Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Thơ dương khâu luông (2)...

Tài liệu Thơ dương khâu luông (2)

.PDF
91
1050
98

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÝ THỊ VƯƠNG THƠ DƯƠNG KHÂU LUÔNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2013 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM LÝ THỊ VƯƠNG THƠ DƯƠNG KHÂU LUÔNG Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.01.21 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Hồng My THÁI NGUYÊN - 2013 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ giáo viên hướng dẫn TS. Lê Hồng My. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này là trung thực, khách quan và chưa từng được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào trước đây. Tác giả luận văn Lý Thị Vương i LỜI CẢM ƠN Với lòng kính trọng sâu sắc và tình cảm chân thành, em xin trân trọng cảm ơn: Khoa Ngữ văn, Khoa Sau đại học – Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Nhà thơ Dương Khâu Luông đã giúp đỡ cho em trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Đặc biệt em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến TS. Lê Hồng My, người đã nhiệt tình trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành luận văn. Xin được gửi lời cảm ơn đến những người thân: gia đình, bạn bè ...đã động viên, giúp đỡ tôi để luận văn được hoàn thành. Thái nguyên, tháng 04 năm 2013 Tác giả luận văn Lý Thị Vương ii MỤC LỤC Trang Trang bìa phụ Lời cam đoan ....................................................................................................i Lời cảm ơn .......................................................................................................ii Mục lục ...........................................................................................................iii MỞ ĐẦU......................................................................................................... 1 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................... 1 2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài .................................................................. 7 4. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................. 7 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 8 6. Đóng góp của đề tài...................................................................................... 8 7. Cấu trúc luận văn.......................................................................................... 9 NỘI DUNG ....................................................................................................10 Chương 1. DƯƠNG KHÂU LUÔNG - NHÀ THƠ DÂN TỘC TÀY GẮN BÓ VỚI QUÊ HƯƠNG BẮC KẠN ....................................................10 1.1. Quê hương và gia đình nhà thơ.................................................................10 1.2. Con người.................................................................................................16 1.3. Quan niệm sáng tác và hành trình sáng tác của nhà thơ ............................17 1.3.1. Quan niệm sáng tác ...............................................................................17 1.3.2. Hành trình sáng tác ................................................................................18 Chương 2. CẢM HỨNG CHỦ ĐẠO TRONG THƠ DƯƠNG KHÂU LUÔNG..27 2.1. Tình yêu đắm say với vẻ đẹp của thiên nhiên miền núi và phong tục, tập quán làng bản quê hương. ..........................................................................27 2.2. Tình cảm gắn bó chân thành với