ văn. Còn Từ điển của Pháp 1998 cho biết thi pháp xuất phát từ động từ tiếng Hi Lạp nghĩa là “làm” và nó có ba nghĩa: 1. Nghệ thuật cấu tạo thơ. 2. Lý thuyết thuộc về bên trong của văn bản. 3. Toàn bộ những lựa chọn thuộc về văn học được nhà văn thực hiện trong tác phẩm. Như thế thuật ngữ thi 6 pháp từ khởi thủy tới hiện đại được bổ sung, mở rộng nội hàm. Tuy vậy, thuật ngữ này luôn bảo lưu hai nét nghĩa: 1. Cách làm thơ. 2. Tính nghệ thuật được nhà văn lựa chọn để sáng tác văn chương. Ở Trung Quốc, thuật ngữ thi pháp thường được các học giả từ đời Tống trở đi nói tới: Thế kỷ XIII có sách Thi pháp chính tông của Yết Khê Tư; thế kỷ XVI có Thi pháp chính luận của Phó Nhược Kim. Nội dung được nói tới của thuật ngữ thi pháp thường là phép làm thơ, vận luật thơ, hay là những nguyên tắc tạo hình, cấu tứ, cốt cách. Ở Việt Nam, khái niệm thi pháp, thi pháp học xuất hiện khá muộn, phải đến những năm 80 của thế kỷ XX mới được xác định. Thuật ngữ thi pháp, thi pháp học xuất hiện sớm nhất trong các bài báo như: Một số vấn đề lý thuyết chung về mối quan hệ văn học dân gian với văn học viết của Lê Kinh Khiên (1980), Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian của Chu Xuân Diên (1980), Chung quanh khái niệm thi pháp trong nghiên cứu văn học Xô viết hiện nay của Vương Trí Nhàn (1981)... Và chỉ đến khi Trần Đình Sử trong chuyên luận Thi pháp thơ Tố Hữu năm 1985, thi pháp, thi pháp học mới được hiểu, sử dụng theo nội hàm hiện đại. Nguyễn Văn Dân cho rằng, thuật ngữ thi pháp, thi pháp học, qua cách hiểu, giải thích và tiếp nhận ở Trần Đình Sử, đã mang tính nghề nghiệp, có khả năng ứng dụng cao. Nguyễn Văn Dân viết: “thuật ngữ thi pháp hay thi pháp học được dùng để chỉ một khái niệm nghề nghiệp mới, dễ có khả năng khái quát hóa thành các công thức, mô hình, các quy phạm có khả năng vận dụng, thao tác” [19, tr.23]. Giữa thi pháp và thi pháp học có mối quan hệ qua lại biện chứng, đó là: quan hệ giữa đối tượng và khoa học về đối tượng ấy, giữa nghệ thuật với khoa học, giữa cụ thể với trừu tượng, khái quát. Về quan hệ giữu thi pháp và thi pháp học, Nguyễn Xuân Kính giải thích: “thi pháp là một tồn tại khách quan, là cái có trước, nó xuất hiện từ khi loài người bắt đầu biết sáng tạo nghệ thuật một cách tự giác. Thi pháp học là khoa học nghiên cứu về thi pháp, là cái có sau”. Chính vì thi pháp có nội hàm rộng chứa đựng trong nó vừa là văn học, 7 vừa là quá trình văn học do đó, thuật ngữ thi pháp và thi pháp học thuộc vào số những thuật ngữ được sử dụng sớm nhất và có sức sống lâu dài nhất của ngành khoa học nghiên cứu văn học. Nếu như nội dung thuật ngữ thi pháp được hiểu khá thống nhất thì khái niệm thi pháp học cho đến nay còn nhiều sự khác biệt. Điều này có thể xuất phát từ chính sự mở rộng biên độ nội hàm của đối tượng nghiên cứu. Vì thế, dẫn đến sự mở rộng phạm vi nghiên cứu của thi pháp học. Hơn nữa, sự tiếp cận, nghiên cứu thi pháp học của các học giả phần lớn đều dựa trên những tiền đề khoa học, triết học, phê bình khác nhau. Chủ nghĩa cấu trúc, hiện tượng học, phân tâm học, chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hình thức, ngôn ngữ học, dẫn đến những định nghĩa, khái niệm chưa đồng nhất. Hiện nay, có nhiều cách hiểu về Thi pháp học. Có thể hiểu, thi pháp học là cách thức phân tích tác phẩm bám vào văn bản là chính, không chú trọng đến những vấn đề nằm ngoài văn bản như: tiểu sử nhà văn, hoàn cảnh sáng tác, nguyên mẫu nhân vật, giá trị hiện thực, tác dụng xã hội… Thi pháp học chỉ chú ý đến những yếu tố hình thức tác phẩm như: hình tượng nhân vật - không gian - thời gian, kết cấu - cốt truyện - điểm nhìn, ngôn ngữ, thể loại… Nội dung trong tác phẩm phải được suy ra từ hình thức, đó là “hình thức mang tính nội dung”. Phương pháp chủ yếu của Thi pháp học là phương pháp hình thức. Chúng ta hiểu, phương pháp hình thức là phương pháp phân tích các khía cạnh hình thức của tác phẩm văn học nghệ thuật để rút ra ý nghĩa thẩm mỹ của nó. Nghiên cứu, phê bình theo hướng thi pháp học nghĩa là nghiêng về phân tích hình thức nghệ thuật tác phẩm, nó đối lập với lý thuyết Phản ánh luận trước đây là nội dung quyết định hình thức. Về phương diện định nghĩa, khái niệm, Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán chủ biên có ghi: “Thi pháp học là khoa học nghiên cứu thi pháp, tức hệ thống các phương tiện biểu hiện đời sống bằng hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Mục đích của thi pháp học là chia tách và hệ thống 8 hóa yếu tố của văn học nghệ thuật tham gia vào sự tạo thành thế giới nghệ thuật, ấn tượng thẩm mỹ, chiều sâu phản ánh của sáng tác nghệ thuật.[tr.304] Xét các chỉnh thế văn học thi pháp có thể nói tới thi pháp tác phẩm cụ thể, thi pháp một trào lưu thi pháp văn học một thời đại, thời kỳ lịch sử. Thi pháp học là công cụ để thâm nhập vào cấu trúc tác phẩm, cốt cách tư duy của tác giả cũng như nắm bắt mã văn hóa nghệ thuật của các tác giả và các thời kỳ văn học nghệ thuật, từ đó nâng cao năng lực thụ cảm tác phẩm.[8, tr. 256 - 258] 1.2. Phạm Tiến Duật trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam 1.2.1 Nhà thơ Phạm Tiến Duật Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 04- 01-1941 tại thị xã Phú Thọ - tỉnh Vĩnh Phú (nay là tỉnh Phú Thọ) trong một gia đình nhà giáo. Tuổi thơ của ông gắn bó với miền đất trung du "rừng cọ đồi chè", với bầu không khí văn hoá dân gian của miền quê xoan ghẹo, với những lễ hội của miền đất tổ vua Hùng. Miền quê bình yên của ông những năm tháng chống Mỹ cũng sục sôi không khí kháng chiến. Là con người sôi nổi, ông nhanh chóng bị cuốn vào không khí hào hùng của đời sống văn nghệ kháng chiến trên đất quê hương Phú Thọ. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, thay vì đứng trên bục giảng làm thầy, ông đã khoác ba lô ra chiến trường. Cuộc đời quân ngũ của ông gắn liền với những con đường, với rừng già Trường Sơn. Kể cả khi là cán bộ tuyên truyền hay làm phóng viên thì chiến trường vẫn là địa chỉ công tác, hoạt động, sáng tác của ông. Sự cộng hưởng của không khí chiến trận hào hùng cùng với trái tim rực lửa, thiết tha đã thăng hoa thành nghệ thuật thơ ca. Có thể nói, sự hình thành phong cách thơ Phạm Tiến Duật gắn liền với con đường huyền thoại mang tên Hồ Chí Minh trong cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Phạm Tiến Duật là một thanh niên trí thức có cái tài hoa của một người Bắc đã từng được sống khá lâu ở Hà Nội. Ông là người thích sự tinh nghịch, say mê cái lạ. Từ cánh cửa nhà trường bước ra ngoài đời có nhiều cái lạ, vào 9 đến Trường Sơn lại càng nhiều điều mới mẻ, Phạm Tiến Duật không khỏi ngạc nhiên khi đặt chân tới cái "vùng rừng không dân" ấy. Đó là sự ngạc nhiên về âm thanh, ngạc nhiên về cảnh thiên nhiên, và ngạc nhiên hơn cả là những con người đang sống, chiến đấu ở đây. Cá tính ấy của hồn thơ Phạm Tiến Duật đã tìm đúng được mảnh đất riêng của mình - đường Trường Sơn trong những năm tháng chống Mỹ. Và hồn thơ ấy chỉ có thể phát triển mạnh mẽ, trở nên cường tráng trên mảnh đất hiện thực này. Đường Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh trong những năm tháng chống Mỹ là điển hình của cuộc sống sôi động ấy. Nếu không có nó, Phạm Tiến Duật không thể cất lên giọng điệu thơ đích thực của mình. Chính Phạm Tiến Duật trong lời Tự bạch đã khẳng định: "Nếu không có cuộc sống với những con người đa dạng ồn ào bao quanh với xô bồ chi tiết trôi chảy từng phút từng giờ, thì hình như tôi không có thơ". Trong lời giới thiệu tuyển thơ chống Mỹ cứu nước 1965 - 1967, nhà thơ Chế Lan Viên rất quan tâm tới sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ. Ông đã nhắc tên một số cây bút "có hay chưa có bài trong tuyển tập", nhưng tuyệt nhiên, Phạm Tiến Duật vẫn không hề được nhắc đến. Chỉ đến khi Phạm Tiến Duật đoạt giải nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ 1969 - 1970 với chùm bốn bài thơ: Lửa đèn, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Gửi em cô thanh niên xung phong, tên Phạm Tiến Duật mới gây được sự chú ý đặc biệt, khẳng định tiếng nói trữ tình của thế hệ thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ là đòi hỏi của dân tộc và thời đại, đồng thời cũng chính là đòi hỏi của chính nền thơ chống Mỹ. Nhiều nhà thơ trẻ có tên tuổi thuộc nhiều thế hệ đã viết về chiến tranh bằng cách nhìn riêng, in đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của mình. Tuy nhiên, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ vẫn cứ còn thiếu hụt một mảng, và người đọc vẫn khao khát được đọc những vần thơ của những người trực tiếp cầm súng những vần thơ như còn vương bụi đất chiến trường và nồng nặc mùi lửa 10 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhị Ca (1970), Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số (10). 2. Bùi Công Hùng (1985), Những đặc điểm cơ bản của thơ Việt Nam hiện đại (1945 - 1985), Tạp chí Văn học, số 1. 3. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb văn hoá thông tin, Hà Nội. 4. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 5. Đỗ Trung Lai (1986), Một chặng đường thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn học, số 4. 6. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Minh Đức. 7. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 8. Hoàng Kim Ngọc (1998), Những đóng góp của thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 9. Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Lê Lưu Oanh (1998), Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội 12. Lã Nguyên (1995), Diện mạo văn học Việt Nam 1945 - 1975 nhìn từ góc độ thi pháp thể loại, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 9. 12. Lê Đình Kỵ (1969), Đường vào thơ, Nxb Văn học, Hà Nội. 13. Mai Hương (1981), Nghĩ về những đóng góp của đội ngũ thơ trẻ trong thơ chống Mỹ, Tạp chí Văn học, số 1. 14. Mai Hương (2001), Thơ Việt Nam qua hai cuộc chiến tranh cách mạng, Tạp chí Văn học, số 6. 15. Mã Giang Lân (1983), Suy nghĩ thêm về tứ thơ, Tạp chí Văn học, số (6). 11 16. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Nguyễn Ngọc Thiện (1974), Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn học, số 4. 18. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 19. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Nguyễn Đăng Điệp (1994), Giọng điệu thơ trữ tình, Tạp chí Văn học, số (1). 21. Nguyễn Trọng Hoàn (1995), Nhà văn và tác phẩm trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 22. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, Hà Nội. 23. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội 24. Nhiều tác giả (1997), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 25. Nhiều tác giả (1999), Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nxb Giáo dục, Hà Nội 26. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 27. Phạm Tiến Duật (1970), Vầng trăng quầng lửa, Nxb Văn học, Hà Nội. 28. Phạm Tiến Duật (1971), Thơ một chặng đường, Nxb QĐND, Hà Nội 29. Phạm Tiến Duật (1973), Tôi làm thơ dài, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (9). 30. Phạm Tiến Duật (1981), Ở hai đầu núi, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 12 31. Phạm Tiến Duật (1994), Tuyển tập thơ một chặng đường, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội 32. Phạm Tiến Duật (1995), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam (1945 - 1975) - Sự bừng tỉnh của cảm hứng dân tộc, Văn nghệ, số (45). 33. Phạm Tiến Duật (1997), Tiếng bom và tiếng chuông chùa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 34. Phạm Tiến Duật (2002), Đường dài và những đốm lửa, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội 35. Phạm Tiến Duật (2003), Vừa làm vừa nghĩ, Nxb Văn học, Hà Nội. 36. Trần Đăng Suyền (1984), Đọc "Vầng trăng quầng lửa" nghĩ thêm về thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn nghệ, số 28. 37. Trần Đăng Suyền (2002), Phong cách nghệ thuật thơ Phạm Tiến Duật, Tạp chí Văn học, số 3. 38. Trần Đăng Suyền (2002), Mấy ghi nhận về thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ, Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội. 39. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Vũ Văn Sỹ (2007), Phạm Tiến Duật, người "chứa được Trường Sơn nhiều nhất", Tạp chí Nhà văn, số 12. 41. Vũ Quần Phương (1973), Đọc thơ của mấy cây bút trẻ quân đội mới xuất hiện gần đây, Tạp chí Văn học, số 4. 42. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1995, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 43. Xuân Sách (1970), Thơ bộ đội 1965 - 1969, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 6. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan