UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TRẦN THỊ MAI
THƠ HUỲNH VĂN NGHỆ TRONG DÒNG CHẢY CỦA
THƠ KHÁNG CHIẾN Ở NAM BỘ
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
BÌNH DƯƠNG – Năm 2018
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
TRẦN THỊ MAI
THƠ HUỲNH VĂN NGHỆ TRONG DÒNG CHẢY CỦA
THƠ KHÁNG CHIẾN Ở NAM BỘ
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954.
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS – TS VÕ VĂN NHƠN
BÌNH DƯƠNG – Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi.
Các dẫn chứng, thông tin dữ liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, có
trích dẫn nguồn đầy đủ và kết quả nghiên cứu chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Bình Dương, ngày 1 tháng 12 năm 2018
Trần Thị Mai
i
LỜI CẢM ƠN
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học của học viên, là một yêu cầu
cần thiết cho mỗi học viên trước khi hoàn thành khóa học.
Sau hai năm học tập và nghiên cứu trong chương trình đào tạo sau đại học tại
trường Đại học Thủ Dầu Một. Đến nay, luận văn: “Thơ Huỳnh Văn Nghệ trong
dòng chảy của thơ kháng chiến ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954” đã được hoàn
thành.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban Giám hiệu Trường Đại học Thủ Dầu Một
Thầy PGS. TS Võ Văn Nhơn – Đại Học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp.
Hồ Chí Minh đã tận tình giúp đỡ và hướng dẫn.
Các thầy cô trong khoa Ngữ Văn đã tận tình giúp đỡ để tôi hoàn thành được
đề tài.
Cảm ơn gia đình luôn là động lực để tôi hoàn thành khóa học này.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ và động viên quý
báu của tất cả mọi người. Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Bình Dương, tháng 12 năm 2018
Học viên thực hiện
Trần Thị Mai
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN ....................................................................................................... ii
DẪN NHẬP ........................................................................................................... 1
1.
Lí do chọn đề tài ................................................................................ 1
2.
Lịch sử vấn đề .................................................................................... 2
2.1.
Những nghiên cứu về thơ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ ......... 2
2.2.
Những nghiên cứu về thơ Huỳnh Văn Nghệ thời chống Pháp ........... 5
3.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 7
3.1
Đối tượng nghiên cứu ........................................................................ 7
3.2
Phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 7
4.
Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 8
5.
Kết cấu luận văn ................................................................................ 8
CHƯƠNG 1. THƠ CA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở NAM BỘ GIAI
ĐOẠN 1945 – 1954 VÀ HUỲNH VĂN NGHỆ ................................................ 10
1.1.
Diện mạo thơ kháng chiến ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954......... 10
1.1.1. Đội ngũ và phong trào ..................................................................... 10
1.1.2. Đặc điểm chính của thơ kháng chiến ở Nam bộ giai đoạn 1945 – 1954
.......................................................................................................... 14
1.1.2.1. Thơ ca tập trung phản ánh hiện thực kháng chiến của dân tộc ...... 14
1.1.2.2. Thơ ca thể hiện ý thức công dân, sự gắn bó của nhà thơ với nhân dân,
đất nước ....................................................................................................... 17
1.2
Huỳnh Văn Nghệ - “thi tướng rừng xanh” ................................... 19
1.2.1
Đôi nét về cuộc đời thi tướng Huỳnh Văn Nghệ .......................... 20
1.2.2.
Văn nghiệp Huỳnh Văn Nghệ....................................................... 22
CHƯƠNG 2: NHỮNG CẢM HỨNG CHÍNH TRONG THƠ HUỲNH VĂN
NGHỆ GIAI ĐOẠN 1945 - 1954 ....................................................................... 26
2.1.
Cảm hứng công dân ....................................................................... 27
2.1.1.
Ý thức sâu sắc về quê hương đất nước .......................................... 27
iii
2.1.2. Ý thức của một chiến sĩ đấu tranh cho nền độc lập, tự do của dân tộc .
.......................................................................................................... 36
2.2.
Cảm hứng xã hội – thế sự .................................................................. 43
2.2.1. Tố cáo tội ác của thực dân Pháp ........................................................ 44
2.2.2. Phản ánh cuộc sống cực nhục, khốn cùng và những bất công trong xã
hội của người dân Việt Nam ....................................................................... 51
2.3.
Cảm hứng tình yêu ........................................................................... 55
2.3.1. Tình yêu lãng mạn ............................................................................ 56
2.3.2. Tình yêu và lý tưởng ......................................................................... 60
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THƠ HUỲNH VĂN NGHỆ TRONG DÒNG
CHẢY CỦA THƠ KHÁNG CHIẾN Ở NAM BỘ GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
.............................................................................................................................. 63
3.1. Thể loại ............................................................................................... 63
3.1.1 Thể thơ lục bát .................................................................................... 63
3.1.2 Thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn............................................................... 67
3.1.3. Các thể thơ khác ................................................................................ 71
3.2.
Giọng điệu ......................................................................................... 74
3.2.1. Giọng điệu hào sảng ......................................................................... 75
3.2.2. Giọng điệu tâm tình ......................................................................... 78
3.2.3. Giọng điệu buồn thương, đau xót .................................................... 81
3.3.
Ngôn ngữ và hình tượng .................................................................. 85
3.3.1
Ngôn ngữ ......................................................................................... 86
3. 3.2 Hình tượng ....................................................................................... 90
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 96
TÀI LIỆU THAM KHẢO
iv
DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Trong suốt 30 năm, từ 1945 – 1975 văn học có một nhiệm vụ thiêng liêng –
phục vụ kháng chiến. Văn học kháng chiến nói chung và thơ ca kháng chiến ở Nam
Bộ nói riêng không chỉ là tiếng nói phản ánh khí thế hào hùng của cuộc chiến mà
thơ văn kháng chiến còn là vũ khí sắc bén để tuyên truyền cũng như động viên, cổ
vũ tinh thần, tạo niềm tin, sự hứng khởi cho hàng triệu trái tim đấu tranh vì sự bình
yên cho dân tộc. Có lẽ cũng chính vì thế mà hướng đến công chúng là một trong
những tiêu chí quan trọng của văn nghệ Nam Bộ từ thủa còn trong trứng nước.
Nếu như ở thơ ca kháng chiến chống Pháp miền Bắc ta bắt gặp rất nhiều tên tuổi
để lại dấu ấn với màu sắc cá nhân và cảm hứng lãng mạn như: Tố Hữu, Nguyễn
Đình Thi, Quang Dũng, Chính Hữu,Yên Thao … thì thơ kháng chiến ở Nam bộ
lại để lại rất nhiều dấu ấn đậm nét với khuynh hướng hướng ngoại và phản ánh
hiện thực với những cái tên như: Xuân Miễn, Việt Ánh, Viễn Phương, Hà Mậu
Nhai, Truy Phong, Kiên Giang Hà Huy Hà, Mai Văn Tạo, Hồ Thiện Ngôn ….
Đến với Huỳnh Văn Nghệ ta bắt gặp một hồn thơ gần gũi, bình dị. Từng lời thơ
được tác giả viết ra như những lời tâm tình, phản ánh chân thực những gì đang
diễn ra nơi mảnh đất quê hương, những gì người chiến sĩ Huỳnh Văn Nghệ đã tận
mắt chứng kiến trong cuộc chiến đấu gian khổ của dân tộc… Trong chín năm
kháng chiến chống Pháp, thơ Huỳnh Văn Nghệ từ 1945 – 1954 đã ghi lại những
vẻ đẹp tuyệt vời của con người Việt Nam anh hùng, dũng cảm giữa tột cùng gian
khổ hi sinh vẫn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng của dân
tộc. Lựa chọn đề tài “Thơ Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy của thơ kháng chiến
ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954”, người viết muốn đưa đến một hướng nghiên
cứu mới khi tìm hiểu thơ Huỳnh Văn Nghệ trong cái nhìn tương quan đối sánh với
các nhà thơ Nam bộ cùng thời khác. Từ đó, ta thấy được những đóng góp của thơ
Huỳnh Văn Nghệ trong dòng thơ kháng chiến ở Nam bộ nói riêng và thơ kháng
chiến của dân tộc nói chung.
1
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu về thơ kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ
Thời kì 1945 – 1954 là chín năm văn học Việt Nam đạt được nhiều thành công
rực rỡ nhất là thơ ca cách mạng với rất nhiều các nhà thơ xuất sắc cả ở hai miền
Nam, Bắc. Thơ ca cách mạng giai đoạn này không chỉ là nguồn động viên, cổ vũ
tinh thần to lớn, là vũ khí sắc bén trên mặt trận văn nghệ mà nó còn tạo niềm hứng
khởi, kích thích nhiều khối óc hăng say tìm tòi, khám phá, nghiên cứu thời hậu
chiến. Thơ ca kháng chiến giai đoạn này dù là miền Nam hay Bắc thì đều được
nghiên cứu trong nhiều công trình, chuyên luận văn học, hay tạp chí khoa học. Có
thể điểm qua một số công trình tiêu biểu sau:
Trong cuốn Văn học kháng chiến chống Pháp, các tác giả đã cố gắng phác thảo
nên một diện mạo chung của văn học Việt Nam kháng Pháp để thấy được “những
nét đặc trưng có tính chất quá độ từ một nền văn học phải tồn tại và phát triển
trong nền văn học thuộc địa chuyển sang một nền văn học dân tộc – hiện thực nhân dân, tiến lên hiện thực xã hội chủ nghĩa” (Phong Lê chủ biên – Nhà Xuất
bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1986).
Cuốn “Cách mạng – kháng chiến và đời sống văn học 1945 – 1954” là một
công trình ghi chép, biên tập, sưu tầm toàn bộ nội dung hồi ức kỉ niệm của trên sáu
mươi tác giả nhằm ôn lại một thời kì văn học mới sau cách mạng tháng 8 về văn
học kháng chiến chống Pháp. Qua cuốn sách này người nghiên cứu có thể hình
dung một phần diện mạo của văn học kháng chiến chống Pháp của dân tộc nói
chung và Nam bộ nói riêng. Trong đó ở phần nhật kí cuối năm 1947, Nguyễn Huy
Tưởng có nhận xét về các nhà thơ, nhà văn Việt Nam khá nặng nề: “Nhà văn Việt
Nam nhút nhát quá, không dám dấn thân vào chốn nguy hiểm. Chỉ nghĩ đến sáng
tác, mà không nghĩ đến sống cho mạnh” (Phong Lê và cs., Nhà Xuất bản Khoa
học Xã hội, Hà Nội – 1995).
Trong cuốn Văn học Việt Nam 1945 – 1975 (tập 1) đã trình bày các đặc điểm
cơ bản của văn học cách mạng qua từng giai đoạn. Trong sách có đoạn viết: “Các
nhà thơ đặc biệt nhấn mạnh đến tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ
2
Quốc. Đây là kết quả của quá trình cảm nhận hiện thực, vừa cụ thể, cô đọng, vừa
khát quát và nặng suy tư.” (Nguyễn Đăng Mạnh và cs., Nhà Xuất bản Giáo dục,
Hà Nội – 1988) Các bài thơ kháng chiến giai đoạn này hầu hết đều được viết ra từ
quá trình chiêm nghiệm thực tế, tận mắt chứng kiến những gian khổ, vất vả, hi sinh.
Trong sách, ở một đoạn khác, tác giả cũng có viết: “Tình yêu nước trong thơ kháng
chiến còn được thể hiện rất đậm nét qua tình yêu những con người kháng chiến.
Khác với thơ lãng mạn, giai đoạn này các nhà thơ rất ít nói về “cái tôi” mà chủ
yếu miêu tả, ngợi ca quần chúng nhân dân. Thơ ca nói đến những chị dân công,
những em liên lạc, những bà bầm bà bủ, những bần cố nông theo Đảng làm cách
mạng ruộng đất... những con người này vừa bình thường, chân chất vừa phi
thường, chói sáng, vừa mang truyền thống cha ông - cần cù, chịu thương chịu khó,
nhẫn nại, hi sinh – vừa có được khí phách anh hùng của giai cấp vô sản, của người
anh hùng mới” (Nguyễn Đăng Mạnh và cs., Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội –
1988).
Trong Văn học Việt Nam 1945 – 1954, tác giả giới thiệu rõ từng thể loại có sơ
lược hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của nền văn học Việt Nam sau cách mạng
tháng 8. Mã Giang Lân cho rằng: “Thơ lúc này là tiếng nói ca ngợi Tổ Quốc được
giải phóng, ca ngợi tự do, ca ngợi cuộc đời mới. Mặc dù còn thiếu cụ thể và sinh
động của hiện thực cách mạng nhưng thơ đã góp phần tăng thêm sự hứng khởi,
lòng tự hào và ý chí trách nhiệm của nhân dân đối với đất nước” (Mã Giang Lân,
Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội – 2004).
Khi nghiên cứu thơ văn kháng chiến ở Nam bộ, một công trình ta phải nói đến
là Văn chương tranh đấu Miền Nam. Trong công trình này, khi nói về nội dung mà
văn chương kháng chiến Nam bộ phản ánh đó là nỗi khổ của những con người
sống trong chiến tranh và tác dụng đặc biệt của thơ văn. Viết về mảng đề tài này,
Lý Văn Sâm đã viết: “ Nếu chịu khó tìm kiếm ta sẽ gặp vài bài nói về cảnh khổ của
người dân, nghĩa là số đông, của những người không ghi được sự đau khổ của
mình lên trên giấy. Đó là những lời có ích lợi thật sự cho kẻ đi sau tìm hiểu về thời
trước, nó là tiếng lòng nói lên sự cảm thông với nỗi đau khổ mà nhóm người phải
chịu đựng: Nó là những chứng tích của thời đại.” (Lý Văn Sâm, NXB Kỷ Nguyên
3
Sài Gòn – 1969). Nói như vậy để ta có thể hiểu rằng, thơ kháng chiến nói chung
và thơ kháng chiến ở Nam bộ nói riêng nó mang một giá trị to lớn cho việc thế hệ
sau có thể tìm hiểu về một thời đã qua, một quá khứ đau thương nhưng hào hùng
của dân tộc. Tuy nhiên khi viết về nội dung này, Lý Văn Sâm đồng thời cũng lí
giải tại sao số lượng các tác giả, tác phẩm viết về nó không nhiều: “ Không phải
người dân Việt không chú ý tới người xung quanh, các nhà văn không dám ghi lại
sự khổ sở của dân chúng vì họ không dám “ hoặc chúng, yêu thư” có thể họ rằng
đối tượng của thơ văn phải cao hơn là việc viết về cái đau khổ của những người
xung quanh, thấp lè tè dưới mặt đất. Mặt khác cũng vì văn từ khó khăn nên tiếng
lòng của các nhà văn có “đầu óc” không thể nào đồng nhịp để tạo thông cảm với
người nghèo khổ chung quanh và các văn thi sĩ xuất hiện từ lớp người này không
có được.” (Lý Văn Sâm, NXB Kỷ Nguyên Sài Gòn – 1969)
Ngoài các công trình nghiên cứu kể trên thì Văn chương Nam bộ và cuộc kháng
Pháp được đánh giá là một công trình nghiên cứu chuyên sâu về văn chương Nam
bộ thời chống Pháp. Trong đó thời điểm 1945 – 1950 là một giai đoạn đặc biệt của
cuộc kháng chiến, một giai đoạn mà “máu lửa khắp nơi, người chết, nhà cháy,
lòng người như một, cảm thấy yêu mến quê hương dân tộc hơn” cũng đã tác động
to lớn đến văn học kháng chiến thời kì này. “Văn chương Nam bộ vì vậy được
những người cầm bút coi như thể hiện sự đóng góp phân minh vào công cuộc
chung của quốc gia” (Nguyễn Văn Sâm, NXB Lửa thiêng, 1972). Văn chương
không chỉ là những con chữ nằm trên trang giấy mà nó đã bước chân ra ngoài đời
để làm sứ mạng lịch sử. Phần cuối sách, tác gỉa cũng nhấn mạnh: Văn học miền
Nam giai đoạn 1945 – 1950 rất phồn thịnh và thấy rằng mình có bổn phận giới
thiệu sự phồn thịnh đó, còn đặt giá trị của nền văn chương này trong vị trí văn học
Việt Nam thì xin nhường quyền lại cho sự lựa lọc của thời gian.” (Nguyễn Văn
Sâm, NXB Lửa thiêng, 1972). Ngoài ra, ông cũng bộc bạch thêm: “Cho đến ngày
nay có thể có người đã mất đi lòng tin tưởng nơi tiên đồ của dân tộc, nhưng chắc
chắn ai cũng nhận ra chứng cớ chính để những người của giai đoạn 1945- 1950
tin tưởng ở sự thành công của dân tộc Việt Nam là văn chương đã hỗ trợ tích cực
4
cho công cuộc giải phóng và hỗ trợ với một nghệ thuật tinh tế.” (Nguyễn Văn Sâm,
NXB Lửa thiêng, 1972).
Như vậy có thể thấy các công trình nghiên cứu về thơ kháng chiến chống Pháp
nói chung và chống Pháp ở Nam bộ nói riêng khá đa dạng. Nó cho ta thấy dược
diện mạo chung của thơ kháng chiến chống Pháp. Và nói cho cùng thì thơ kháng
chiến chống Pháp ở Nam bộ cũng nằm trong dòng chảy chung của thơ ca dân tộc
và phản ánh đúng tinh thần của thời đại cùng nội dung mà nó thể hiện.
2.2. Những nghiên cứu về thơ Huỳnh Văn Nghệ thời chống Pháp
Khi đặt Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy chung của thơ ca cách mạng Việt
Nam, có thể thấy những đề tài nghiên cứu về thơ Huỳnh Văn Nghệ không nhiều
như những nhà thơ khác nhưng những bài viết về ông ta thấy khá nhiều. Cụ thể:
Trong “Lòng ta say chiến trận đã thành thơ” (về thơ Huỳnh Văn Nghệ), Bùi
Công Thuấn có viết: “Thơ Huỳnh Văn Nghệ đã nhìn hiện thực bằng một hồn thơ
sáng trong. Những bi thương đã thăng hoa thành cái đẹp bình dị mà hào hùng. Lời
thơ của ông chân thực, mộc mạc tự nhiên như ngôn ngữ đời thường, không trau
chuốt nhưng “thi tính” vẫn hiên lên lấp lánh, hấp dẫn và rất riêng”. (Bùi Công
Thuấn, kỉ yếu hội thảo Huỳnh Văn Nghệ nhà thơ chiến sĩ, 2007, tr.119). Trong
phần kết của bài viết ông cũng có nói: “Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ có một hồn
thơ đẹp, một cốt cách lạ, vừa mạnh mẽ vừa đôn hậu, vừa rất riêng vừa rất chung.”
(Bùi Công Thuấn, Kỉ yếu Hội thảo Huỳnh Văn Nghệ nhà thơ chiến sĩ, 2017, tr.129).
Đó có lẽ cũng là một điểm lạ khi ta nghiên cứu thơ văn Huỳnh Văn Nghệ.
Hoàng Trọng Quyền trong bài viết: “Quan niệm nghệ thuật và cấu trúc thẩm
mĩ trong thi pháp thơ Huỳnh Văn Nghệ”, tác giả đi sâu tìm hiểu thi pháp thơ Huỳnh
Văn Nghệ dựa trên 2 khía cạnh: quan niệm nghệ thuật và cấu trúc thẩm mĩ. Trong
đó, tác giả nhấn mạnh vào ba yếu tố: tình, thép, lửa. “Các yếu tố Tình -Thép và Lửa
với các sắc thái độc đáo và đa dạng, hài phối tự nhiên, nhuần nhị và luôn thống
nhất từ cách biểu lộ xúc cảm, xây dựng và triển khai hình tượng, cách lựa chọn
các điểm nhìn nghệ thuật và diễn trình đối tượng thẩm mỹ trong những hình tượng
không gian và thời gian nghệ thuật giàu ấn tượng, biểu cảm và mới lạ.” (Hoàng
Trọng Quyền, Kỉ yếu Hội thảo Huỳnh Văn nghệ nhà thơ chiến sĩ, 2017, Tr. 15)
5
Trong “Huỳnh Văn Nghệ: chiến sĩ – nhà thơ thi tướng”, Nguyễn Huy Hùng
có viết: “Nếu ai đó định lại một vườn thơ kháng chiến ở Nam Bộ thì chắc chắn thơ
Huỳnh Văn Nghệ là một đóng góp. Thơ của ông giản dị mà gần gũi, đầy cảm hứng
mà sâu sắc, hồn nhiên mà xúc động…Ở một đoạn khác ông có viết:“Huỳnh Văn
Nghệ đánh giặc bằng cả gươm và bút. Đồng đội và nhân dân miền Nam gọi ông
là “thi tướng rừng xanh”. Làm thơ để đánh giặc, động viên những người ra trận
vì thế mà các bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đều phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu
gian khổ, oanh liệt ở chiến khu. Một chiều tiêu thổ, một trận công đồn, một trận
bão lụt, một chiến sĩ hi sinh… tất cả ùa vào thơ ông, mang nguyên cả những bụi
bặm chiến trường, nhiều khi như một phóng sự, ghi chép sự kiện.” (Nguyễn Huy
Hùng, Huỳnh Văn Nghệ: chiến sĩ – nhà thơ thi tướng truy cập ngày 3/3/2018 từ
http://nxbctqg.org.vn/index.php?option=com_content&view=article&id=4027:hu
nh-vn-ngh-mt-chin-s-nha-th-thi-tng&catid=112:tin-van-hoa-tu
tuong&Itemid=488).
Trong cuốn: Huỳnh Văn Nghệ - tác giả, tác phẩm huyền thoại một con người
trong bài “Nhớ người tay bút tay gươm”, tác giả cũng có viết: “Thơ Huỳnh Văn
Nghệ trở thành tiếng kêu thương của hàng triệu con người Việt Nam đang đau khổ
thời ấy. Vì thế không cần phải có những cuộc “chuyển biến” ngay buổi ban đầu,
xuất hiện trên các báo ở Sài Gòn, thơ Huỳnh Văn Nghệ đã là thơ hiện thực.” (Bùi
Quang Huy, NXB đồng Nai, 2008)
Trong buổi hội thảo: Huỳnh Văn Nghệ - nhà thơ, chiến sĩ được tổ chức nhân
dịp kỉ niệm 40 năm ngày mất của nhà thơ, thi tướng Huỳnh Văn Nghệ, phó chủ
tịch hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, ông Phạm Sỹ Sáu cũng cho hay: “Thơ thi tướng
Huỳnh Văn Nghệ không đơn thuần là tuyên truyền mà nó mang nhiều cảm xúc, dễ
thuộc, dễ đi vào lòng người. Bản thân nhà thơ khi sáng tác chắc cũng nghĩ thơ của
mình là để tuyên truyền cách mạng mà đó là suy nghĩ, tình cảm thực tế của người
chiến sĩ. Vì thế Huỳnh Văn Nghệ là nhà thơ tuyên truyền yêu nước có sức lan tỏa
và có sức sống đến tận bây giờ”. (Minh Ngọc – Võ Tuyên, Thêm góc nhìn về thơ
Huỳnh
Văn
Nghệ,
truy
cập
ngày
6
12/2/2018
từ
trang
wed
http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201710/them-goc-nhin-ve-tho-huynhvan-nghe-2856831/).
Tuy chỉ là sự tìm hiểu, trình bày ý kiến của từng cá nhân nhưng qua đó ta thấy
được sự nhận định của các nhà nghiên cứu, phê bình về thơ văn Huỳnh Văn Nghệ.
Trên cơ sở tham khảo, tổng hợp ý kiến đó, người viết đi vào nghiên cứu đề tài:
“Thơ Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy của thơ kháng chiến ở Nam bộ giai đoạn
1945 – 1954”. Nhìn chung đã có nhiều bài viết nghiên cứu về thơ kháng chiến
chống Pháp ở Nam bộ nói chung và thơ Huỳnh Văn Nghệ nói riêng nhưng trong
đề tài nghiên cứu của mình, người viết muốn đưa đến một hướng nghiên cứu mới
khi đặt thơ Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy của thơ kháng chiến ở Nam Bộ, từ
đó thấy được những nét tương đồng, khác biệt trong nội dung cũng như cách thức
thể hiện của một nhà thơ, chiến sĩ được mọi người ưu ái với tên gọi “thi tướng
rừng xanh” với các nhà thơ khác cùng thời. Qua đó ta thấy được đóng góp của thơ
Huỳnh Văn Nghệ trong nền thơ văn kháng chiến chống Pháp nước nhà.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu của mình, người viết tập trung nghiên cứu thơ Huỳnh
Văn Nghệ trên 2 phương diện nội dung và nghệ thuật trong quan hệ đối sánh với
một số các nhà thơ Nam Bộ cùng thời.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “Thơ Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy của thơ kháng chiến
ở Nam bộ giai đoạn 1945 – 1954”, người viết chỉ khảo sát những tác phẩm thơ của
Huỳnh Văn Nghệ được sáng tác giai đoạn 1945 – 1954 trong quan hệ đối sánh với
các bài thơ của các nhà thơ Nam bộ cùng thời và ở những phương diện nội dung
nổi bật. Người viết đi vào khảo sát, tìm hiểu làm sáng rõ những nét giá trị của thơ
Huỳnh Văn Nghệ để qua đó thấy được những đóng góp và vị trí của thơ Huỳnh
Văn Nghệ trong nền thơ ca kháng chiến 1945 – 1954. Ngoài Huỳnh Văn Nghệ, vì
lượng các nhà thơ khác ở Nam Bộ giai đoạn này là khá lớn nên người viết chỉ đưa
ra dẫn chứng bằng việc tập trung lựa chọn một số nhà thơ, một số bài thơ, đoạn
thơ mà người viết cho là tiêu biểu và phù hợp với nội dung nghiên cứu của mình.
7
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này người viết phối hợp một số các phương pháp nghiên cứu
sau:
-
Phương pháp phân tích: đây là một phương pháp cơ bản và phổ biến trong
nghiên cứu văn học nói chung. Người viết sẽ sử dụng phương pháp nghiên cứu
này để phân tích câu thơ, khổ thơ, đoạn thơ, bài thơ…có tính chất tiêu biểu, điển
hình để làm rõ các luận điểm của luận văn.
-
Phương pháp cấu trúc - hệ thống: phân loại những câu thơ, đoạn thơ theo
một tiêu chí, hệ thống có trước. Từ đó rút ra nhận xét giúp người đọc nắm bắt được
các sự việc trong cùng một mối quan hệ tổng thể, bao quát.
-
Phương pháp so sánh: mục đích của việc sử dụng phương pháp so sánh là
để khẳng định nét độc đáo, đặc sắc của Huỳnh Văn Nghệ trong mối tương quan
với các tác giả, tác phẩm của một số các nhà thơ Nam bộ khác. Với việc sử dụng
phương pháp này chúng tôi có cơ sở tìm hiểu, lý giải và xác định rõ những giá trị
cũng như đóng góp của thơ Huỳnh Văn Nghệ trên nhiều bình diện khác nhau.
-
Phương pháp tổng hợp: sau khi so sánh, đối chiếu, phân tích… thì tổng hợp
là phương pháp nhằm khái quát lại vấn đề.
Đây là những phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong quá trình nghiên cứu
và thực hiện đề tài. Để quá trình nghiên cứu đi đúng hướng, cách thức lựa chọn,
tổng hợp nguồn tài liệu là một trong những yếu tố quan trọng góp phần lí giải làm
sáng tỏ nội dung của đề tài. Ngoài 4 phương pháp trên trong quá trình thực hiện đề
tài người viết có kết hợp nhiều thao tác như: giải thích, chứng minh, bình luận…
để làm nổi bật vấn đề nghiên cứu.
5. Kết cấu luận văn
Luận văn gồm ba phần chính: phần dẫn nhập, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung gồm ba chương như sau:
Chương 1. Thơ ca kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954
và Huỳnh Văn Nghệ
Ở trong chương này, người viết đi vào tìm hiểu diện mạo thơ kháng chiến ở
Nam bộ giai đoạn 1945 – 1954 cũng như khái quát những đặc điểm của thơ ca
8
kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ giai đoạn này. Cùng với đó là tìm hiểu một
cách ngắn gọn về con người, cuộc đời cũng như sự nghiệp sáng tác của Thi tướng
Huỳnh Văn Nghệ.
Chương 2. Những cảm hứng chính trong thơ của Huỳnh Văn Nghệ giai đoạn
1945 – 1954
Khi tìm hiểu những cảm hứng sáng tác chính trong thơ Huỳnh Văn Nghệ người
viết tập trung triển khai theo 3 cảm hứng cơ bản là cảm hứng công dân, cảm hứng
xã hội – thế sự và cảm hứng tình yêu. Trong quá trình tìm hiểu người viết sẽ đặt
thơ Huỳnh Văn Nghệ trên tương quan đối sánh với các nhà thơ Nam Bộ cùng thời
khác để thấy được những nét tương đồng cũng như khác biệt khi ta tìm hiểu thơ
Huỳnh Văn Nghệ.
Chương 3. Nghệ thuật thơ của Huỳnh Văn Nghệ trong dòng chảy của thơ kháng
chiến ở Nam bộ giai đoạn 1945 - 1954
Ở phần này, người viết sẽ triển khai tìm hiểu nghệ thuật thơ Huỳnh Văn Nghệ
trên 3 phương diện cơ bản là: thể thơ, giọng điệu vả ngôn ngữ để từ đó làm sáng
rõ những đặc điểm cơ bản của nghệ thuật thơ Huỳnh Văn Nghệ nói chung.
Ngoài ra, còn có những phần phụ khác như phần mục lục, phụ lục và tài liệu
tham khảo.
9
CHƯƠNG 1. THƠ CA KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP Ở NAM BỘ
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954 VÀ HUỲNH VĂN NGHỆ
1.1.
Diện mạo thơ kháng chiến ở Nam Bộ giai đoạn 1945 – 1954
Trong kháng chiến, thơ là thể loại phát triển mạnh mẽ nhất, có tính quần chúng
sâu rộng và thành tựu cũng nổi bật hơn so với các thể loại khác. Có thể giải thích
hiện tượng này bằng truyền thống yêu thơ ca của dân tộc. Một lí do khác có thể
giải thích thơ là thể loại văn học cơ động, dễ nhớ, dễ thuộc, dễ đi vào lòng người.
Trong hoàn cảnh đất nước có giặc ngoại xâm, toàn dân đứng lên đánh giặc thì thơ
có thể xem là người bạn đồng hành cùng các chiến sĩ trong từng bước hành quân
và cuộc sống gian khổ ở chiến trường. Người ta khó có thể thuộc truyện, thuộc tiểu
thuyết, thuộc kí... nhưng thơ thì lại thật dễ dàng. Chính vì vậy, Hoài Thanh trong
Nói chuyện thơ kháng chiến đã nhận xét: “Dân tộc ta từ xưa vẫn thích làm thơ,
ngâm thơ. Từ Cách mạng tháng Tám, số người thích làm thơ, ngâm thơ lại càng
thêm nhiều”. (Hoài Thanh, Nói chuyện thơ kháng chiến). Xuân Diệu, trong mục
Tiếng thơ của tạp chí Văn Nghệ cũng đã có viết: “Các báo kháng chiến của chúng
ta không có mấy số là không có thơ. Những bài thơ gửi về toà soạn không thể đếm
bằng chục” (Xuân Diệu, Mục Tiếng Thơ, Tạp chí Văn Nghệ).
Ở Nam Bộ, so với các thể loại khác, thơ cũng có nhiều thành tựu hơn cả.
Sự phát triển mạnh mẽ của thơ kháng chiến ở .Nam bộ thực sự đã tạo nên một diện
mạo mới trong sáng tác văn chương. Thơ kháng chiến nói chung và thơ kháng
chiến ở Nam Bộ nói riêng thành công cả về mặt số lượng và chất lượng cả ở người
sáng tác và tác phẩm.
1.1.1.
Đội ngũ và phong trào
Thơ kháng chiến Nam Bộ 1945 – 1954 gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Bính,
Huỳnh Văn Nghệ, Xuân Miễn, Bảo Định Giang, Nguyễn Hải Trừng, Rum Bảo
Việt, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Tấn, Lê Ái Tha, Việt Ánh, Viễn Phương, Hà Mậu
Nhai, Truy Phong, Kiên Giang Hà Huy Hà, Mai Văn Tạo, Hồ Thiện Ngôn… Phần
lớn trong họ là những cán bộ và chiến sĩ trẻ trưởng thành trong phong trào quần
chúng, trong chiến đấu và sản xuất. Họ ít bị vướng víu bởi những tư tưởng, nghệ
thuật cũ. Họ cũng không mặc cảm với nhân dân, cách mạng như thế hệ đàn anh
10
nên sáng tác của họ hồn nhiên, khỏe khoắn và cũng bồng bột hơn. Chính vì vậy,
thành tựu của thơ ca kháng chiến phần lớn thuộc về thế hệ các nhà thơ lớn lên với
cách mạng và kháng chiến này.
Có thể tạm chia các nhà thơ kháng chiến giai đoạn 1945-1954 thành hai nhóm:
nhóm các nhà thơ từ vùng miền khác đến và nhóm các nhà thơ tại chỗ. Trong nhóm
thứ nhất, những gương mặt nổi trội có Nguyễn Bính, Xuân Miễn, Nguyễn Ngọc
Tấn… Nhóm thứ hai, gồm: Huỳnh Văn Nghệ, Hoàng Tố Nguyên, Việt Ánh…
Qua sáng tác của các nhà thơ vùng miền khác, điểm đáng ghi nhận là sự hội
nhập rất nhanh chóng của các nhà thơ vào công cuộc kháng Pháp của người Nam
Bộ.
Xuân Miễn là một trong số đó. Là người con của mảnh đất Hà Nam thế nhưng
từ 1945, Xuân Miễn đã có mặt ở trong cuộc chiến đấu của những ngày Sài Gòn
tháng tám và thơ ông đi sát cuộc chiến đấu diễn ra trên mảnh đất Nam bộ. Trong
thơ Xuân Miễn ta bắt gặp những vùng đất quen thuộc như: Bến Cát, Tây Ninh, Củ
Chi, An Phú Đông... Tất cả đều được nhắc đến với rất nhiều cảm xúc, khêu gợi, cô
đọng và tinh tế. Ngay từ những bài thơ miêu tả đầu tiên của Xuân Miễn đã đưa thơ
đi sát và trực tiếp phản ánh sinh hoạt của nhân dân trong khung cảnh thanh bình,
dung dị:
Ruộng bỏ không cày lau lách mọc
Đường mòn cỏ lấp vắng người đi
Cầu nghiêng ván đổ trên sông quạnh
Quạ đói kêu buồn rỉa tử thi.
Hơn ai hết ông là người sống và thấm thía nỗi khổ nhục của người dân từ đó
tạo nên một sức mạnh âm ỉ, một ngọn lửa căm thù đưa ông đến những hành động
chiến đấu dữ dội. Điểm thành công của nhà thơ Xuân Miễn vào những năm đầu
kháng chiến là đã phát hiện được những nét thầm kín vững chãi ở những câu thơ
chắc nịch, vừa có cảnh vừa có sự việc, ngắn gọn từ những lời thơ cô đúc rất mới
nếu như ta mang nó so sánh với các thơ Đường luật trước đây thì không thể có
được:
Một tối hành quân qua xóm nhỏ
11
Mẹ già lách cửa níu bàn tay
Con ơi giặc ác hơn lang sói
Mẹ chỉ con đi diệt bót này
Vì thế có lẽ thật hoàn toàn dễ hiểu khi ta thấy các đơn vị bộ đội địa phương,
dân quân du kích đều đem những bài thơ của Xuân Miễn để ngâm hoặc dựng hoạt
cảnh trong những buổi liên hoan dưới ánh sáng của lửa trại. Thực tế cuộc sống là
chất liệu để nhà thơ viết nên những bài thơ của mình. Chính vì vậy ta thấy nó rất
thật và luôn giàu cảm xúc. Thế nhưng ông không bao giờ coi đó là nguyên mẫu để
rồi biến thơ thành sự mô phỏng, sao chép mà chỉ coi đó là dữ kiện còn cốt lõi của
thơ là tư tưởng, tâm hồn, thế giới riêng của nhà thơ trong đó. Nhờ quan niệm đó
mà khi ta đọc những bài thơ mà ông viết dù là viết về những mất mát, đau thương
nhưng nó không hề bi lụy mà vẫn điềm tĩnh, tự tin chứa chan niềm tin phơi phới
vào tương lai, cuộc sống.
Trong nhóm các nhà thơ sinh ra và lớn lên ở Nam Bộ, Bảo Định Giang là cái
tên cần được nhắc đến. Là người con của mảnh đất Đồng Tháp, Bảo Định Giang
có những đóng góp nhất định cho nền thơ ca Nam Bộ nói chung và Đồng Tháp nói
riêng. Nếu Huỳnh Văn Nghệ là nhà thơ có đóng góp rất lớn cho tiếng thơ của vùng
chiến khu Đ vào những năm đầu kháng chiến thì ở Đồng Tháp, Bảo Định Giang
cho ra đời những tác phẩm khơi dậy tình yêu quê hương đất nước, lòng căm thù
giặc sâu sắc từ đó thúc giục lòng người kháng chiến. Thơ của ông chứa cái tình
chân thành, là tiếng hát dân gian hồn hậu. Giới trẻ ngày nay chắc chắn sẽ có người
nghĩ câu: Tháp Mười đẹp nhất bông sen/ Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ là câu
ca dao của người xưa nhưng thực ra đó lại là một câu thơ của Bảo Định Giang.
Đó là bước đầu trong quá trình chọn hướng đi cho thơ của ông. Con đường làm
thơ của ông luôn lấy tình cảm của người kháng chiến để đón nhận sự kiện, những
biến thiên của cuộc đời. Hướng đi của thơ Bảo Định Giang bao giờ cũng từ hồn
thơ của mình bắt rễ vào hồn thơ dân tộc và hình thức phong phú dân gian. Vì thế
những năm 1946, 1947 thơ ông có một sắc thái không lẫn với thơ của người khác
vì thơ lục bát của ông không mô phỏng, bắt chước, không rập khuôn những cái cũ..
Trong thơ ông ta thấy nó vừa mang phong vị ca dao vừa gắn liền với thực tế cuộc
12
sống và cảm xúc. Điều này thể hiện khá rõ trong bài thơ viết về quê hương ông:
Tình Đồng Tháp:
Rau dưa rau muống nở hoa
Lòng người cũng nở chim ca đầu cành
Hây hây nắng xế dịu lành
Bờ tràm rủ bóng bên kênh so hàng
Tình thương đất nước mênh mang
Hồn vui như nắng dải vàng ruộng xanh
(Tình Đồng Tháp – Bảo Định Giang)
Dù nói đến nỗi buồn hay niềm vui, dù gian khổ hay hạnh phúc, lục bát trong
thơ Bảo Định Giang vẫn mang tình cảm của một người con Đồng Tháp, và mỗi
đường nét, mỗi phong vị đều hết sức chân thật, đậm đà tình tứ:
Nước phèn trong vắt thủy chung
Bưng sâu thấy đáy tâm tình dân quê
Gái trai cất giọng trưa hè
Tình xa trăng gió nghiêng về nước non.
Ngoài sáng tác của các nhà thơ chuyên nghiệp, Nam Bộ cũng có phong trào
sáng tác thơ ca của quần chúng rất sôi nổi như các vùng miền khác của đất nước.
Các tờ báo xuất bản ở chiến khu đều có thơ của các tác giả không chuyên này.
Trong số đó, có thể kể đến Người chiến sĩ của Nguyễn Văn Hiền (báo Nam Bộ
kháng chiến, 1947), Trở về làng của Hoàng Phong, Câu hát tăng gia của Lương
Minh, Dòng máu bốn mươi của Thanh Bình, Du kích của Huy Hà… Các bài thơ
này có thể còn thô mộc, nhưng có thể nói đó chính là nền móng cho sự phát triển
của thơ ca kháng chiến sau này.
13
1.1.2.
Đặc điểm chính của thơ kháng chiến ở Nam bộ giai đoạn 1945 –
1954
1.1.2.1.
Thơ ca tập trung phản ánh hiện thực kháng chiến của dân tộc
Thơ ca Nam bộ giai đoạn này cũng hòa chung trong dòng chảy thơ dân tộc, đó
là tập trung phản ánh công cuộc đấu tranh kháng chiến chống Pháp với nhiều khó
khăn, đau khổ, hi sinh của mọi tầng lớp người dân. Trong đó thơ ca đi sâu vào sự
ác liệt, những mất mát, hi sinh của những con người trong cuộc chiến, bên cạnh đó
cũng đi sâu vào không khí chiến đấu hào hùng, niềm lạc quan, tin tưởng vào tương
lai tươi sáng của dân tộc.
Cách mạng tháng Tám thành công có thể coi đó là dấu mốc quan trọng trong
lịch sử dân tộc cũng như nền thơ ca nước nhà. Đất nước bước vào một giai đoạn
mới đánh dấu một bước chuyển quan trọng. Các nhà thơ được tự do sáng tác, nhân
dân đang phơi phới niềm vui, sự lạc quan tin tưởng vào tương lai của đất nước.
Thơ kháng chiến giai đoạn này như chiếc thuyền chở đong đầy những cảm xúc
mãnh liệt:
Kết chặt hàng đi dưới bóng cờ,
Trời Nam giành lại nước non xưa,
Tưng bừng vận mới hồn trai trẻ,
Một khối nghìn thu vững cõi bờ.
(Dưới cờ - Mộng Tuyết)
Không chỉ Dưới cờ của Mộng Tuyết mà rất nhiều bài thơ khác giai đoạn này
cũng thể hiện được tình cảm yêu nước và tinh thần quật cường của dân tộc. Trong
Xuân về say ý nhạc, Hoàng Tố Nguyên cũng cho ta thấy rõ điều đó:
Anh đi miền sông Hậu
Tôi về khám thị thành
Đêm đêm nhìn Bắc đẩu
Nôn nao lòng nhớ anh
Trời nơi anh sáng chứ?
14
- Xem thêm -