những con người miền núi mộc mạc, chân tình..........................................................................................................43 2.3. Niềm tự hào, lạc quan trước sự đổi thay của quê hương đất nước .............55 iii Chương 3. THỂ THƠ, GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ.............................63 3.1. Thể thơ linh hoạt ......................................................................................63 3.2. Giọng điệu hồn nhiên, trong sáng .............................................................68 3.3. Ngôn ngữ bình dị, gần gũi “lời ăn tiếng nói” của người dân miền núi......73 KẾT LUẬN....................................................................................................78 TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................81 iv MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Thơ ca các dân tộc thiểu số là một bộ phận không thể tách rời của nền văn học Việt Nam, góp phần làm nên sự phong phú, đa dạng, giàu bản sắc của nền thơ ca đất Việt. Hòa trong dòng chảy của thơ ca dân tộc thiểu số có nguồn mạch không ngừng nghỉ của thơ ca dân tộc Tày – một “dòng riêng giữa nguồn chung”. Cùng với sự vận động của thời gian, thơ dân tộc Tày ngày càng sung sức, phát triển cả về lực lượng sáng tác, số lượng và chất lượng tác phẩm, hình thành nên những phong cách và giọng điệu nghệ thuật độc đáo. Ở nhiều địa phương, đặc biệt là khu vực miền núi phía Bắc, các nhà thơ dân tộc Tày vẫn đang hòa nhịp cùng cuộc sống, say sưa tìm nguồn cảm hứng sáng tác. “Vườn thơ” dân tộc Tày vẫn tiếp tục “đâm chồi nảy lộc”, “đơm hoa kết trái” làm nên những hương sắc mới. Bên cạnh các tác giả dân tộc Tày đã “thành danh” trong nền thơ Việt Nam hiện đại như: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triều Ân, Ma Trường Nguyên và gần đây là Y Phương, Dương Thuấn...còn có thêm những cây bút mới như: Đinh Thị Mai Lan, Hoàng Chiến Thắng, Dương Khâu Luông,...Tuy số lượng tác phẩm chưa nhiều, nhưng những cây bút mới này cũng đã đạt được thành công ban đầu, góp phần làm nên sự tươi mới và phong phú cho diện mạo thơ của dân tộc Tày thời kỳ hiện đại. Dương Khâu Luông là nhà thơ dân tộc Tày thuộc thế hệ thứ ba. Trong 10 năm sáng tác (2003 – 2013), nhà thơ đã từng bước khẳng định được vị trí của mình đối với văn học địa phương Bắc Kạn nói riêng và đối với thơ dân tộc Tày nói chung. Trong số các tập thơ đã xuất bản của ông có những tập đạt giải thưởng cao của Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam. Thơ Dương Khâu Luông đã góp phần làm phong phú thêm đời sống tinh thần của người dân quê hương; góp phần lưu giữ những giá trị văn hóa truyền 1 thống của đồng bào Tày; thúc đẩy sự phát triển của văn học địa phương Bắc Kạn - một vùng quê giàu truyền thống cách mạng và văn hóa. Tại Đại hội lần thứ III – Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn, cùng với các tác giả Triệu Kim Văn, Nông Văn Kim, Hoàng Chiến Thắng, Dương Khâu Luông được đánh giá là một trong cây bút tiêu biểu “có tác phẩm tốt, đạt nhiều giải thưởng về văn học nghệ thuật ở cả Trung ương lẫn địa phương” [24, Tr.10]. Tuy nhiên, đối với giới nghiên cứu phê bình văn học, sáng tác của Dương Khâu Luông mới được khai phá bước đầu. Chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu toàn diện về thơ Dương Khâu Luông, giới thiệu đầy đủ bức chân dung văn học và những thành công đã đạt được của cây bút thơ Tày này với độc giả cả nước; để từ đó, người yêu thơ thêm yêu mến thơ Tày, thêm tin tưởng vào sự phát triển về văn hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Với ý thức nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số qua thực tế sáng tác, đưa đến cho độc giả một cái nhìn toàn diện hơn về một bức chân dung của thơ Tày hiện đại, chúng tôi chọn “Thơ Dương Khâu Luông” làm đề tài nghiên cứu. Hy vọng việc lựa chọn đề tài và kết quả nghiên cứu sẽ góp phần khẳng định thành tựu của thơ Tày nói riêng và sự phát triển của văn học các dân tộc thiểu số trong diện mạo chung của nền văn học Việt Nam. Là một người con của dân tộc Tày gắn bó với quê hương miền núi, chọn đề tài này, người nghiên cứu còn muốn khẳng định và gửi gắm niềm tự hào về quê hương, muốn giới thiệu về thành tựu văn học của dân tộc mình đến với bạn đọc gần xa, đưa thơ Tày từ “dòng riêng” hòa nhập vào “nguồn chung” của dòng thơ dân tộc Việt. 2. Lịch sử vấn đề Kể từ khi tập thơ đầu tay được xuất bản đến nay, hành trình sáng tác của Dương Khâu Luông đã tới mười năm. Trong mười năm đó, nhà thơ đã đạt 2 được những thành công đáng ghi nhận. Tuy thập niên vừa qua, thơ Dương Khâu Luông được giới thiệu, nghiên cứu chưa nhiều; song cũng đã có một số bài viết thể hiện sự quan tâm tìm hiểu và bước đầu khám phá sáng tác của nhà thơ. Với cảm nhận của người đã có nhiều trải nghiệm trong sáng tác, nhà thơ Lò Ngân Sủn đã chú ý đến một cây bút mới có triển vọng của thơ Bắc Kạn tham gia trại sáng tác của Hội Liên hiệp các Dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2001. Lò Ngân Sủn nhận thấy ngòi bút Dương Khâu Luông:“nhìn chung đang ở dạng “khao khát”, như hoa chớm nở, như mưa khẽ rơi, như lửa mới bén, như máng nước ngày đêm nhỏ nhẹ chảy vào chum vại nhà sàn ...; tuy nhiên tiếng thơ còn “thiếu sức nặng, sức bật” (Vài nét về thơ Bắc Kạn qua trại sáng tác năm 2001), [57, tr.15]. Đây là nhận xét chính xác nhưng lại hàm chứa nhiều khích lệ đối với Dương Khâu Luông trong “Cái thuở ban đầu lưu luyến” với thơ. Hoàng Quảng Uyên – thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Cao Bằng, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam - một đồng nghiệp và cũng là một trong số những người cầm bút đầu tiên viết về thơ Dương Khâu Luông. Trong cuốn Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam - Đời và văn (2003), Hoàng Quảng Uyên đã nhận xét:“Đọc Dương Khâu Luông ta cảm được vị ngọt của niềm vui trong khóe mắt vị đắng nước mắt ở đầu môi. Đó là kết quả của sự quan sát chắt lọc, chiêm nghiệm và cao cả hơn là sự hòa đồng của một tấm lòng trong vạn tấm lòng. Đây là mặt mạnh trong thơ Dương Khâu Luông: Nói ít, gợi nhiều.”[22, tr.435]. Điều kiện sống và sáng tác gần gũi đã giúp Hoàng Quảng Uyên sớm nhận ra “mặt mạnh” của ngòi bút Dương Khâu Luông. Vào thời điểm đó, Dương Khâu Luông mới bước vào chặng đầu tiên trên hành trình thơ. Nhận xét của Hoàng Quảng Uyên vừa có tính gợi mở, định hướng cho độc giả tìm đọc và đón nhận thơ Dương Khâu Luông; vừa có ý nghĩa động viên đối với một cây bút trẻ của văn học miền núi. 3 Tiếp theo đó, trong một bài viết khác về Dương Khâu Luông - Những giấc mơ về miền quê cũ (2006) - tác giả Hoàng Quảng Uyên tiếp tục có nhận xét mới:“Thơ Dương Khâu Luông không nặng về triết lý nhưng nhờ sự quan sát tinh tế với tấm lòng cảm thông nên từ những cảnh huống bình thường tự nó đã thành những bài học luân lý” [76]. Ý kiến này bổ sung cho nhận xét trước đó của Hoàng Quảng Uyên, giúp người đọc cảm nhận rõ hơn nét riêng của cây bút thơ trẻ này. Thơ Dương Khâu Luông dần thu hút nhiều hơn sự quan tâm của đồng nghiệp và các nhà nghiên cứu phê bình văn học: Triệu Hữu Định, Nguyễn Đức Thiện, Tạ Văn Sỹ, Hoàng Chiến Thắng, Hữu Tiến, Tuệ Minh, Đỗ Thị Thu Huyền, Triệu Hoàng Giang…Bài viết của các tác giả đã khám phá một số phương diện nổi trội của thơ Dương Khâu Luông; đáng chú ý là mảng thơ viết về thiên nhiên và cuộc sống quê hương, giọng điệu riêng của nhà thơ. Tác giả Triệu Hữu Định trong bài viết Nghĩ về bản sắc dân tộc miền núi trong tập thơ “Bắt cá ở sông quê” của Dương Khâu Luông (2006) đã nhận xét: “Đọc tập thơ ta thấy mình như trẻ lại, như thể được trở về với quê hương trong cách cảm nhận cuộc sống hồn nhiên, chất phác của đồng bào miền núi.”[15]. Nguyễn Đức Thiện khi đọc tập thơ song ngữ Co nghịu hưa căn (Cây gạo giúp người - xuất bản năm 2006) của Dương Khâu Luông đã “thấy ngay sự thú vị”. Ấn tượng sâu đậm nhất của nhà nghiên cứu đối với tác giả tập thơ là tâm hồn “hồn nhiên như cây lá” và “tình yêu tha thiết mà anh dành cho quê hương”[66]. Qua tập thơ “Bắt cá ở sông quê”, Tạ Văn Sỹ đã “nắm bắt” được cách biểu đạt “kiệm lời nén ý” và giọng điệu riêng của thơ Dương Khâu Luông, “một giọng thơ tự nhiên,hồn nhiên đến trong trẻo”, “tinh khôi như nước suối đầu nguồn” (Tiếng thơ trong trẻo - 2007) [63]. Đánh giá thành công của tập 4 thơ này, Hoàng Chiến Thắng khẳng định: “Với tập thơ Bắt cá ở sông quê, Dương Khâu Luông đã thật sự ghi dấu trong lòng người đọc bằng những vần thơ giàu xúc cảm mà chân chất đồng rừng. Anh đã lựa chọn hướng đi về cội nguồn, về với con người miền núi, với thiên nhiên…” (Tư duy miền núi trong thơ Dương Khâu Luông - 2008) [64]. Những nhận xét và đánh giá trên đã ghi nhận một bước tiến mới của thơ Dương Khâu Luông. Qua tư liệu đã tập hợp, chúng tôi thấy tập thơ Bắt cá ở sông quê cũng đã trở thành đối tượng tìm hiểu, nghiên cứu trong đợt thực tế văn học của sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Với góc nhìn văn hóa, Vũ Thị Hương, sinh viên lớp Văn chất lượng cao K51 của Trường đã bước đầu quan tâm đến “lối tư duy dân tộc Tày” và nhãn quan “người của bản” trong thơ Dương Khâu Luông, thể hiện qua những bài thơ viết về cảnh vật, lễ hội, con người của nhà thơ [28]. Trong số những người có “duyên nợ” với văn học miền núi, Đỗ Thị Thu Huyền là người mang nhiều “ám ảnh” về thơ Dương Khâu Luông. Chị tìm hiểu thơ Dương Khâu Luông trên cả bình diện khái quát và qua những bài thơ cụ thể. Trong bài viết Dương Khâu Luông – người hát trên đất mẹ (2008), tác giả đã nhận thấy ở ngòi bút Dương Khâu Luông “một độ chín, một sức bật cần thiết, một triển vọng lâu dài trong hành trình sáng tạo nghệ thuật” [27]. (Như vậy, điều mà Lò Ngân Sủn hy vọng, tin tưởng trước đó cũng đã được khẳng định). Đỗ Thị Thu Huyền còn giới thiệu, thẩm bình về các bài thơ: Em về nhà chồng; Cái áo của bà; Đến Cao Bằng; Nghe tiếng chim ở Tài Hồ Sìn – “những dòng xúc cảm đẹp” trong thơ Dương Khâu Luông. Triệu Hoàng Giang – nhà thơ dân tộc Dao, thành viên Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Kạn - cảm nhận sâu sắc “Hơi ấm từ Bản Hon” qua tập thơ Lửa ấm Bản Hon của Dương Khâu Luông. Năm 2012, ông đã viết bài giới thiệu về tập thơ này của đồng nghiệp với tình cảm yêu mến và trân trọng: “Tập thơ 5 đánh dấu thêm một năm thành công của nhà thơ Dương Khâu Luông”; “Ngọn lửa cháy trong tim ông chính là tình yêu Bản Hon, yêu cảnh vật, yêu con người của Dương Khâu Luông” [17]. Cũng đến với tập thơ Lửa ấm Bản Hon, Hữu Tiến nhận thấy tình yêu quê hương chính là cội nguồn của sức lan tỏa trong thơ Dương Khâu Luông: “Chính cảm xúc về cội nguồn đã làm cho thơ anh chảy từ suối nhỏ ra sông to, bay từ không gian hẹp đến không gian rộng và đi từ Bản Hon đến với mọi người” [71]. Trong bài Lửa ấm ân tình, Tuệ Minh nêu ấn tượng về vẻ đẹp của một hồn thơ “trong trẻo, dạt dào đầy tình nghĩa” đối với quê hương và kết luận: “Tập thơ Lửa ấm Bản Hon là một biểu hiện sâu sắc ân tình của nhà thơ Dương Khâu Luông với bản nhỏ nơi anh sinh ra và lớn lên nói riêng, với một quê hương tâm hồn nói chung. Những bài thơ ấm áp nghĩa tình sẽ thanh lọc và khơi gợi nơi người đọc những tình cảm đẹp đẽ mà có thể cuộc sống với bao hối hả đã làm mòn đi và xa ra” [42]. Tìm hiểu quá trình nghiên cứu về thơ Dương Khâu Luông, qua những bài viết đã sưu tầm, tập hợp được, chúng tôi nhận thấy: - Thơ Dương Khâu Luông được chú ý ngay từ những bài đầu tiên đăng báo địa phương. Từ năm 2001 đến nay, có khoảng gần hai chục bài viết về thơ ông. Quan tâm tìm hiểu thơ Dương Khâu Luông không chỉ có đồng nghiệp và độc giả miền núi mà còn có cả những cây bút nghiên cứu phê bình văn học chuyên nghiệp và độc giả miền xuôi. - Các bài viết về thơ Dương Khâu Luông chủ yếu trình bày cảm nhận và giới thiệu từng tập thơ hoặc từng bài thơ cụ thể của ông. Khi gắn kết các bài viết đó lại, người ta có thể hình dung được những nét phác thảo về Dương Khâu Luông - Một nhà thơ gắn bó với cuộc sống và con người miền núi - Một giọng thơ hồn nhiên, trong trẻo, chiếm được nhiều thiện cảm của người đọc. Một số nét nghệ thuật trong thơ ông cũng đã được đề cập tới nhưng chưa có sự khảo sát, đánh giá tổng thể, toàn diện. 6 - Để có được bức chân dung văn học đầy đủ hơn về Dương Khâu Luông; từ đó nhận rõ diện mạo thơ ông trong nền thơ Tày hiện đại, làm cơ sở đánh giá đóng góp của nhà thơ đối với thơ ca các dân tộc thiểu số ở miền núi, cần có một công trình nghiên cứu chuyên sâu về thơ Dương Khâu Luông. - Khi tìm hiểu đối tượng nghiên cứu, chúng tôi tiếp nhận từ những người đi trước nhiều gợi ý quý báu và những nhận định có giá trị; từ đó, tập trung khảo sát, phân tích để có cái nhìn toàn diện và sâu sắc về thơ Dương Khâu Luông. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài 3.1. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu thơ Dương Khâu Luông, luận văn nhằm đạt được những mục đích sau: - Dựng lên bức chân dung văn học của nhà thơ Dương Khâu Luông; từ đó nhận diện được thơ ông trong diện mạo chung của thơ Tày hiện đại. - Đánh giá được đóng góp của nhà thơ đối với sự phát triển của thơ Tày nói riêng và thơ các dân tộc thiểu số nói chung. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Nghiên cứu các yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sáng tác thơ của Dương Khâu Luông: quê hương, gia đinh, quá trình học hành, nghề nghiệp; - Xác định và phân tích các luận điểm về cảm hứng chủ đạo, thể thơ, giọng điệu và ngôn ngữ thơ Dương Khâu Luông; - Đánh giá toàn diện về thơ Dương Khâu Luông và chỉ ra phần hạn chế (nếu có). 4. Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và nhiệm vụ đã đề ra, chúng tôi đã sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau: - Phương pháp thống kê - phân loại được sử dụng để khảo sát và xác định các đặc điểm về mặt nội dung và hình thức của đối tượng nghiên cứu. 7 - Phương pháp phân tích - tổng hợp là phương pháp cơ bản nhất được sử dụng trong quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ các luận điểm khoa học về thơ Dương Khâu Luông. - Phương pháp so sánh - đối chiếu: Phương pháp này giúp người nghiên cứu chỉ ra được nét riêng của thơ Dương Khâu Luông so với với các nhà thơ dân tộc thiểu số khác (nhất là các nhà thơ Tày cùng thế hệ với nhà thơ). 5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Xác định đối tượng nghiên cứu là Thơ Dương Khâu Luông, phạm vi nghiên cứu của đề tài là toàn bộ các tập thơ đã xuất bản của nhà thơ; sắp xếp theo trình tự thời gian như sau: Gọi bò về chuồng (2003;) Dám kha cần ngám điếp (thơ tiếng Tày – 2005;) Bản mùa cốm (2006); Bắt cá ở sông quê (2006); Co nghịu hưa cần (Song ngữ - 2008); Lửa ấm Bản Hon (2012); Khỉ con đi hái quả (2013); Trong đó, phạm vi trọng tâm là các tập thơ viết bằng tiếng Việt của nhà thơ. 6. Đóng góp của đề tài Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về thơ Dương Khâu Luông; xác định những đóng góp của nhà thơ đối với thơ dân tộc thiểu số nói chung và thơ Tày nói riêng; góp phần khẳng định diện mạo phong phú và sự phát triển không ngừng của văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn đóng góp thêm một tài liệu tham khảo thiết thực phục vụ giảng dạy, học tập và nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số và văn học địa phương. 8 7. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn được triển khai trong ba chương: Chương 1. Dương Khâu Luông – nhà thơ dân tộc tày gắn bó với quê hương Bắc Kạn Chương 2. Cảm hứng chủ đạo trong thơ Dương Khâu Luông. Chương 3. Thể thơ, giọng điệu và ngôn ngữ. 9 NỘI DUNG Chương 1 DƯƠNG KHÂU LUÔNG - NHÀ THƠ DÂN TỘC TÀY GẮN BÓ VỚI QUÊ HƯƠNG BẮC KẠN 1.1. Quê hương và gia đình nhà thơ Dương Khâu Luông người dân tộc Tày, tên khai sinh là Dương Văn Phong, sinh năm 1964, quê ở bản Hon, xã Bành Trạch, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Bắc Kạn quê hương ông là một tỉnh thuộc địa bàn miền núi phía Bắc phong cảnh “sơn thủy hữu tình”, có núi cao hùng vĩ, lại có những dòng sông thơ mộng như sông Cầu, sông Năng đã đi vào trang thơ của nhiều thi sĩ. Đặc biệt, nơi đây còn nổi danh bởi cảnh đẹp của hồ trên núi – hồ Ba bể - với cảnh quan thiên nhiên kỳ thú cùng bao sự huyền kỳ, cổ tích, ca dao đã từng làm say đắm lòng người: Bắc Kạn có suối đãi vàng Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh. (Ca dao) Nhà thơ Dương Khâu Luông gắn bó sâu nặng với quê hương Bắc Kạn. Suốt từ thời ấu thơ đến tuổi trưởng thành, trừ một số năm dạy học ở Cao Bằng (1988–1992), ông sống và làm việc ở Bắc Kạn. Với Dương Khâu Luông, Bắc Kạn là Đất Mẹ. Thơ ông là nguồn cảm xúc trong sáng được nuôi dưỡng từ nguồn sữa ngọt lành của Đất Mẹ - Quê hương. Bắc Kạn là nơi hội tụ của nhiều dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc lại có những phong tục tập quán bền vững, mang đậm bản sắc dân tộc. Bản sắc ấy được thể hiện đậm đà, phong phú trong cả đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nơi đây. Bản Hon của Dương Khâu Luông là một bản Tày thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn. Nơi đây có nhiều phong tục tập quán được lưu giữ từ lâu đời. Tiếng 10 Tày và những điệu hát truyền thống như hát then, hát lượn gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần của người dân Tày bản Hon. Trong cưới hỏi, thanh niên nam nữ được tự do tìm hiểu trước khi đi đến hôn nhân. Hôn lễ truyền thống của người Tày được tiến hành qua các nghi thức: Lễ dạm, lễ ăn hỏi, lễ sêu tết, lễ báo ngày cưới, lễ cưới, lễ đón dâu, đưa dâu...Trong lễ cưới có tục mang phong bao (tiền) đến mừng họ nội, họ ngoại để tỏ mối quan hệ và sự trân trọng giữa hai họ. Hàng năm người Tày có nhiều ngày tết với những ý nghĩa khác nhau. Tết Nguyên đán mở đầu năm mới; Tết rằm tháng Bẩy cúng các vong hồn là những tết lớn được tổ chức long trọng. Ngoài ra còn phải kể đến Tết gọi hồn trâu bò tổ chức vào mùng 6 tháng 6 âm lịch, sau vụ cấy và Tết cơm mới, tổ chức trước khi thu hoạch - những cái tết rất đặc trưng của người Tày. Vào dịp đầu xuân, người Tày thường tổ chức lễ hội lồng tồng nhằm cầu mong mưa thuận gió hòa, một năm mùa màng bội thu, gia đình no đủ, yên ấm. Trong hội lồng tồng, người Tày tổ chức các trò chơi dân gian như ném còn, kéo co, chọi gà... Người Tày rất coi trọng thờ cúng tổ tiên, thờ các thần (thần nông, thần sông, thần núi, thần bếp...) cầu mùa màng, cầu phúc, cầu lộc mang ý nghĩa tâm linh phồn thực. Hát then, hát lượn cũng là một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc Tày. Người Tày say đắm với những câu lượn, tiếng then trong các cuộc vui, lễ hội, đám cưới hỏi, chúc thọ, mừng tân gia, cầu mùa và hát giao duyên trong các lễ hội, chợ phiên: “Câu Then/ Tiếng Lượn/ Như mật ong/ Ngọt lịm/ Cả trẻ, già đều say” (Dương Khâu Luông) “Dẫu khi buồn, khi vui Trẻ già ai cũng hát Câu Then tình bát ngát Say người hơn say men” (Điệu hát quê mình - Dương Khâu Luông). 11 Bắc Kạn còn là mảnh đất hội tụ, gắn bó nhiều thế hệ nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số: Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Triệu kim Văn, Dương Thuấn.v.v…Nông Quốc Chấn – người mở đầu cho nền thơ Tày hiện đại - đã có một sự nghiệp thơ đáng tự hào: thơ bằng tiếng Việt - 4 tập: Tiếng ca người Việt Bắc (1959), Dòng Thác, Bài thơ Pác Bó (1971), Suối và biển (1984); thơ bằng tiếng Tày - 6 tập: Việt Bắc đánh giặc, Dọn về làng, Đi Berlin về, Tiếng lượn cần Việt Bắc, Cần Phja Bjoóc, Dám kha Pác Bó (Bước chân Pác Bó). Thơ Nông Quốc Chấn đã đặt một dấu mốc lịch sử quan trọng, đưa thơ ca dân tộc Tày sang một giai đoạn mới, bước vào quỹ đạo hiện đại của nền thơ Việt Nam. Giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 2 - năm 2000) là một ghi nhận xứng đáng cho những đóng góp của nhà thơ. Nông Viết Toại – cũng là một trong những nhà thơ, nhà văn thuộc thế hệ đầu của nền văn học Bắc Kạn. Các tác phẩm của ông cũng ngợi ca về thiên nhiên, con người miền núi với tình cảm tha thiết, chân tình. Đến nay ông để lại một “gia tài” Văn chương không nhỏ, các tập như: Sloại slóc vứt pây (thơ,1956), Nam kim thị đan (1957), Hai em bé mồ côi (1957), Kin ngày phuối khát (1962), Đét chang nâu (1976), Boỏng tàng tập éo (1962), Ca dao tục ngữ Tày (in chung, 1996), Ngoảnh đếnh, tuyển tập Nông Viết Toại… Ngoài ra ông viết tiểu luận, ghi chép… Có thể nói, những sáng tác của ông nổi bật lên hình ảnh về những con người vùng núi rừng Việt Bắc. Họ đấu tranh với áp bức, bóc lột để đến với cách mạng và đấu tranh với những tàn dư của chế độ cũ… Rồi những truyện ngắn như Anh vệ quốc đoàn, chiều 30 tết… về tấm lòng của người dân miền núi đến với cách mạng. Nhìn chung các truyện ngắn của ông có văn phong giản dị, nhẹ nhàng, dí dỏm nhưng cũng đầy quyết liệt phê phán những thói mê tín dị đoan như trong truyện Cái Pửt và thói tư lợi cá nhân trong truyện Sạn... và đặc biệt đọc thơ ông người đọc có thể cảm nhận được âm hưởng các làn điệu dân ca Tày (tiếng Then, tiếng lượn). 12 Dương Thuấn là người con của quê hương Bắc Kạn có nhiều đóng góp cho thơ ca dân tộc Tày: thơ bằng tiếng Việt - 12 tập: Cưỡi ngựa đi săn (1991), Đi tìm bóng núi (1993), Đi ngược mặt trời (1995), Bà lão và chích chòe (1997), Hát với sông Năng (2001), Mười bảy khúc đảo ca (2002), Đêm bên sông yên lặng (2004), Thơ với tuổi thơ (2005), Chia trứng công (2006). Thơ bằng tiếng Tày – 3 tập: Lục pjạ hết lúa (1995), Trăng Mã Pí lèng (2002), Slíp nhỉ tua khoăn (2002)...Dương Thuấn luôn thể hiện ý thức trân trọng, nâng niu, bảo tồn văn hóa truyền thống. Thơ Dương Thuấn mang đậm “chất Tày” từ khung cảnh thiên nhiên, đời sống sinh hoạt của con người đến tâm hồn, cảm xúc và cách biểu đạt hình tượng, giọng điệu, ngôn ngữ thơ. Tuyển tập Dương Thuấn gồm ba tập, dày hai ngàn trang, được nhà thơ viết bằng hai thứ tiếng Tày – Việt đã đưa tên tuổi của nhà thơ vào Kỷ lục Guiness Việt Nam (2013) với hai hạng mục: Bộ sách song ngữ Tày – Việt đầu tiên và Bộ Tuyển tập thơ dày nhất Việt Nam. Kế tiếp những thế hệ đi trước, Dương Thuấn tiếp tục “vinh danh” thơ Tày trong nền thơ dân tộc và đưa thơ Tày đến với người đọc gần xa. Hoàng Chiến Thắng là một trong những nhà thơ trẻ, hiện đại của thơ ca Bắc Kạn. Anh là tác giả của tập thơ Gọi ngày xuống núi và tập truyện ngắn Sương mù Lũng Noong. Hoàng Chiến Thắng (sinh năm 1980 ở Chợ Đồn, Bắc Kạn, dân tộc Tày) nổi lên như một tác giả trẻ có nhiều triển vọng trên con đường sáng tác văn học. Bộ sưu tập giải thưởng của Hoàng Chiến Thắng khá đẹp: Giải Nhì cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội năm 2008-2009 với bài Bà tôi; Giải Trẻ Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam năm 2009 cho tập thơ Gọi ngày xuống núi; Giải C Hội VHNT các DTTS năm 2010 cho tập truyện ngắn Sương mù Lũng Noong; Giải Nhất cuộc thi truyện ngắn năm 2010 của tạp chí Tiếp thị & Gia đình; Giải Nhì thơ (không có Nhất) và giải Ba truyện ngắn cuộc thi thơ và truyện ngắn tỉnh Bắc Kạn 2006-2008. Hiện nay, số lượng hội viên văn học của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn (khóa III) đã lên tới 28 người [24]; tiêu biểu như Nông Thị Ngọc 13 Hòa, Dương Khâu Luông, Nông Thị Tô Hường, Dương Quốc Hải, Lường Văn Thắng, Bàn Văn Vình, Hà Văn Roanh, Phùng Thị Hương Ly, Hoàng Thị Điềm, Hoàng Chiến Thắng... Họ đã mang đến cho văn học Bắc Kạn sức sống mới trên cơ sở kế thừa và phát huy truyền thống văn học của quê hương. Thực tế cho thấy Bắc Kạn là địa phương còn lưu giữ được nhiều nét bản sắc văn hóa truyền thống. Một trong những nhân tố góp phần lưu giữ và phát triển truyền thống văn hóa quê hương là sự nỗ lực của các nhà thơ dân tộc Tày. Họ được nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa giàu tính truyền thống và chính họ đã góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc mình qua những trang thơ. Tác giả Triệu Kim Văn trong bài “Thơ phải bắt kịp thời đại” [24] đã nhận định: “Không đi sâu vào học thuật nhưng có thể thấy thơ Bắc Kạn dẫu không vượt trội so với thơ trong khu vực song có những nét đặc sắc riêng”. Ông cho rằng thơ Bắc Kạn dù còn “non” nhưng vẫn luôn tạo được sự quan tâm chú ý của các nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc gần xa. Quê hương có ảnh hưởng sâu sắc đến con người và hồn thơ Dương Khâu Luông. Với ông, quê hương là mạch nguồn cảm xúc nuôi dưỡng tâm hồn thơ. Có lẽ vì thế mà tác giả Đỗ Thị Thu Huyền đã định danh hồn thơ ông bằng những mệnh đề gắn liền với Quê hương – Đất Mẹ: “Dương Khâu Luông – người nặng lòng với văn hóa quê hương”; “Dương Khâu Luông – người hát trên đất mẹ”. Cùng với quê hương, gia đình là yếu tố chi phối rất lớn đến sự nghiệp sáng tác của Dương Khâu Luông. Nhà thơ sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Tày đông anh em; ông bà, cha mẹ là những người nông dân thuần phác, sống bằng trồng trọt nương rẫy nhưng luôn động viên con cháu cố gắng học hành. Trong buổi gặp gỡ, trao đổi với Dương Khâu Luông tại Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bắc Kạn (2012), tác giả luận văn từng được nghe nhà thơ 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan